Đề tài Cây lúa với nền văn minh lúa nước của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á

MỤC LỤC

Phần mở đầu 1

Chương 1. Điều kiện để hình thành nghề lúa ở Đông Nam Á 2

1. Điều kiện khí hậu và các vụ lúa ở Đông Nam Á. 3

1.1. Điều kiện khí hậu. 3

1.2. Các vụ lúa ở Đông Nam Á. 5

2. Địa bàn trồng lúa và loại lúa ở Đông Nam Á. 7

2.1. Địa bàn trồng lúa. 7

2.2. Các loại lúa chính 8

2.2.1. Lúa cạn. 8

2.2.2. Lúa nước. 9

3. Vai trò văn hoá của cây lúa. 11

Chương 2. Nghề trồng lúa của Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á. 13

Chương 3. Nét văn hoá truyền thống từ nghề làm lúa ở Đông Nam Á. 19

1. Tín ngưỡng. 19

2. Lễ hội. 22

3. Một số tín ngưỡng và lễ hội tiêu biểu từ cư dân trồng lúa ở Đông Nam Á. 23

3.1. Tín ngưỡng hồn lúa 23

3.2. Tín ngưỡng thờ nước. 27

3.3. Hội xuống đồng ở Việt Nam 30

Phần kết luận 33

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9078 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cây lúa với nền văn minh lúa nước của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m mặn, đất phèn khá rộng. Châu thổ sông Hồng có hệ thống đê điều khá dầy đặc để chống lụt nên có những loại đất ngoài đê được bồi hàng năm và có hàm lượng chất dinh dưỡng tương đối cao. Các đồng bằng miền trung Việt Nam có nhiều thành phần phù sa biển lại có những con sông ngắn tương đối ít phù sa từ dãy Trường Sơn chảy xuống nên nói chung ít màu mỡ hơn. Ở Inđônêxia, những đồng bằng ven biển ở Bắc Java cũng được bồi đắp bằng những con sông chảy từ những dãy núi trung tâm xuống như các sông Kali Sola, Kali Bran. Ở Philippin, vùng trồng lúa nước quan trọng nhất là đồng bằng trung tâm đảo Luzon do phù sa sông Pampaga bồi đắp nên, rồi đến châu thổ nhỏ hơn của sông Cagaygan ở phía Đông Bắc đảo này. Ở Mailaixia, lúa nước cũng được trồng chủ yếu ở một số vùng đồng bằng ven biển, nhất là vùng Tây Malaixia. Đáng chú ý là đồng bằng trồng lúa của bang Keda ở Tây Bắc bán đảo Tây Malaixia, được coi là “vựa lúa” của Malaixia. 3. Vai trò văn hoá của cây lúa. Cây lúa có ba vai trò quan trọng trong việc hình thành nét văn hoá cho cư dân bản địa. Cây lúa nước thúc đẩy quá trình đi tìm và khai thác các đồng bằng châu thổ. Người Miến đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Irrawady xuống Trung Myanma rồi Hạ Myanma. Người Thái đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Chao Phraya xuống Trung Thái Lan rồi Nam Thái Lan. Người Việt đi từ trung du xuống đồng bằng châu thổ sông Hồng, rồi đi tiếp qua miền Trung đồng bằng châu thổ sông Mê Kông. Các dòng sông ở Đông Nam Á giữ vai trò chủ yếu trong việc hình thành nên những loại đất thích hợp cho cây lúa nước, đó là phù sa chảy qua những vùng núi tương đối trẻ ở phía Bắc, có những sườn dốc dễ bị xói mòn với nhiều loại đá kết tầng, những con sông lơn đã đưa về các châu thổ những loại phù sa màu mỡ, ít có đối với những con sông khác trên thế giới. Cây lúa nước thúc đẩy quá trình hình thành các tổ chức xã hội, làng và các quốc gia nông nghiệp. Ở Đông Nam Á có hai loại quốc gia nảy sinh trên sự phát triển của nông nghiệp lúa nước. Hai là những quốc gia nảy sinh trên nhu cầu của giao thương quốc tế. Theo Yumio Sakurai, do sự phát triển của nông