Mục lục
PHẦN I.
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài Trang
2.Sơ lựơc quá trình nghiên cứu Trang
3.Mục tiêu Trang
4.Câu hỏi nghiên cứu Trang
5.Đối tượng nghiên cứu.Trang
6.Phạm vi
7.Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học. Trang
7.1.Ý nghĩa khoa học. Trang
7.2.Ý nghĩa thực tiễn. Trang
8.Phương pháp thu thập thông tin Trang
9.Xử lý số liệu Trang
10.Khó khăn trong việc thu thập thông tin Trang
PHẦN II
CHƯƠNG I
CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
BỐI CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ NẢY SINH
I.Những khái niệm liên quan đến đề tài Trang
1. Trẻ em đường phố Trang
2.Trẻ em lao động sớm Trang
3.Trẻ em có hòan cảnh khó khăn Trang
4.Hội nhập xã hội Trang
5.Trẻ em lao động sớm Trang
II.Bối cảnh KT-XH hiện nay Trang
1.Những thành quả đạt được về mặt KT-XH Trang
2.Những vấn đề xã hội nảy sinh Trang
3.Hậu quả của vấn đề lao động sớm ở trẻ em Trang
CHƯƠNG II
CHÂN DUNG TRẺ EM LAO ĐỘNG SỚM
I.Những thông tin nhân thân Trang
II.Những nguyên nhân dẫn đến trẻ lao động sớm Trang
III.Những khó khăn hiện tại của các em trong cuộc sống Trang
IV.Mong muốn của các em.
1.Mong muốn của trẻ đối với các cơ sở xã hội Trang
2.Mong muốn của trẻ từ giáo dục viên (nhân viên xã hội) Trang
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ MÔ HÌNH CHĂM SÓC
CHO TRẺ LAO ĐỘNG SỚM
1.Kết luận Trang
2.Khuyến nghị mô hình chăm sóc cho trẻ lao động sớm
Mô hình cho trẻ em lao động sớm Trang
Tài liệu tham khảo: Trang
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3569 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chân dung trẻ em lao động sớm tại quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heä thoáng xaõ hoäi neân ôû heä thoáng naøy noù cuõng laø heä quaû vaø/hoaëc laø yeáu toá cuûa bieán ñoåi vaên hoaù xaõ hoäi”
5.Khái niệm về trẻ em.
Là thành viên trong xã hội nhưng khác với người lớn, trẻ đang phát triển và cần có được điều kiện tối ưu để phát triển. Điều kiện này thay đổi theo mỗi hoàn cảnh, có mặt mạnh mặt yếu, mặt mạnh sẽ giảm bớt thiệt hại do mặt yếu gây ra. Thí dụ: Con nhà nghèo không được cha mẹ thương yêu quan tâm, mồ côi nhưng được cha mẹ nuôi hết lòng chăm sóc, khuyết tật nhưng được nhà nước, cộng đồng và gia đình kết hợp tốt nên cuộc sống được an ủi thoải mái Trích: An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. Chủ biên: Nguyễn Thị Oanh, 1997, T29
II.Bối cảnh Kinh tế-Xã hội hiện nay
1.Những thành quả đạt được về mặt Kinh tế-Xã hội
Việt nam đã và đang phát triển và hội nhập vào quỹ đạo quay của thế giới.Với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam đã dần xây dựng cho mình một nền công nghiệp khá hoàn chỉnh với đầy đủ các ngành nghề. Với nông nghiệp Việt Nam đang cố gắng trở thành nước xuất khẩy gạo lớn nhất thế giới(2007),trung bình hiện nay nước ta xuất khẩu từ 4-5 triệu tấn/năm. Bên cạnh đó các ngánh nghề nông nghiệp khác cũng đang phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành sản xuất chính ở các vùng trung du, nông thôn, miền núi…Dịch vụ và thương mại của nước ta cũng đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ. Đặc biệt từ sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO(7-2007),tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của ta tăng nhanh đặc biệt là các mặt hàng thuộc ngành công nghiệp nhẹ. Tính đến cuối tháng 5-2007 kim ngạch xuất khẩu của nước ta đạt đến 198 triệu USD tăng 38,5% so với cùng kì năm ngoái. Mặt khắc nước ta với chủ trương thực hiện nền “kinh tế mở” đã thu hút được đầu tư nước ngoài vào nước ta ngày càng cao. Tính đến nay doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tổng số vốn trên 80 tỷ USD (2/2008). Nhờ vậy nên nền kinh tế Việt nam trong những năm gần đây đã phát triển một cách nhanh chóng. Một phần nữa do có sự trao đổi kỹ thuật-khoa học với các nước phát triển đã tác động lớn đến trình độ phát triển KH-KT của Việt Nam.Nhờ sự hợp tác đó mà trình độ sản xuất, sản lượng, chất lượng hàng hóa ngày càng cao. Bên cạnh đó nhờ đổi mới trong công tác quản lý mà Việt Nam có thể phát triển thêm nhiều ngành quan trọng như quốc phòng, quân sự, hàng không…Dẫn chứng tiêu biểu nhất là Việt Nam đã phóng thành công vệ tinh VINASAT-1 vào ngày 19/4/2008 đã mở ra cho Việt Nam một ngành khoa học mới, là cơ hội lớn để Việt Nam bước vào sự phát triển chung của cả thế giới.
