Ngân hàng có chức năng huy động mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay nên đó là công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện việc tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu, thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tín dụng Ngân hàng cũng góp phần hút và đẩy tiền ra lưu thông, chống lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, trước hết tín dụng Ngân hàng cần phải có những giải pháp thích hợp để thu hút và mở rộng các hình thức cho vay. Nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, các Ngân hàng cần mở rộng cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp từng bước đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế.
Trước tình trạng số dư nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng đang tăng cao, các Ngân hàng cần đề ra các biện pháp để nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay, hạn chế thấp nhất các rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Ngân hàng Eximbank Hà Nội cũng luôn nhận thức được điều này nên Ngân hàng đã và đang tìm cách thu hồi nợ quá hạn và nợ khó đòi từ các năm trước tồn tại đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, đưa ra các quy định chặt chẽ trong cho vay nhằm hạn chế tối đa rủi ro. Luận văn, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những nguyên nhân, khả năng có thể dẫn đến rủi ro cho tín dụng Ngân hàng đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Luận văn chắc chắn còn có nhiều khiếm khuyết về cả cách diễn đạt cũng như chưa đề cập được hết các vấn đề có liên quan, Em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô giáo, các nhà quản lý, kinh doanh và tất các bạn bè quan tâm tới vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn Thạc Sỹ Nguyễn Quang Ninh, cùng toàn bộ các cán bộ Ngân hàng Eximbank Hà Nội – nơi em thực tập đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành bản luận văn này.
68 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chất lượng tín dụng ngân hàng, hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Eximbank Hà Nộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế của địa phương, tận dụng khai thác được nhiều tiềm năng sẵn có, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Cùng với những đóng góp đó, mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, làm cho đời sống, việc làm của cán bộ nhân viên Chi nhánh được đảm bảo, kết quả tài chính hàng năm có lãi, thể hiện sự lớn mạnh không ngừng và củng cố nâng cao vị trí của Ngân hàng trong xã hội.
Những kết quả trên khẳng định sự quyết tâm cao của tập thể toàn Chi nhánh trong việc thực hiện đúng và đồng bộ chiến lược kinh doanh.
Đánh giá những nguyên nhân cơ bản để đạt được những thắng lợi :
- Trước hết là có sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và việc làm của đội ngũ cán bộ công nhân viên Chi nhánh Eximbank. Đã xác định được những khó khăn thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của mình. Đã mở rộng màng lưới hoạt động tới từng điểm dân cư, tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho khách hàng đến quan hệ, là những địa chỉ tin cậy của mọi người, tạo nên mối quan hệ bền vững tồn tại và phát triển giữa Ngân hàng với khách hàng.
- Song song với việc mở rộng màng lưới, Chi nhánh đã thực hiện sàng lọc, sắp xếp tinh gọn bộ máy. Bố trí lại đội ngũ cán bộ theo hướng tập trung, tăng lực lượng nghiệp vụ, giảm số lượng cán bộ gián tiếp.
- Đồng thời cải tiến tình trạng nhân viên, tổ chức nhiều loại hình đào tạo cán bộ, nhằm trang bị thêm kiến thức nghiệp vụ, kinh tế thị trường, kiến thức về pháp luật xã hội. Đã tạo nên một bước sự thay đổi về chất trong đội ngũ cán bộ.
Như vậy, muốn có thu nhập cao cho cán bộ, nhân viên đòi hỏi phải làm ra được nhiều sản phẩm mà ở đây là số lượng và chất lượng tín dụng đầy đủ hợp lý và tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu sinh lời của Ngân hàng, nếu qui mô tín dụng lớn mà chất lượng kém, Ngân hàng không thu được nợ và lãi thì càng nguy hiểm. Chính vì vậy, khoán tài chính là động lực thúc đẩy mỗi người, mỗi bộ phận công tác phải tập trung suy nghĩ để tìm ra phương thức kinh doanh có hiệu quả nhất, kích thích sự năng động sáng tạo của mỗi người trong việc tìm kiếm thị trường, lựa chọn khách hàng xây dựng dự án để ra quyết định đầu tư vốn sao cho kết quả nhất.