nghiệp lúa nước, cho nên ở các thung lũng và ở các châu thổ đã hình thành những nơi tụ cư lớn mà ở Đông Nam Á người ta hay gọi là mường, một tổ chức xã hội khá chặt chẽ. Sakurai gọi mường là tổ chức tiền quốc gia, Đông Nam Á có hai loại quốc gia: quốc gia nội địa, với nền kinh tế dựa trên việc trồng lúa tưới nước, cùng với những đặc điểm xã hội là: tổ chức xã hội phân chia đẳng cáp tập trung ở các kinh thành đô thị, một tầng lớp nông dân đông đảo ở thôn quê lo sản xuất lương thực, một bộ máy quan liêu và một đội ngũ tăng lữ chủ yếu sống ở thành thị phụ thuộc vào nhà vua. Lãnh địa bến cảng ở cảng biểnm cửa sông thường có, một ông vua, một tầng lớp buôn bán đông đảo, một lớp người phục dịch. Những người làm nghề nông định cư chiếm tuyệt đại đa số cư dân Đông Nam Á, lấy việc trồng lúa nước làm cơ sở sinh sống, họ vừa làm ruộng vừa làm vườn. Tổ chức xã hội dựa trên cơ sở gia đình, làng mạc và sau này là nhà nước. Cây lúa nước thúc đẩy hình thành nên văn hoá nông nghiệp. Nhìn từ mối quan hệ với đất đai, nền văn hoá nông nghiệp có những đặc điểm sau: bám đất, tự túc, hướng nội, đóng cửa. Chương 2. Nghề trồng lúa của Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á. Tài liệu nghiên cứu về nhiều mặt cũng như những phát hiện khảo cổ học gần đây đã dẫn đến kêt luận là nghề trồng lúa Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, cây lúa trồng là một cây “bản địa”, nông dân Việt Nam đã là những người trồng lúa giỏi từ nghìn xưa, và trong những hoàn cảnh sản xuất khác nhau đã tích luỹ được cả một kho tàng kinh nghiệm trồng lúa phong phú và độc đáo. Những tài liệu đã được giới thiệu ở các chương trên đã cho thấy là nghề trồng lúa Việt Nam đã phản ánh những sắc thái chung của vùng trồng lúa Đông Nam Á, đồng thời cũng có những nét đặc thù, nảy sinh sản xuất và lao động cần cù của dân tộc Việt Nam, tất cả đã làm nổi bật một số đặc điểm chủ yếu của cấy lúa Việt Nam. Đất nước Việt Nam ngoài các vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc và dãu Trường Sơn hùng vĩ, còn gồm hai châu thổ rộng lớn: châu thổ sông Hồng ở phía Bắc, châu thổ sông Cửu Long ở phía Nam và một loạt những châu thổ nhỏ hẹp hơn của các dòng sông tương đối ngắn hơn, và chạy dọc theo ven biển miền Trung. Cũng như các châu thổ ở các nước khác ở Đông Nam Á, các châu thổ ở Việt Nam đều được dành chủ yếu để gieo trồng lúa. Lịch sử khai thác các loại châu thổ này đã có những thời gian dài ngắn khác nhau, theo lịch sử phát triển cảu dân tộc Việt Nam. Được khai thác sớm nhất là châu thổ sông Hồng, đã được gieo trồng lúa nước từ trước đây 4000 năm, và có thể còn xa hơn thế nữa. Châu thổ này với nền văn hoá sông Hồng, lấy cây lúa nước la loại cây trồng chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp, đã được sức lao động cần cù và bền bỉ của nhiều thế hệ nông dân Việt Nam qua hàng chục thế kỷ làm cho biến đổi sâu sắc: hệ thống đê điều dày đặc, dọc theo hai bên bờ của những sông ngòi lớn nhỏ, những sông tự nhiên, cũng như con sông đào do bàn tay người xây dựng đã làm cho phần lớn ruộng đất ở châu thổ hầu như thoát khỏi ảnh hưởng thường xuyên của lũ hàng năm của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, và tiến triển theo những quy luật đặc thù