Trong những năm trở lại đây sự phát triển về kinh tế của nước ta đã kéo theo nhiều cơ hội việc làm cho người dân, tạo thu nhập ổn định cho đại bộ phận dân số nước ta. GDP tăng mạnh, đến năm 2007 tăng đến 8,5%. Chỉ số phát triển con người tăng mạnh(HDI) đạt 0,733. Đời sống người dân được nâng cao rõ rệt, đặc biệt là người dân sống ở các thành phố lớn.
Bên cạnh sự phát triển kinh tế thì văn hóa nước ta cũng có sự phát triển sâu sắc. Một mặt tiếp thu nền văn hóa hội nhập của thế giới nhưng mặt khác cũng phát huy và kế thừa nền văn hóa truyền thống. Nước ta còn đẩy mạnh phát triển và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều kiện cho nền văn hóa nước nhà hội nhập một cách dễ dàng và có chỗ đứng trong nền văn hóa thế giới.
Chỉ mới trong vài năm trở lại đây, với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, nước ta đã đạt được những thành quả to lớn đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, TP.HCM là một thành phố lớn của đất nước đã và đang chuyển mình trên tất cả các lĩnh vực: KT-VH-XH
TP.HCM là vùng kinh tế phát triển sôi động nhất cả nước, là một trong những vùng kinh tế trọng điểm cúa cả nước. Với diện tích 2.085km2, dân số lên tới 5.285.000 người(2003). TP.HCM có nền kinh tế phát triển nhất trong cả nước, công nghiệp nhẹ và công nghiệp điện tử là hai ngành phát triển nhất(điện tử phát triển mạnh trong những năm gần đây). Đặc biệt ở TP.HCM xây dựng được một hệ thống khu công nghiệp và khu chế xuất với quy mô lớn nhất cả nước. Hiện nay TP.HCM đã và đang xây dựng 2 khu chế xuất và 11 khu công nghiệp, trong đó 2 khu chế xuất và 8 khu công nghiệp đã đưa vào hoạt động. Vốn đầu tư yêu cầu đối với phát triển hạ tầng trong các khu công nghiệp, khu chế xuất được phê duyệt là 952,2 triệu USD và trên 15,5 nghìn tỷ đồng. Ngoài việc đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật trong khu công nghiệp như hệ thống đường giao thông, cống thoát nước, điện thì các công việc xây dựng ngoài khu công nghiệp đang được nâng cấp và hoàn thiện.
Nhờ sự đầu tư mạnh mẽ vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của nước ta mà nhờ đó các khu công nghiệp, khu chế xuất này đã thu hút được một lượng lớn vốn đâu tư nước ngoài. Chỉ với đầu tư trong nước TP.HCM đã thu hút được 300 dự án với tổng số vốn 6.500 tỷ đồng(2002). Còn với đầu tư nước ngoài đăng ký đạt đến 7,7 tỷ USD (2002).
Với sự thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào làm cho TP.HCM không ngừng mở rộng và phát triển sản xuất(năm 2006 đạt 700 triệu (USD). Không chỉ phát triển kinh tế trên lĩnh vực công nghiệp mà TP.HCM còn đẩy mạnh phát triển công nghiệp dịch vụ và nông nghiệp.