- Song song với việc mở rộng hoạt động kinh doanh, Chi nhánh thường xuyên chỉ đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát. Các cấp lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ đã nhận thức đúng và thấm nhuần nguyên tắc ‘‘Mở rộng kinh doanh luôn gắn liền với chất lượng và hiệu quả, chống rủi ro đảm bảo an toàn vốn và tài sản’’.
thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh eximbank hà nội :
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động trên lĩnh vưc kinh doanh tiền tệ. Trong các hoạt động thì công tác tín dụng là một mảng chủ yếu của Ngân hàng, thực tế tại Eximbank kinh doanh tín dụng chiếm tới 70% lợi nhuận của Ngân hàng mỗi năm.
Với mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng, thủ tục nhanh, thẩm định đúng quy định, đáp ứng vốn kịp thời khi dự án có hiệu quả, Chi nhánh đã nghiêm túc đảm bảo đúng hạn mức tín dụng của Eximbank Việt Nam giao cho, chấp hành nghiêm túc cơ chế tín dụng hiện hành trong đó coi chất lượng tín dụng là yêu cầu hàng đầu.
bảng 5: tình hình cho vay thu nợ tại
eximbank hà nội
Đơn vị : Triệu đồng.
chỉ tiêu
1997
1998
1999
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
I/ Doanh số cho vay
634.323
100
366.734
100
443.031
100
1. Ngắn hạn
621.426
98
353.150
96,29
439.514
99,2
$ VND
253.098
40
146.496
39,9
183.102
41,3
$ USD
368.328
58
206.654
56,39
256.412
57,9
2. Trung và DH
12.897
2
13.584
3,71
3.517
0,8
$ VND
8.364
1,3
12.310
3,36
430
0,1
$ USD
4.533
0,7
1.274
0,35
3.087
0,7
II/ DS thu nợ
690.935
100
442.490
100
419.893
100
1. Ngắn hạn
682.578
98,8
439.659
99,36
417.089
99,3
$ VND
270.812
39,2
166.171
37,6
203.286
48,4
$ USD
411.766
59,6
273.488
61,76
213.803
50,9
2. Trung và DH
8.357
1,2
2.831
0,64
2.804
0,7
$ VND
5.386
0,77
1.375
0,31
430
0,1
$ USD
2.971
0,43
1.456
0,33
2.374
0,6
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tại Eximbank Hanoi năm 97, 98, 99.
Theo bảng báo cáo tín dụng của Chi nhánh Eximbank Hà Nội ta nhận thấy. Năm 1999, doanh số cho vay đạt 443.031 triệu đồng giảm đi 191.292 triệu so với năm 1997 và tăng 76.297 triệu đồng so với năm 1998. Trong đó doanh số cho vay ngắn hạn là 439.514 triệu đồng giảm 181.912 triệu đồng so với năm 1997 và tăng 86.364 triệu đồng so với năm 1998. Doanh số cho vay trung và dài hạn là 3.517 triệu đồng chiếm 0,8% trong tổng doanh số cho vay, giảm 9.380 triệu đồng so với năm 1997 và giảm 10.067 triệu đồng so với năm 1998.
Ngân hàng có chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn càng cao thì hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại. Đối với những Ngân hàng lấy nghiệp vụ tín dụng làm nghiệp vụ sinh lời là chủ yếu thì chỉ tiêu hiệu quả tín dụng càng đánh giá chính xác tình hình hoạt động của Ngân hàng.
Hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng được tính theo công thức :
Tv
H = --------- 100%
Thđ
Trong đó: H : hiệu suất sử dụng vốn.
Tv : tổng dư nợ
Thđ : tổng nguồn vốn huy động.