của đất lúa nước, được sử dụng để trồng lúa nước trong nhiều tháng trong năm, ngay cả trong mùa đông lạnh và tương đối khô, do đã bắt đầu có nước dự trữ ở những vùng sâu, và sau này với sự phát triển của thuỷ lợi cũng đã có nước ở những cánh đồng tương đối ít sâu hơn. Được khai thác sớm nhất, châu thổ sông Hồng cũng cho phép dân số tập trung sớm nhất, và mật độ dân số ngày càng tăng đã tạo điều kiện và thúc đẩy việc trồng lúa, sớm đi vào thâm canh, chủ yếu bằng cách dùng lao động thủ công ngày càng nhiều trên một đơn vị diện tích, với những cách làm mạ, làm đất, cấy lúa, chăm sóc khá tinh vi. Biện pháp bón phân tập trung dúi vào từng gốc lúa, cho đến những năm sau cách mạng tháng Tám đã khá quen thuộc với nông dân ở một số vùng của Hà Đông. Người ta đã dùng những hạt đậu tương lép rồi đến cả đậu tương chắc để sau khi cấy lúa đã bén rễ xong, thì đem bón bằng cách dúi vào gốc lúa từ 1 đến 2 hạt. Khi bắt đầu dùng phân hoá học thì nông dân ở đây trước tiên dùng những mảnh giấy con gói một lượng phân đạm bằng hạt ngô, và sau này thì trộn phân đạm với đất nhão để vo viên dúi vào gốc lúa. Hay trong việc làm đất đối với vụ lúa chiêm, nông dân ở Thái Binh và Nam Nam Định cũ đã dùng sức người để xếp những hòn đất đã cày trong ruộng thành những bức tường thấp dọc theo bờ dài của thửa ruộng để cho gió thổi bốn bề, nắng hanh làm đất mau khô: cách xếp ải này đã có hiệu quả tăng năng suất lúa chiếm khá rõ. Một vài thí dụ trên, trong rất nhiều thí dụ khác có thể kể ra đối với nhiều khâu canh tác khác, cũng đủ để nói lên trình độ và mức độ dùng lao động thủ công trong việc trồng lúa ở châu thổ sông Hồng. Với những cơ sở vật chất và kỹ thuật nghèo nàn của nông nghiệp phong kiến kéo dài hàng mấy nghìn năm, năng suất lúa tất nhiên là không cao, nhưng việc trồng lúa bằng nhiều lao động thủ công như vậy và việc tận dụng mọi mảnh đất có thể trồng lúa được đã cung cấp được một khối lượng lương thực ngày càng nhiều với một số dân ngày càng tăng. Châu thổ sông Hồng vì vậy đã trở thành vùng có mật độ dân số cao nhất ở Việt Nam không những hiện nay mà cả trong quá trình phát triển lịch sử của đất nước. Châu thổ sông Hồng ngày nay cũng thuộc những vùng có mật độ dân số cao nhất thế giới, có những địa phương có mật độ dân số tuyệt đối cao nhất như Thái Bình. Các châu thổ của sông Mã, sông Chu, sông Cả ở Bắc Trung bộ cũng đã được khai thác tương đối sớm, nhưng trình độ khai thác ở đây phần nào thấp hơn trình độ khai thác của châu thổ sông Hồng. Do vị trí của các dãy núi ở phía Tây, các dòng sông ở đây không dài lắm, lượng phù sa cũng không cao, dòng sông lại tương đối dốc, nước thoát nhanh nên đê ven sông thấp hơn đê sông Hồng và cũng đơn giản hơn, đất cũng kém phì nhiêu hơn, chưa kể những vùng ven biển từ Tĩnh Gia trở vào lại có những vùng đất cát biển rời rạc ít màu, kém giữ nước. Trình độ thâm canh lúa ở đây vì vậy đã thấp hơn trình độ thâm canh của châu thổ sông Hồng. Dọc duyên hải miền Trung từ đèo Ngang trở vào cho đến Thuận Hải, với vị trí của dãy Trường Sơn án ngữ phía Tây, với những dòng sông nói chung là ngắn chảy từ Tây sang Đông, lại ít phù sa, đã hình thành nhiều châu thổ nói chung là hẹp và cách quãng nhau. Các châu thổ này cũng đã được