Nhờ sự phát triển không ngừng về kinh tế kéo theo tốc độ GDP của vùng đến 2002 đạt 10,2%. Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra mức đóng góp GDP lớn cho cả nước. Tỷ trọng GDP của TP.HCM chiếm 1|3 GDP của cả nước. Bên cạnh đó giá trị công nghiệp dịch vụ tính đến 2002 là 76,66 nghìn tỷ đồng, gấp 2,2 lần Bà Rịa Vũng Tàu, 3.7 lần Hà Nội.Nền kinh tế quốc doanh của TP.HCM vẫn giữ vai trò vị trí chi phối, đóng góp 15% GDP của cả nước.
Hòa vào sự phát triển chung của cả nước,TP.HCM đã và đang bước vào con đường hội nhập quốc tế, với xu hướng toàn cầu hóa. Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO)thì sản lượng xuất nhập khẩu của thành phố cũng tăng ở mức đáng kể. Và cũng nhờ đó mà thị trường buôn bán của nước ta ngày càng được mở rộng và đa dạng hơn. Các thị trường lớn như:Mỹ, Đông Âu, Nhật Bản, nước ta còn mở rộng và phát triển mạnh ở thị trường ASEAN, EU, MICS…mặt khácTP.HCM là cửa ngõ trọng yếu của khu vực và đó cũng là cầu nối trọng yếu để giao thương nước ta ra thị trường khu vực và thế giới.
Trong nhiều năm trở lại đây, bên cạnh phát triển mạnh mẽ về kinh tế,thì TP.HCM cũng có một nền giáo dục phát triển không kém. Tỷ lệ lao động có trình độ cao chiếm tỷ lệ lớn trong ngành công nghiệp, chỉ số phát triển con người (HDI) cũng tăng nhanh và cao hơn chỉ số HDI trung bình của cả nước. Tỷ lệ phổ cập giáo dục chiếm tỷ lệ cao của cả nước, đời sống người dân được nâng cao rõ rệt.
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế nên TP.HCM đã thu hút được một lượng dân cư từ các vùng khác di cư đến góp phần làm phong phú thị trường lao động của thành phố. Với tốc độ phát triển như vũ bão của nền kinh tế TP.HCM đã kéo theo sự di cư ồ ạt của một khối lượng dân lớn, bên cạnh làm cho lực lượng lao động phong phú thì điều đó còn làm nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết.
2.Những vấn đề xã hội nảy sinh
Bên cạnh những thành tựu mà nước ta, đặc biệt Tp.Hồ Chí Minh đã đạt được trong thời gian qua,chúng ta còn có nhiều tồn tại và yếu kém.
Về kinh tế: tăng trưởng kinh tế của nước ta chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực hiện có. Chất lượng sản phẩm chưa cao, sức cạnh tranh còn hạn chế.Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chưa đồng bộ. Mặc dù đời sống người dân đã được nâng cao nhưng vẫn có sự chênh lệch giữa thành thị với nông thôn, giưa đồng bằng với miền núi.
Về văn hóa:Xuất hiện nhiều lối sống không lành mạnh, tình trạng suy thoái về đạo đức đang diễn ra ngày một nhiều.
Về giáo dục:Vẫn chưa phát huy được hết tiêu chí”Giaó dục là quốc sách hàng đầu”.Đổi mới toàn diện trong giáo dục diễn ra còn chậm, chất lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế phát triển.
Đứng trước những khó khăn và thách thức như vậy đòi hỏi Đảng ta phải có những chính sách cụ thể để khắc phục các khó khăn trước mắt đế đưa đất nước bước sang một thời kì mới của hội nhập và phát triển.
Như đã đề cập ở trên,với cơn sốt phát triển đã làm cho TH.HCM phải chịu sức ép lớn của việc dân cư ồ ạt nhập cư và trở thành lao động chính của thành phố. Những hậu quả mà vấn đề này gây ra đã làm cho thành phố phải đương đầu với hàng loạt các khó khăn, thách thức. Đó là các vấn đề tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm, trộm cắp…Hay vấn đề thất nghiệp là những vấn đề đáng báo động. Và điều mà chúng tôi muốn đề cập tới ở đây đó là hiện tượng lao động sớm ở trẻ em.