Hiệu suất của Ngân hàng Exim bank Hà Nội được thống kê qua bảng sau :
bảng 6 : hiệu Suất sử dụng vốn của ngân hàng eximbank hà nội
Chỉ tiêu
31/12/1997
31/12/1998
31/12/1999
Tổng nguồn vốn huy động
420.279
326.220
492.845
Tổng dư nợ tín dụng
252.168
179.421
202.559
Hiệu suất sử dụng vốn ( % )
60
55
41
Nhìn vào hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng là 60% đối với năm 1997, 55% năm 1998, 41% năm 1999 ta không thể vội vàng đi đến kết luận Ngân hàng kinh doanh kém hiệu quả. Do có quan hệ đại lý giao dịch tốt với các ngân hàng trong nước cũng như ngân hàng nước ngoài chính vì vậy với số tiền dư nợ mà ngân hàng cho các tổ chức tín dụng khác vay đã đưa hiệu suất sử dụng vốn của Ngân hàng luôn lớn hơn 80% qua các năm.
Tóm lại, qua các báo cáo tín dụng trên, chúng ta thấy rõ ràng hoạt động tín dụng của chi nhánh Exim bank Hà Nội tăng cả về mặt số lượng, chất lượng so với năm 1998. Tuy đây chỉ là thành tích khiêm tốn nhưng đội ngũ cán bộ Ngân hàng nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng đã có những nỗ lực lớn. Vì năm 1999, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến các doanh nghiệp và các Ngân hàng. Hơn nữa, Chi nhánh Exim bank Hà Nội đã kiên quyết chỉ thực hiện cho vay đối với những đơn vị cá nhân hoạt động kinh doanh liên tục có lãi ít nhất liên tục từ hai năm trở lên. Đối với những đơn vị thuộc diện khó đòi và có nợ quá hạn thì Ngân hàng lập tức ngừng cho vay đến khi đơn vị đó trả hết nợ. Như vậy, trong năm 1998, 1999, Chi nhánh đã tập trung hơn vào công tác thu nợ, thể hiện ở doanh số thu nợ cả đồng nội tệ và ngoại tệ đều lớn hơn doanh số cho vay. Điều này chứng tỏ Chi nhánh Exim bank Hà Nội luôn chú trọng vào mục tiêu an toàn vì đó là tiền đề cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được diễn ra suôn sẻ.
Là một Ngân hàng còn rất trẻ, thời gian hoạt động mới được 08 năm lại phải chịu sự cạnh tranh của các Ngân hàng lớn với bề dầy kinh nghiệm và nhiều khách hàng quen thuộc trong và ngoài nước, thì đối với Chi nhánh Exim bank Hà Nội để đạt được dư nợ như vậy đã là một thành công lớn. Chi nhánh đã không ngừng mở rộng địa bàn tín dụng, không những chỉ ở Hà Nội mà còn ở các tỉnh phía Bắc. Nhiều đơn vị, tổ chức kinh tế ở các tỉnh : Thanh Hoá, Hải Phòng, Hà Bắc... đã mở tài khoản giao dịch, quan hệ vay vốn, thanh toán với chi nhánh.
Trên đây, chúng ta chỉ mới xem xét về mặt số lượng của công tác tín dụng của Ngân hàng Exim bank Hà Nội. Để đánh giá chính xác được hiệu quả của công tác này, chúng ta phải xem xét cả về mặt chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Điều này được phản ánh qua nợ quá hạn và vòng quay vốn tín dụng của Ngân hàng năm 1997,1998,1999.
Phân tích chất lượng tín dụng:
Kinh doanh tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng. Tuy nhiên cũng như các ngành khác, lợi nhuận luôn gắn với mạo hiểm và rủi ro. Hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Với nguồn vốn huy động đã có sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất là công việc hết sức khó khăn. Nếu nguồn vốn huy động lớn mà dư nợ nhỏ thì Ngân hàng sẽ bị ứ đọng vốn, Ngân hàng không tìm được khách hàng tin cậy để cho vay.