khai thác dần, sớm hay muộn trong quá trình dân tộc Việt Nam phát triển từ Bắc vào Nam. Những hoàn cảnh sản xuất mới, không cho phép lặp lại ở đây nguyên vẹn những kinh nghiệm khai thác châu thổ sông Hồng hay các châu thổ khác ở Bắc Trung Bộ. Sông ngắn, địa bàn theo thể mái nhà, lũ mạnh trong mùa mưa và cũng lại rút nhanh, người ta không cần và cũng không thể đắp những hệ thống đề dày đặc để ngăn nước chống lũ bảo vệ ruộng lúa, mà phải bố trí thời vụ cho thật khớp với qui luật của lũ lụt hàng năm. Đất ven biển, cát nhiều khó giũ nước, và mưa nắng lại thất thường, không cho phép ở đâu cũng áp dụng kỹ thuật gieo mạ rồi cấy vào ruộng có nước sẵn đã chuẩn bị kỹ. Gieo thẳng, trĩa, vãi trên những loại đất khô chua có nước, gieo ngay từ trước mùa mưa và đợi mưa cho lúa sinh trưởng tốt và dùng những giống dài ngày, chỉ trổ sau khi mùa mưa bão đã qua để được gặt an toàn vào cuối năm là một biện pháp trồng lúa đã được áp dụng từ lâu ở đây, để sử dụng các loại đất ven biển. Nhưng người ta cũng đã có nhiều cố gắng để tranh thủ chủ động nước trên một số vùng nhất định của các châu thổ, những nơi cơ nguồn nước và cũng có khả năng tiêu nước trong mùa lũ, để chủ động trồng lúa nước theo kỹ thuật gieo và cấy phổ biến của châu thổ sông Hồng. Ở đây cũng đã có những kinh nghiệm khá tinh vi trong việc lấy nước vào ruộng; những guồng nước chuyển động với dòng nước chảy của Quảng Nam, Quảng Ngãi và tuỳ theo dòng chảy mà được lắp từng cặp hay từng bộ gồm nhiều xe nối tiếp nhau..., cũng nói lên những cố gắng và những sáng tạo của nông dân các vùng này trong việc tìm nguồn nước để cấy lúa. Tuy nhiên diện tích những địa bàn chủ động nước này không nhiều lắm và trước đây cũng phát triển một cách chậm chạp, do các công trình thuỷ lợi qui mô lớn chưa được xây dựng bao nhiêu. Và các địa bàn lúa nước của mỗi châu thổ đều cũng đã là những nơi tập trung dân số với mật độ cao. Những đảo lộn do mấy chục năm chiến tranh vừa tăng nhanh một cách đặc biệt. Châu thổ sông Cửu Long ở miền Nam là châu thổ rộng nhất của Việt Nam, và cũng là một châu thổ quan trọng của vung Đông Nam Á. Châu thổ này được khai thác muộn nhất, chỉ vào khoảng từ 500 – 600 năm trở lại đây, và chủ yếu cùng là để trồng lúa. Châu thổ sông Cửu Long đã sớm trở thành vựa lúa của Việt Nam do diện tích rộng, tiềm năng lớn, điều kiện thời tiết, thuỷ văn, địa hình và cả thổ nhưỡng có nhiều mặt thuận lợi đối với nghề trồng lúa. Châu thổ này chưa được khai thác hết và còn đang trong quá trình hình thành. Ven sông không có đê, nước sông tràn dễ dàng vào ruộng lúa trong mùa lũ đem lại một khối lượng phù sa khá lớn với khối nước lớn chảy qua châu thổ. Việc dùng lao động trong nghề trồng lúa ở đây đã ít hơn nhiều so với các châu thổ duyên hải Trung bộ hay châu thổ sông Hồng, do mật độ dân số ở đây thấp hơn và do những thuận lợi tự nhiên của châu thổ này. Tuy mật độ dân số ở châu thổ sông Cửu Long có thấp hơn mật độ dân số của các châu thổ dọc duyên hải Trung bộ và nhất là của châu thổ sông Hồng, nhưng mật độ này vẫn cao hơn nhiều so với mật độ của các vùng đất cao của vùng Đông Nam Bộ hay Tây Nguyên. Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với lịch sử phát triển của nghề trồng lúa ở Việt Nam. Trong quá trình phát triển từ Bắc vào Nam, tổ tiên ta đã lấy cây lúa nước làm loại cây trồng chính để khai phá đất hoang, mở thêm diện tích trồng trọt, mở mang bờ cõi, biển đầm lầy và rừng rậm thành những đồng lúa phì nhiêu. Quá trình đấu tranh để phát triển sản xuất nông nghiệp và nhất là để phát triển nghề trống lúa, phát triển diện tích cũng như đúc rút kinh nghiệm nâng kỹ thuật trống lúa lên trình độ cao hơn, và có những trường hợp đến trình độ khá tin vi với số lượng lao động thủ công dùng khá nhiều. Có một quan hệ khá mật thiết giữa diện tích lúa và mật độ dân số. Ngay ở miền núi Việt Bắc, Tây Bắc, những bản làng trù phú tương đối đông dân. Cũng có quan hệ khá mật thiết giữa mật độ dân số và mức độ dùng lao động thủ công để thâm canh lúa ở mỗi vùng. Mật độ dân số càng cao thì có khả năng dùng thêm lao động trong nhiều khâu canh tác, để tăng năng suất lúa, để tăng thêm vụ lúa, nhằm đáp ứng yêu cầu về lương thực của mật độ dân số ấy. Không phải ngẫu nhiên mà châu thổ sông Hồng là nơi có trình độ thâm canh lúa với lao động thủ công nhiều nhất, có những kỹ thuật trồng lúa khá tỉ mỉ mà các tác giả nước ngoài cho rằng ở đây người ta đã trồng lúa như trồng hoa. Cũng không phải ngẫu nhiên mà vụ lúa mùa khô đã có hơn 2000 năm lịch sử ở châu thổ sông Hồng và đã dần dần được mở rộng để chiếm một diện tích đạt trên 70% diện tích lúa mùa mưa, trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long đến ngay những năm gần đây trước ngày giải phóng vụ lúa mùa khô hầu như chưa đáng kể, mới chiếm 5 – 7% diện tích đất lúa. Cũng từ ngàn xưa nông dân Việt Nam đã là những người trồng lúa có kinh nghiệm: và trong mỗi địa bàn sản xuất khác nhau, với những điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn... khác nhau, nông dân Việt Nam đã sáng tạo ra những kinh nghiệm, những kỹ thuật trồng lúa có những nét độc đáo, phù hợp với điều kiện thích hợp với thiên nhiên ở từng nơi. Phát hiện từ châu thổ sông Hồng đến các châu thổ phía Nam, nhẽng đặc điểm chủ yếu của nông thôn Việt Nam, vẫn biểu hiện thống nhất với ruộng lúa, bờ tre, và con trâu cày quen thuộc. Những mùa vụ lúa, các loại giống lúa, các công cụ làm đất lúa cũng như các biện pháp canh tác lúa đã có nhiều thay đổi, tất cả để thích nghi với điều kiện sản xuất và cũng để khai thác có thể đúc kết được những kinh nghiệm trồng lúa có những sắc thái đặc thù, nói lên quá trình sáng tạo của các thế hệ nông dân trồng lúa nước ở mỗi địa phương ở Việt Nam. Chương 3. Nét văn hoá truyền thống từ nghề làm lúa ở Đông Nam Á. Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã. 1. Tín ngưỡng. Tín ngưỡng ở Đông Nam Á hình thành rất sớm. Mặc dù ở mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng dân cư có quá trình hình thành và tồn tại của những tín ngưỡng khác nhau, song do có cùng cơ tầng văn hoá nông nghiệp lúa nước trong điều kiện địa lý tự nhiên chung, hình thành nếp sống, lối sống gần gũi cư dân Đông Nam Á cũng có chung yếu tố tín ngưỡng... Những tín ngưỡng bản địa của Đông Nam Á có thể quy tụ thành các yếu tố sau đây: Sùng bái tự nhiên, thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, thờ thần, trong đó cây lúa có vai trò chính trong việc hình thành tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với người Việt Nam cũng như người Đông Nam Á sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần, tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp mà là các Bà mẹ, các Mẫu. Trước hết, đó là Bà Trời, bà Đất, Bà Nước - những nữ thần cai quản các hiện tượng tự nhiên, quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước. Về sau, tuy do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa gốc du mục nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá, song tục thờ bộ ba nữ thần này vẫn lưu truyền trong dân gian dưới dạng tín ngưỡng Tam Phủ với Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu Cửu Trùng hay Cửu Thiên Huyền Nữ). Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải (= thủy) - cai quản ba vùng trời-đất-nước. Nhiều nhà, ở góc sân vẫn có một bàn thờ lộ thiên gọi là bàn thờ Bà Thiên (hay bà Thiên Đài). Nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước tồn tại dưới dạng nữ thần khu vực như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch. Bà Đất còn tồn tại dưới tên gọi Mẹ Đất (Địa Mẫu) . Bà Nước cũng tồn lại dưới tên Bà Thuỷ ( Đi liền với bà Thuỷ là bà Hoả dương tính như lửa mà cũng là Bà, đủ biết chất âm tính của văn hoá Việt mạnh đến như thế nào!). Tục thờ Mặt Trời là một tín ngưỡng bắt nguồn từ vùng nông nghiệp Đông Nam Á. Không trống đồng, thạp đồng nào là không khắc hình mặt trời ở tâm; ở phương Nam, toàn dân thờ trời (bàn thờ bà Thiên Đài), ở Trung Hoa thời Kiệt - Trụ chưa thờ Trời, về sau cũng chỉ có vua (con trời) là thờ trời thôi, dân Trung Hoa không thờ trời (Kinh Xuân Thu ghi : "Dân thờ trời là đắc tội với Thiên tử"). Lễ Nam giao và lễ Tịch Điền mà trước đây triều đình thường tổ chức có thể xem là một hình thức nhà nước hoá tục Trời và thờ Đất. Tiếp theo trời - đất - nước là các bà Mây – Mưa - Sấm - Chớp những hiện tượng tự nhiên có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đến khi đạo Phật vào Việt nam và Đông Nam Á, nhóm nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp này được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp : Pháp Vân (thần Mây) thờ ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi (Thần Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn. Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lí, nhiều lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí rước theo đoàn quân đi đánh giặc... Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời gian. Thần không gian được hình dung thco nguyên lí Ngũ Hành Nương Nương. Ngũ Phương chi thần coi sóc trung ương và bốn hướng; Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngả đường. Theo địa chí, người ta thờ thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị coi sóc một năm thco Tí, Sửu, Dần, Mão,...). Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận nên 12 nữ thần này đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở - đó là Mười Hai Bà Mụ. Trong mảng tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên còn có việc Thờ Động vật và thực vật . Trong khi nếp sống trọng sức mạnh của loại hình văn hóa gỗc du mục dẫn đến tục tôn thờ những con thú dữ (như chó sói, hổ, chim ưng, đại bàng....) thì nếp sống tình cảm, hiếu hòa của loại hình văn hóa nông nghiệp dẫn người Việt Nam và Đông Nam Á đến tục thờ các con thú hiền như hươu, nai, trâu, cóc...; riêng loại hình nông nghiệp lúa nước của ta còn thờ một số động vật sống ở nước như: chim, nước, rắn, cá sấu. Chim, rắn, cá sấu chính là những loài phổ biến hơn cả ở vùng sông nước, và do vậy, thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu. Người Việt có câu: nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng. Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nông nghiệp còn đẩy các con vật này lên mức biểu trưng: Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc "họ Hồng Bàng" và là "giống Rồng Tiên" (thành ngữ : con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên). Hồng Bàng chính là một loài chim nước lớn ("bàng" là lớn, chữ "hồng"(chữ Hán) ghép bởi chữ giang là sông nước và chữ điểu là chim). Tiên Rồng là một cặp đôi (chỉ có dân tư duy theo lối triết lí âm dương mới có vật tổ cặp đôi), trong đó Tiên được trừu tượng hoá từ giống chim (cho nên mẹ Âu Cơ đẻ trứng ! ), còn Rồng được trừu tượng hoá từ hai loại bò sát rắn và cá sấu có rất nhiều ở vùng nước Đông Nam á. Hình tượng Con Rồng vốn xuất phát từ vùng Đông Nam á - đó là điều đã được giới khoa học khẳng định. Nếp sống tình cảm hiếu hòa của người nông nghiệp đã biến con cá sấu ác thành con rồng hiền, con vật phù hộ cho người dân nông nghiệp. Hình cá sấu là mô típ trang trí khá phổ biến trong các đồ đồng Đông Sơn. Cá Sấu - Rồng được coi là chúa tể cai quản vùng sông nước với tên gọi Bua Khú (Vua Sấu) ở người Mường, Long Quân, Long Vương ở người Việt. Con Rồng Việt Nam mang đầy đủ hai nét đặc trưng cơ bản của tư duy nông nghiệp là tổng hợp và linh hoạt : là kết hợp của cá sấu và rắn, sinh ra từ nước và bay lên trời, bay lên trời mà không cần phải có cánh, miệng vừa phun nước vừa phun lửa. Rất nhiều địa danh Việt Nam được đặt tên "rồng": Hàm Rồng, Hàm Long, Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Bạch Long Vĩ, Long Đỗ, Long Điền, Long Môn, v.v. Từ vùng Đông Nam á này, hình tượng con rồng đã được hội nhập vào văn hóa Trung Hoa và đồng thời được đưa đến những vùng xa xôi nhất của châu Âu từ rất sớm. Ở những xứ này con rồng đã bị dương tính hóa : thân hình thì thu ngắn lại và giống thú, còn tính cách thì ác độc và dữ tợn. Đến phương Tây, nó được xem như một con vật xấu xa và còn bị lối tư duy phân tích gán thêm cho đôi cánh. Cây Lúa là loài thực vật được tôn sùng nhất: khắp nơi - dù là vùng người Việt hay vùng các dân tộc - đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,...Thứ đến các loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, quả Bầu,.... 2. Lễ hội. Trên cơ tầng văn hoá nông nghiệp luá nước, Đông Nam Á là nơi ra đời và tồn tại của nhiều lễ hội đặc sắc và độc đáo thống nhất trong vùng văn hoá Đông Nam Á. Những lẽ hội nổi trội làm nên những thành tựu của văn minh Đông Nam Á. Có vô số lễ hội lớn nhỏ ở mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng dân tộc ở Đông Nam Á trong một năm. Vì thế chưa có nhà nghiên cứu nào thống kê đầy đủ và cho ra con số chính xác. Nhưng có những lễ hội tiểu biểu ở Đông Nam Á trước hết đó là những lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp, liên quan đến mùa màng, gieo trồng và thu hái. Ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, tổ chức lễ hội, hình thức thể hiện có khác nhau do tác động của tín ngưỡng, tôn giáo và tập quán dân gian. Lễ hội ở Đông Nam Á có thể kể đến như những giá trị nổi bật. Đây là những lễ hội gắn liền với nông nghiệp là lễ Mở Đường Cày của người Thái, Hội Mùa ở Sahu (Inđônêxia), lễ Xuống Đồng của Việt Nam, lễ Ban Giống Lúa Thiêng và lễ Té Nước của người Khơ me ở Cămpuchia, lễ hội Bun Khua Khau Nay Lan của người Lào... Những lễ hội này gồm cả phần hội với nhiều trò chơi dân gian sôi động. Sự tham gia của đông đảo cộng đồng dân cư đã góp phần gắn kết cộng đồng, giáo dục lòng yêu lao động, trân trọng với sản xuất nông nghiệp. Có thể nói lẽ hội gắn liền với nông nghiệp ở Đông Nam Á là lễ hội lớn và phổ biến của hầu hết cư dân Đông Nam Á. Lễ hội này tồn tại qua nhiều thế kỷ và còn đến ngày nay, dù hình thức và quy mô có những thay đổi. 3. Một số tín ngưỡng và lễ hội tiêu biểu từ cư dân trồng lúa ở Đông Nam Á. 3.1. Tín ngưỡng hồn lúa Ở Đông Nam Á bản thân lúa được tôn thờ như một tôn giáo. Năm 1954, ông bà Proux có viết cuốn sách là “Hồn lúa”, nói về tín ngưỡng hồn lúa của người Ê đê: “Cột trụ của cuộc sống ở Đăk lăk là một thứ lúa tuyệt vời... Lúa là thức ăn chủ yếu. Lúa do thần linh ban cho. Lúa là thần linh” Trong cuốn sách nói về người Lamet ở Bắc Lào, một học giả Thụy Điển K.G.Izikowitz có viết: “Lúa có linh hồn, giống như con người. Nếu hồn lúa bỏ đi… sẽ dẫn đến đói kém. Nó là một vật nhẹ rất dễ lạc đi nơi khác. Vì vậy, nó phải được dẫn dắt và hướng dẫn đi đúng đường, và một khi đã nắm giữ được thì phải cột nó vào đá, cũng giống như buộc giữ một người ở trong hang vậy… Không có cây trồng nào khác có hồn”. Người Tagbanuwa ở Philippin cho rằng: lúa là cây thiêng, một tặng vật của thần kinh, và là lương thực đích thực của con người và các thần linh. Mặc dù người Tagbanuwa còn trồng nhiều loại cây khác nữa, ở ruộng có bắp kê, ở vườn có khoai lang, đậu, chuối…, nhưng chỉ có bắp là còn có một ít nghi lễ mà thôi. Người ta không dùng khoai lang hay sắn để cúng. Ở Java, cây lúa nước gắn với nghi lễ phồn thực và thuộc về nữ tính là hiện thân của nữ thần Devi Sri. Do vậy có nhiều cấm kỵ đối với đàn ông trong sự tiếp xúc với cây lúa. Đàn ông không được gần nữ thần lúa. Họ chỉ làm các công việc cày bừa, chuẩn bị đất…, còn các công việc gieo hạt, nhổ mạ, cấy lúa, tưới bón chỉ phụ nữ mới được làm. Bên cạnh nữ thần lúa là Deci Sri, còn có nam thần là Wisna (còn gọi là Sedona). Đến mùa gặt, sau khi gặt hái xong và thóc đã chuyển vào kho, người ta làm lễ cưới cho hai vị thần ấy. Người Malaixia, theo truyền thống, xem cây, đá, sông, lúa đều có hồn như một sức mạnh bảo hộ hay là sự sống đích thực của chính sự vật đó. Những nghi lễ về lúa rất nhiều, nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với môi trường. Cây lúa được đối xử rất tử tế vì nó nuôi sống con người. Có khi lúa được gọi là công chúa và được trông nom hết sức cẩn thận từ khi gieo đến khi gặt vào kho. Cấm không được gõ, đập, đá vào bồ lúa, kho lúa vì làm như vậy hồn lúa sợ bỏ đi, và mùa sau sẽ mất mùa. Người Khmer

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc66227.DOC