Với lượng lao động ồ ạt đổ vào thành phố có cả lao động là trẻ em. Các em kiếm sống cùng với gia đình hoặc đi lang thang để kiếm sống. Việc làm chủ yếu của các em đó là bán vé số, đánh giày, lượm ve chai, làm ở các quán cơm, các xưởng tư nhân…Cuộc sống của các em nhìn chung là khó khăn. Trong số trẻ em lao động sớm phần lớn là các em đã bỏ học để đi làm phụ giúp gia đình. Và với việc các loại văn hóa độc hại từ bên ngoài vào đã tác động rất lớn đến xã hội và đặc biệt là trẻ em đang tham gia lao động trong xã hội. Các em có thể nhiễm bất kì loại văn hóa độc hại nào vì không có kiến thức phòng tránh. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh đáng quan tâm của vấn đề lao động sớm ở trẻ em, đi cùng với nó là hàng loạt các mặt trái của lao động sớm ở trẻ em nảy sinh từ vấn đề xã hội. Nếu chúng ta chỉ nhìn nhận vấn đề ở góc độ tích cực đó là:trẻ em tham gia vào lao động sớm là để giúp đỡ gia đình về mặt kinh tế thì chúng ta không thể thấy được mặt trái của vấn đề.
3.Hậu quả của vấn đề lao động sớm ở trẻ em
Tại sao trẻ em lại phải lên thành phố kiếm sống?Đó là câu hỏi có thể có nhiều đáp án.Phải chăng tình trạng lao động sớm ở trẻ em là vấn đề khách quan mang laị?Liệu rằng các em có được đối xử và sống một cuộc sống như những trẻ em khác hay không?Đó là vấn đề đặt ra và cần giải quyết.
Các em khi tham gia lao động sớm thì các em có thể phải va chạm với cuộc sống đầy phức tạp,các em sẽ rất dễ bị nhiễm các thói hư tật xấu của xã hội. Với độ tuổi và kiến thức của các em không đủ để tránh khỏi việc không bị mắc phải. Ma túy, mại dâm, HIV|AIDS, trộm cắp, đâm thuê chém mướn…đang ngày càng dẫn sâu vào cuộc sống của trẻ lao động sớm. Tất cả trẻ lao động sớm có thể là đối tượng tấn công của bất kì một loại tệ nạn nào. Một thực tế cho thấy đó là hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật là rất cao, mà tập trung chủ yếu ở trẻ em lang thang. Ban ngày đi làm tối về thì tụ tập ở các bến xe, quán nét, các tụ điểm đen Tụ điểm đen theo chúng tôi là nơi tập trung những con nghiện, gái mại dâm, cờ bạc.
và muốn khẳng định mình, các em đã bị cuốn vào các trò vô bổ và các lối sống không lành mạnh, điều đó đã làm hỏng nhân cách của những đứa trẻ mới lớn. Nhìn vào hình ảnh các em mới chỉ 13,14,15 tuổi, đang chích hút, đang phê, đang phục vụ trong các quán ba…thì thật sự chúng ta mới thấy rõ được tác hại của việc lên thành phố kiếm sống khi đang ở lứa tuổi ngồi trên ghế nhà trường.
Do cuộc sống quá khó khăn nên khi đang ở tuổi chơi các em đã phải đi kiếm sống.Bên cạnh việc bị dính vào các tệ bạn xã hội thì một mặt trái nữa đó là:Các em bị đối xử thậm tệ,tra tấn và bóc lột sức lao động.Một thực tế hiện nay cho thấy là số lượng trẻ bị bạo hành rất lớn.Các em vì kiếm sống nên đã chịu đựng để cho chủ bóc lột sức lao động mà không hề có một sự phản kháng nào.Qua phương tiện thông tin đại chúng chúng ta biết được rằng các em vừa bị bóc lột vừa bị tra tấn dã man, cũng chỉ vì muốn kiếm sống. Nhân phẩm của các em bị chà đạp,cuộc sống không khác gì một loài vật.Chúng ta có thể nào khoanh tay đừng nhìn trước tình trạng như vậy không?