Nhưng nếu dư nợ tín dụng tăng quá cao thì cũng không phải là điều tốt. Dư nợ tín dụng tăng quá nhiều có thể dẫn đến tình trạng không thu hồi được hết nợ và làm giảm đi hiệu quả sinh lời của vốn Ngân hàng. Dư nợ tín dụng quá nhiều có thể dẫn đến cho Ngân hàng có những khoản nợ không thu hồi được khi đến hạn và sau khi đã gia hạn nợ phải chuyển sang nợ quá hạn. Việc này làm chậm vòng luân chuyển vốn của Ngân hàng dẫn đến giảm lợi nhuận.
Để đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
* Chỉ tiêu thứ nhất
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = -------------------------------
Dư nợ bìmh quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Hệ số này ngày càng tăng phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng càng tốt, có tình hình tài chính vững chắc, đây là cơ sở để khách hàng thực hiện những cam kết trên hợp đồng tín dụng.
Về phía Ngân hàng vòng quay của vốn tín dụng thể hiện khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng, chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích : Nhà nước, khách hàng và Ngân hàng.
Để nhận xét chính xác tình hình chất lượng tín dụng, các tiêu thức tính toán cần phải đồng nhất, vì vậy vòng quay vốn tín dụng phải tính cho từng loại cho vay với thời hạn cho vay cụ thể (ví dụ tính riêng cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn trong đó vay ngắn hạn tính riêng theo từng thời hạn 6 tháng, 9 tháng...) bởi vậy để có kết luận chính xác, cần phải tiến hành công nghệ hoá để giảm bớt tính phức tạp của việc tính toán.
Kỳ luân chuyển vốn tín dụng nhanh nhiều thể hiện chất lượng tín dụng tốt, tổng số dư nợ trong thời kỳ lớn. Ngược lại thể hiện chất lượng tín dụng không tốt, thu nợ trong kỳ kém, vốn tín dụng bị đóng băng.
Theo công thức trên, kỳ luân chuyển vốn tín dụng phụ thuộc vào 2 chỉ tiêu: doanh số thu nợ trong kỳ càng cao kỳ luân chuyển vốn càng nhanh và ngược lại dư nợ cho vay bình quân càng nhỏ, kỳ luân chuyển vốn càng nhanh. Chỉ tiêu này lại phản ánh công tác cho vay kém về mặt số lượng. Ta xét tình hình vòng quay tín dụng tại Eximbank Hà Nội được biểu hiện qua bảng sau:
bảng 7 : vòng quay vốn tín dụng tại
eximbank hà nội
Đơn vị : Triệu đồng.
Chỉ tiêu
31/12/1998
31/12/1999
Doanh số thu nợ VND
167.546
203.716
Doanh số thu nợ USD
274.944
216.177
Dư nợ bình quân VND
83.234,5
42.563
Dư nợ bình quân USD
132.560
119.168,5
Vòng quay vốn tín dụng VND ( vòng )
2,01
4,78
Vòng quay vốn tín dụng USD ( vòng )
2,07
1,81
Nguồn : Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 tại Eximbank Hanoi.
Như vậy vòng luân chuyển vốn tín dụng VND trong năm 1999 tăng là do: Trong năm 1999, chi nhánh đã thực hiện tốt công tác thu nợ của những khoản cho vay trong năm đồng thời thu hồi được một số nợ khê đọngcủa năm 1997, 1998. Dư nợ nội tệ và ngoại tệ năm 1999 đều tăng so với năm 1998. Điều này, như đã phân tích, phản ánh công tác cho vay đạt nhiều kết quả hơn các năm trước. Tuy nhiên vòng quay vốn tín dụng USD chậm hơn vòng quay vốn tín dụng VND điều đó thể hiện hiệu quả của mỗi đồng USD cho vay ra là thấp hơn so với hiệu quả vòng quay tín dụng VND.