Tuổi của các em là tuổi đi học tuổi vui chơi, nhưng các em phải bươn chải khắp thành phố để kiếm sống, phải làm việc trong môi trường độc hại như: hóa chất, khí thải công nghiệp, bụi bẩn, rác thải…và nặng nhọc như: bốc vác, thồ hàng, kéo xe, phụ hồ…Sức khỏe của trẻ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và có thể bị nhiễm bệnh: ung thư, cột sống, viêm phổi, đường ruột…Cộng thêm vào đó là các em sống trong các khu nhà không đảm bảo:nhà ổ chuột, gầm cầu, công viên, vệ đường…
Đó là hậu quả của vấn đề lao động sớm ở trẻ em trên toàn thành phổ Hồ Chị Minh nói chung và khu vực Quận Thủ Đức nói riêng.Thủ Đức là quận vùng ven của Tp.HCM và là nơi giao thoa của nhiều vùng khác vơi nhau, vậ nên số lượng trẻ lao động sớm ở đây trên thực tế khá đông, nhưng do từ nơi khác đến nên không được quản lý và thống kê. Theo thống kê mới nhất của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận Thủ Đức, hiện trên toàn quận có 65.660 trẻ em dưới 16 tuổi, trong đó nữ là 32.584 em, nam là 33.076 em và có 11.916 trẻ tạm trú. Tình trạng bỏ học vào cuối năm 2007 khá nhiều, đặc biệt là ở bậc THCS có 80/14.261 HS, tiểu học là 6/19.738 HS.Khi phải tham gia lao động sớm thì các em không con thời gian và sức lực để giành cho việc học vậy nên một tất yếu là bỏ học đi kiếm sống.Trên địa bàn quận tính đến cuối 2007 có 7 trẻ lang thang và đến quý I năm 2008 tăng lên 13 trẻ.Với tình trạng này các em rất dễ bị dính vào các tệ nạn xã hội dẫn đến hư hỏng. Trong đó Hiệp Bình Chánh là phường có số trẻ lang thang cao nhất: 7 trẻ.Những đứa trẻ đó luôn luôn là đối tượng tấn công của tệ nạn xã hội bất cứ lúc nào.Trên địa bàn quân hiện có 10 trẻ tham gia lao động sớm, theo thống kê của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em các em làm rất nhiều nghề:Phụ hồ, bán vé số, phụ quán cơm, làm ở các xưởng tư nhân…Những công việc mà các em đang làm có một số công việc vượt quá sức của một đứa trẻ như phụ hồ, chạy bàn, vậy nhưng các em vẫn làm vì nó có thu nhập và ổn định. Nhiều trường hợp thường bị ăn tát, những cú đá, những lời chửi bới nhục mạ đã làm tổn hại nghiêm trọng đến nhân phẩm của các em, nhưng các em vẫn tiếp tục làm vi nếu không làm thì không có tiền.
Vậy chúng ta phải làm gì? Hành động như thế nào để ngăn ngừa tối đa những hậu quả của lao động sớm?
CHƯƠNG II
CHÂN DUNG TRẺ EM LAO ĐỘNG SỚM
I- Những thông tin nhân thân.
Qua số liệu và khảo sát chúng tôi đã thu thập được những thông tin liên quan tới thân nhân của trẻ em lao động sớm tại quận Thủ Đức như sau.
Theo thống kê hiện nay của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận Thủ Đức, hiện trên địa bàn quận Thủ Đức có 65.660 trẻ em dưới 16 tuổi, trong đó có 33.076 nam và 32.584 nữ, có 11.916 trẻ tạm trú. Hiện tượng bỏ học tại quận đang diễn ra khá nhiều và tập trung chủ yếu ở lứa tuổi THCS. Có 80/14.261 học sinh THCS bỏ học và ở tiểu học là 6/19.738 học sinh. Vào cuối năm 2007 trên địa bàn quận có 7 trường hợp trẻ lang thang và đến đầu năm 2008 con số đã tăng lên là 13 trường hợp, các em chủ yếu đi một mình để kiếm sống. Theo thống kê mới nhất của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận thì tính đến cuối năm 2007 còn có 16 trường hợp trẻ lao động sớm, các em làm rất nhiều nghề: phụ hồ, bán vé số, phụ quán cơm…Chúng tôi đã có cơ hội để nói chuyện với một số trẻ đang tham gia lao động sớm trên địa bàn quận. Sau đây là 4 trường hợp tiêu biểu mà chúng tôi đã được nói chuyện.
Như trường hợp 01: Khi được hỏi về bản thân thì em cho biết những thông tin liên quan tới em và gia đình em như sau. Em tên là D.P, người dân tộc Khơmer và hiện em đang sống tại huyện Dĩ An- Tỉnh Bình Dương. Năm nay em 13 tuổi và đang học lớp 4, em đang sống cùng với bố mẹ tại Bình Dương. Khi chúng tôi hỏi tại sao em lại phải đi nhặt rác? Em nói tại hôm nay được nghỉ học nên tranh thủ đi làm thêm để giúp bố mẹ, nhà em nghèo lắm nên em mới phải đi như thế này. Em nói nếu nhặt như thế này thì một ngày em được khoảng 10.000đ và số tiền đó thì em đều đưa hết cho bố mẹ. Em vẫn đi học nhưng khi nào được nghỉ là em lại lượm ve chai để có tiền.