* Chỉ tiêu thứ hai:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ = -------------------
Tổng dư nợ
Hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng không thể tránh được việc có nợ quá hạn. Nợ quá hạn hiện nay đang là vấn đề bức xúc cần giải quyết của mọi Ngân hàng. Những khoản nợ đến hạn mà khách hàng không trả được (cố tình không trả hoặc không có khả năng trả) đều phải chuyển sang nợ quá hạn. Với những khoản nợ này, Ngân hàng tính lãi suất cao hơn lãi suất cho vay bình quân nhằm bù lại phần thiệt thòi cho Ngân hàng khi không thu hồi được vốn và để phạt doanh nghiệp. Tại chi nhánh Exim bank Hà Nội, lãi suất áp dụng cho nợ quá hạn là 1,5 lần lãi suất thường. Những khoản nợ này gây cho Ngân hàng những khó khăn:
Thứ nhất cán bộ tín dụng phải luôn theo dõi, đôn đốc nhắc nhở khách hàng trong việc hoàn trả vốn vay và lãi.
Thứ hai nó làm tăng rủi ro tín dụng khi khách hàng cứ xin gia hạn nợ thêm mà không có khả năng trả gốc và lãi. Ngân hàng có thể dùng nhiều biện pháp để thu hồi nợ quá hạn, song điều đó có thể bắt buộc Ngân hàng tốn nhiều chi phí.
Nếu trong quá trình theo dõi nợ đến hạn và chuyển nợ quá hạn làm không đúng quy định sẽ dẫn đến nợ khó đòi, Ngân hàng khó có khả năng thu hồi được.
bảng 8 :
tình hình nợ quá hạn tại eximbank hà nội
chỉ tiêu
31/12/1997
31/12/1998
31/12/1999
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
I. Dư nợ ngắn hạn
236.236
156.095
170.248
1. DNNN
109.888
100
66.717
100
68.105
100
- Nợ quá hạn
6.505
5,9
4.411
6,6
2.428
3,5
2. Cty CP+TNHH
110.266
100
79.049
100
95.913
100
- Nợ quá hạn
6.218
5,6
5.036
6,3
3.395
3,5
3. Đối tượng khác
16.082
100
10.329
100
6.230
100
- Nợ quá hạn
1.911
11,9
1.988
19,2
1.081
17,3
II . Dư nợ trung và dài hạn
15.932
23.326
32.311
1.DNNN
1.968
100
Nợ quá hạn
2. Cty CP+TNHH
15.932
100
23.326
100
29.783
100
- Nợ quá hạn
3. Đối tượng khác
560
100
- Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
252.168
100
179.421
100
202.559
100
Tổng dư nợ quá hạn
14.634
5,8
11.435
6,3
6.904
3,4
Đơn vị : Triệu đồng
Nguồn : Báo cáo tín dụng tại chi nhánh Eximbank Hanoi.
Tổng dư nợ quá hạn qua các năm giảm đi rõ rệt. Năm 1997, tổng dư nợ là 14.634 triệu đồng thì đến năm 1998 giảm đi 3.199 triệu đồng tức là còn 11.435 triệu đồng chiếm 6,3% trong tổng dư nợ. Đến năm 1999, dư nợ quá hạn của Exim bank Hà Nội là 6.904 triệu đồng chiếm 3,4% trong tổng dư nợ giảm đi 4.531 triệu đồng so với năm 1998.
Như vậy, tỷ trọng nợ quá hạn qua các năm giảm đi đáng kể. Đây chính là một thành công lớn trong kinh doanh tín dụng năm 1999. Với tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ năm 1999 là 3,4% Ngân hàng đã giảm mức tổng dư nợ quá hạn năm 1999 bằng 60,4% so với năm 1998. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đã không những thu được các khoản nợ cho các đơn vị, tổ chức kinh tế vay của năm nay mà Ngân hàng còn thực hiện tốt được công tác thu hồi nợ của các năm trước còn tồn đọng lại.
Đặc biệt tại Ngân hàng tất cả các khoản nợ cho vay trung và dài hạn chưa bao giờ có nợ quá hạn cho dù đó là Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay đối tượng khác.