Trường hợp 02: Đi cùng với D.P còn có một em nữa cũng lượm rác như D.P em tên là L.V.V quê ở Dĩ An- Bình Dương. Hoàn cảnh của V cũng không khác với D.P là mấy, cũng tại nhà nghèo nên em phải tranh thủ đi nhặt rác để kiếm tiền vào những ngày nghỉ như thế này. Em đang học lớp 4 và hiện đang sống cùng với bố mẹ tại Bình Dương. Cả D.P và V lúc nào không phải đi học là 2 em lại rủ nhau đi nhặt rác để có thêm tiền phụ giúp gia đình.
Trường hợp 03: Khác với trường hợp một và hai, em L.V.S có hoàn cảnh khó khăn hơn. S hiện đang sống tại khu phố 6- Phường Linh Trung- Quận Thủ Đức. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên em đã phải bỏ dở lớp 4 để tham gia kiếm sống cùng với gia đình, em đang bán vé số tại khu vực Suối Tiên để kiếm sống.
Trường hợp 04: B.A là một cô bé đến tư miền Tây, em rất háo hức khi kể về hoàn cảnh gia đình em cho chúng tôi nghe. Em kể lại: ”Gia đình em có 15 người, em là con thứ 12, dưới quê ba mẹ em vay tiền nuôi anh chị nên mắc nợ nhiều. Cả nhà phải lên Sài Gòn để làm thuê”
Khi được hỏi về ước mơ thì B.A trả lời: “Em nuốn đi học lắm, hồi ở quê em học đến lớp 3”. B.A cúi mặt buồn. Giờ em đang lượm ve chai để kiếm sống.
Ngoài những trường hợp chúng tôi vừa đề cập ở trên, còn có rất nhiều các trường hợp các trẻ em khác cũng tham gia kiếm sống và có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Với những hình ảnh mà chúng tôi đã được trực tiếp nói chuyện và quan sát thì một thực tế cho thấy rằng: Các em đã phải để lại đằng sau những mong muốn trẻ thơ để kiếm sống qua ngày.
II. Nguyên nhân dẫn đến trẻ lao động sớm
Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng về kinh tế của TP.HCM, thì chúng ta không khỏi không bắt gặp những hình ảnh” nhếch nhác”, lê lết bẩn thỉu của trẻ ăn xin, trẻ lượm ve chai, bán báo, đánh giày, bán vé số… Tất cả các em mới chỉ ở độ tuổi từ 6- 15 tuổi nhưng đã phải tham gia kiếm sống ngoài xã hội cùng với gia đình.
Bảng 01 sau đây cho thấy những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em ra đường phố để kiếm sống.
Nguyên nhân
Không
Có
Tổng
Cha mẹ ly hôn
91
76,5%
28
23,5%
119
100%
Cha mẹ mất sớm
103
86,6%
16
13,4%
119
100%
Ý thích
94
79%
25
21%
119
100%
Bạn bè rủ rê
107
89,9 %
12
10,1 %
119
100 %
Kinh tế khó khăn
51
42,9%
68
57,1%
119
100%
Muốn chứng tỏ bản lĩnh
111
93,3%
8
6,7%
119
100%
Bạo lực
gia đình
104
88,1%
14
11,9%
118
100%
Gia đình thiếu quan tâm
83
69,7%
36
30,3%
119
100%
Chán học
113
95%
6
5%
119
100%
Nguyên nhân khác
108
90,8%
11
9,2%
119
100%
(Bảng 01: Nguyên nhân khiến trẻ ra đường phố)
Nguồn: “Huấn luyện đào tạo cho giáo dục viên đường phố” do Hội bảo trợ trẻ em thành phố Hồ Chí Minh Hội bảo trợ trẻ em thành phố Hồ Chí Minh, 85/65 Phạm Việt Chánh, F19, Quận Bình Thạnh TP Hồ Chí Minh. Được thành lập năm 1988, hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em, đặc biệt là trẻ đường phố
thực hiện tại Tp.HCM vào tháng 8 năm 2002.
Có hàng loạt các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trẻ phải ra đường phố, nhưng nguyên nhân lớn nhất là do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, buộc các em phải tham gia lao động để kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Kinh tế là nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất dẫn đến tình trạng trẻ ra đường phố chiếm 57,1%. Như vậy vấn đề nghèo khổ được xem là nguyên nhân chính. Các em chủ yếu theo bố mẹ lên thành phố để kiếm sống, gia đình quá khó khăn nên buộc các em phải tham gia lao động sớm để phụ giúp kinh tế cùng với gia đình.