Phân tích nợ quá hạn của từng thành phần kinh tế ta thấy : nhìn chung nợ quá hạn của mọi đối tượng giảm rõ rệt, tuy nhiên tỷ trọng nợ quá hạn/ tổng dư nợ từng thành phần kinh tế lại khác nhau. Cụ thể như:
- Các doanh nghiệp Nhà nước là khách hàng của Ngân hàng thường là các đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực xuất nhập khẩu. Năm 1997-1998 các doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng rất lớn của cuộc khủng hoảng tiền tệ, những quan hệ làm ăn, hợp đồng kinh tế bị thay đổi hoặc huỷ bỏ hàng loạt. Chính nguyên nhân khách quan này dẫn đến tình trạng các khoản vay ngắn hạn của họ không hoàn trả dúng thời hạn, dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là 5,9% (1997) 6,6% (1998). Tuy nhiên sau khi “cơn bão khủng hoảng tiền tệ” qua đi thì các doanh nghiệp dần dần ổn định tiếp tục kinh doanh có lãi và giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống còn 3,5% trong năm 1999. Điều này cho ta thấy các khách hàng là DNNN đến với Ngân hàng Exim bank Hà Nội đều là các doanh nghiệp làm ăn có lãi và đồng vốn đi vay thực sự có hiệu quả.
- Các công ty cổ phần, công ty TNHH cũng có dư nợ quá hạn giảm đi rõ rệt, tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ năm 1999 giảm 1.641 triệu đồng so với năm 1998. Đây là đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng do vậy Ngân hàng cần có biện pháp giảm tỷ lệ nợ quá hạn của thành phần kinh tế này xuống thấp hơn nữa thì hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng.
Các đối tượng còn lại bao gồm các DNTN, cá thể, HTX, có tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ khá cao (10%) nhưng trong năm 1999 có giảm hơn so với năm 1998. Bởi vì trong năm 1998 nền kinh tế có nhiều biến động, đối tượng này đa số là các doanh nghiệp nhỏ, cá thể... nên việc chèo chống qua những biến động của kinh tế là khó khăn hơn các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên tổng dư nợ quá hạn của thành phần này lại nhỏ nhất.
bảng 9 : tình hình nợ quá hạn của các thành phần kinh tế tại eximbank hà nội
thành phần
kinh tế
31/12/1997
31/12/1998
31/12/1999
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
Số tiền
Tỉ trọng
( % )
1. DNNN
6.505
44,4
4.411
38,6
2.428
35,2
2. Cty CP+TNHH
6.218
42,4
5.036
44
3.395
49,2
3. Đối tượng khác
1.911
13,2
1.988
17,4
1.081
15,6
Tổng dư NQH
14.634
100
11.435
100
6.904
100
Đơn vị : Triệu đồng.
Nguồn : Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 tại chi nhánh Eximbank Hanoi.
Xem xét tỷ trọng nợ quá hạn theo từng thành phần kinh tế ta thấy đối tượng gây ra nợ quá hạn lớn nhất cho Ngân hàng là các công ty cổ phần và TNHH. Tỷ lệ này năm 1997 là 42,4% đến năm 1998 tăng lên 44% và đến năm 1999 lên tới 49,2%. Điều đó chứng tỏ công ty cổ phần và TNHH làm ăn chưa có lãi và việc hoàn trả nợ cho Ngân hàng chưa được chú ý đúng mức. Năm 1999, mặc dù Ngân hàng có số dư nợ cho vay đối với thành phần này là tăng16.864 triệu đồng so với năm 1998 và Ngân hàng cố gắng tập trung vào công tác thu nợ đưa nợ quá hạn của đối tượng này từ 5.036 triệu đồng xuống còn 3.395 triệu đồng giảm đi 1.641 triệu đồng so với năm 1998, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn của thành phần này trong năm 1999 lại tăng bằng 49,2% so với tổng dư nợ quá hạn.
Điều này chứng tỏ, Chi nhánh cần phải xem xét lại cơ cấu dư nợ sao cho kết quả kinh doanh của Chi nhánh tốt hơn. Tuy số dư nợ quá hạn có giảm đi nhưng vẫn ở mức độ cao, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Chi nhánh.