Trẻ em lao động sớm đóng góp được khá nhiều về mặt kinh tế cho gia đình, thậm chí có em còn là thu nhập chính của cả nhà. Với độ tuổi của các em là độ tuổi cắp sách đến trường, nhưng cuộc sống nghèo khổ đã buộc các em phải vắt kiệt sức lao động của mình để hòng có được miếng ăn qua ngày. Người ta cho rằng nhà nghèo bố mẹ không đủ sức nuôi thì phải tự đi kiếm sống, từ việc lao động sớm đã dẫn đến những hậu quả của vấn đề lao động sớm ở trẻ em. Hầu hết các trẻ tham gia lao động sớm đều ở trong tình trạng thất học, bỏ học. Vậy thử đặt ra vấn đề là: Khi tiếp xúc với môi trường hỗn tạp của xã hội thì trẻ sẽ như thế nào? Đó là câu hỏi mà các cơ quan cần được quan tâm, kể cả phía các cá nhân và các tổ chức có liên quan.
Từ việc hoàn cảnh gia đình khó nhăn buộc trẻ phải lao động sớm để kiếm sống đã kéo theo hàng loạt các vấn đề bất cập. Bên cạnh đó một phần không nhỏ các bậc cha mẹ của trẻ lao động sớm cho rằng: “trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ là của xã hội và cộng đồng”. Bởi những suy nghĩ hạn chế như vậy nên vấn đề bỏ học, nghỉ học để đi kiếm sống là vấn đề đa và đang tồn tại.
Ngoài kinh tế gia đình khó khăn là nguyên nhân cao nhất thì sự thiếu quan tâm của gia đình đến trẻ là nguyên nhân thứ hai có số tỷ lệ phần trăm cao chiếm 30,3% trong tổng số các nguyên nhân đã đẩy trẻ đến với cuộc sống đường phố và lao động sớm. Như vậy sự thiếu quan tâm trong gia đình lại là vấn đề đẩy trẻ đến tình trạng phải lao động sớm? Trẻ em là lứa tuổi đang trong quá trình phát triển mạnh về mặt thể xác cũng như tâm sinh lý, đây là lứa tuổi dễ bị tổn thương và cần được yêu thương chăm sóc. Điều đó đồng nghĩa với việc khi không được bố mẹ hay các thành viên trong gia đình dành sự quan tâm chăm sóc thì trẻ dễ bị chán nản và dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực. Gia đình đối với trẻ là rất quan trọng, theo nghiên cứu của bác sỹ Nguyễn Hữu Cầu ( Đặc điểm tâm lý của trẻ em côi cút ở Quảng Ninh) cho thấy là” Trong sự phát triển nhân cách của trẻ, yếu tố tình cảm vô cùng quan trọng…sự thiếu hụt tình cảm sẽ dẫn tới sự phát triển lệch lạc nhân cách…” An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. Chủ biên: Lê Thị oanh, 1997, T42, NXB: Tp.HCM
. Điều đó cho thấy rõ một điều rằng nếu không nhận được sự quan tâm đầy đủ từ phía gia đình thì trẻ rất dễ bị hư hỏng và dẫn tới suy nghĩ là bỏ nhà đi kiếm sống. Khi ra xã hội với tâm trạng chán nản như vậy thì trẻ rất dễ bị nhiễm các thói hư tật xấu và sẵn sang làm việc gì miễn là có tiền. Do tình trạng không nhận được từ gia đình sự quan tâm đầy đủ nên tỷ lệ trẻ ra ngoài xã hội kiếm sống khá cao, kéo theo hậu quả đó là các tệ nạn xã hội nảy sinh: ma túy, mại dâm, móc túi, đánh nhau…Các em ra khỏi nhà đi kiếm sống do cảm thấy bị ngột ngạt và chán nản về mặt tinh thần nghiêm trọng nên muốn ra ngoài để tìm cảm giác thoải mái và tự do. Liệu khi ra ngoài xã hội các em có thể sống tốt trong khi không có kiến thức đầy đủ về xã hội. Các trường hợp này đang là đối tượng để các tệ nạn xã hội tấn công.
Bên cạnh đó còn nhiều nguyên nhân khác như do gia đình tan vỡ làm cho con cái bị hoang mang và lo sợ, điều đó dẫn đến tình trạng muốn thoát ra khỏi gia đình để tự do vì do bố mẹ không sống với nhau nữa. Trong giai đoạn này trẻ thường có suy nghĩ là bố mẹ bỏ nhau thì mình đi “ bụi” cho họ biết. Vậy là các em buộc phải lao động sớm để có tiền sống qua ngày, để tự lập. Có nhiều trường hợp bố mẹ ly hôn và trẻ không biết sống với ai, đành chấp nhận làm trẻ đường phố, lao động để kiếm sống. Vậy nên gia đình tan vỡ đã tạo một sức ép hết sức nặng nề với trẻ và việc bỏ gia đình đi kiếm sống là hệ quả tất yếu. Liệu trẻ có đủ khả năng để chống chọi lại với những văn hóa phẩm độc hại, những tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu đang rình rập xung quanh cuộc sống của trẻ.
Bên cạnh những nguyên nhân chính như vừa đề cập ở trên, còn có hàng loạt các nguyên nhân khác tác động không nhỏ đến việc trẻ em phải lao động sóm. Do cha mẹ mất sớm trẻ phải tự bươn chải kiếm sống để nuôi thân, do ý thích muốn tự khẳng định mình, do bị đánh đập đối xử tàn tệ, bạn bè rủ rê lôi kéo… Khi bị dính vào một số những nguyên nhân này thì nguy cơ trẻ chọn việc ra đường kiếm sống là rất cao.
Hiện nay trên địa bàn quận Thủ Đức theo thống kê của Ủy ban dân số gia đình và trẻ em quận Thủ Đức thì có 16 trẻ lao động sớm trong đó phường Linh Chiểu 3 em, Linh Đông 2 em, Linh Tây 1 em, Linh Trung 2 em, Linh Xuân 5 em, Tân Phú 3 em. Các em chủ yếu tham gia lao động với các nghề như: Công nhân cho các xưởng tư nhân, phụ bán cơm, bán vé số, lượm ve chai, phụ hồ. Cũng theo Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận Thủ Đức cho biết các em lao động sớm tạm trú trên địa bàn đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chủ yếu là theo bố mẹ đi kiếm sống và có một bộ phận là do bố mẹ ly hôn. Nhưng trên thực tế con số 16 là chưa đủ, mà còn có một bộ phận trẻ lao động sớm không quản lý được do các em chỉ hành nghề trên địa bàn quận chứ không sinh sống định cư trên địa bàn quận.
Với việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới trẻ đi lao động sớm để từ đó để đi sâu xem xét và phân tích những khó khăn, mong muốn trong cuộc sống của trẻ lao động sớm.
II. Khó khăn hiện tại, của các em trong cuộc sống
Bảng 02: Những khó khăn của trẻ em.
Khó khăn
Ưu tiên 1
Ưu tiên 2
Ưu tiên 3
Tổng
N
%
N
%
N
%
N
%
Không tiền
19
16%5
5
4,1%
4
3,3%
122
100%
Đau ốm
8
6,6%
4
3,3%
4
3,3%
121
100%
Bị lạm dụng thân thể
1
8%
4
3,3%
1
8%
121
100%
Bị bóc lột sức lao động
7
5,8%
4
3,3%
5
4,1%
121
100%
Bị công an thu gom
15
12%
7
5,8%
3
2,5%
121
100%
Khó khăn về giấy tờ tùy thân
17
14%
7
5,8%
3
2,5%
121
100%
Không chỗ ở
9
7,4%
18
15%
13
10,7%
121
100%
Không được vui chơi giải trí
4
3,3%
9
7,4%
7
5,8%
121
100%
Khó tìm việc làm
6
5%
9
7,4%
14
11,6%
121
100%
Ăn uống thiếu thốn
6
5%
9
7,4%
6
5%
121
100%
Vấn đề về gia đình
16
13%
13
11%
13
10,7%
121
100%
Khó khăn về học văn hoá
10
8,3%
11
9,2%
10
8,3%
120
100%
Khó khănvề học nghề
2
1,7%
6
5%
11
9,1%
121
100%
Khó khăn khác
1
8%
121
100%
(Bảng 02: Những khó khăn trẻ thường gặp)
Nguồn: “Huấn luyện đào tạo cho giáo dục viên đường phố” do Hội bảo trợ trẻ em Thành Phố Hồ Chí Minh Hội bảo trợ trẻ em T
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chân dung trẻ em lao động sớm tại Quận Thủ Đức – TPHCM.doc