Bên cạnh việc phân tích tình trạng nợ quá hạn của Ngân hàng theo các thành phần kinh tế như trên, ta có thể xem xét, đánh giá nợ quá hạn đối với việc cho vay bằng ngoại tệ và VND tại Chi nhánh Exim bank Hà Nội :
bảng 10 : dư nợ quá hạn vnd và usd
của nh eximbank hà nội
chỉ tiêu
1997
1998
1999
Giá trị
Tỉ trọng
( % )
Giá trị
Tỉ trọng
( % )
Giá trị
Tỉ trọng
( % )
Dư NQH VND
3.805
26
3.202
28
1.656
24
Dư NQH ngoại tệ
( Quy đổi VND )
10.829
74
8.233
72
5.248
76
Tổng dư NQH
14.634
100
11.435
100
6.904
100
Đơn vị : Triệu đồng.
Nguồn : Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 tại chi nhánh Eximbank Hanoi.
Xem xét bảng trên ta thấy, dư nợ quá hạn trong cho vay bằng VND thường nhỏ hơn rất nhiều so với dư nợ quá hạn cho vay bằng ngoại tệ. Sở dĩ như vậy là do:
+ Sau 08 năm đi vào hoạt động, các kết quả kinh doanh thu được thể hiện sự cố gắng của toàn bộ tập thể cán bộ ngân hàng. Trong thực tế ngân hàng vẫn luôn phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt của các ngân hàng lớn có hàng mấy chục năm tuổi nghề. Cụ thể Ngân hàng đầu tư 80% là tài trợ cho kinh doanh xuất nhập khẩu 20% cho vay các lĩnh vực khác, trong đó chỉ có 12% trên tổng dư nợ tài trợ cho xuất khẩu (vì tất cả các đơn vị kinh doanh xuất khẩu lâu năm thường là khách hàng truyền thống của Ngân hàng ngoại thương Việt nam) còn lại 68% tài trợ cho nhập khẩu. Điều này lý giải vì sao các doanh nghiệp vay VND ít hơn vay ngoại tệ do đó dư nợ VND nhỏ hơn dư nợ ngoại tệ. Điều này hiển nhiên dẫn tới dư nợ quá hạn nội tệ nhỏ hơn dư nợ quá hạn ngoại tệ.
+ Lãi suất cho vay VND lớn hơn lãi suất cho vay ngoại tệ. Đây là lý do cơ bản nhất. Tại Ngân hàng Exim bank Hà Nội, lãi suất cho vay USD năm 1999 là 0,625%/tháng trong khi lãi suất vay VND trong năm 1999 là 0.85%/tháng, lớn hơn rất nhiều. Do đó các doanh nghiệp thường chú ý đến nợ VND điều này thường gây ra những thiệt thòi cho Ngân hàng khi bị chiếm dụng vốn ngoại tệ trong thời gian dài.
Qua số liệu phân tích trên cho thấy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng tương đối ổn định và phát triển. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh
doanh tín dụng của Ngân hàng cón chứa đựng một số nguyên nhân mang lại rủi ro mà đặc biệt là rủi ro do nguyên nhân khách quan đem lại, đòi hỏi phải tính toán định lượng được trước những tổn thất trong kế hoạch kinh doanh của mình. Từ đó tìm những giải pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất đó để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao hơn. Nếu Chi nhánh không có những giải pháp đồng bộ, tích cực để củng cố nâng cao chất lượng tín dụng sẽ gây những hậu quả cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và kinh tế trên địa bàn.
Tóm lại, với sự phấn đấu nỗ lực, có thể nói công tác kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Exim bank Hà Nội năm 1999 được mở rộng hơn năm 1997, 1998 chất lượng tín dụng đã được tăng lên một cách đáng kể. Đó là những thành tích lớn trong công tác tín dụng năm 1999 tại chi nhánh Ngân hàng Exim bank Hà Nội.
3. đánh giá những nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng tại exim bank hà nội.
Tín dụng Ngân hàng là một loại kinh doanh đặc biệt mang tính tổng hợp gắn liền với các điều kiện kinh tế chính trị của đất nước. Bởi vậy muốn đưa ra những biện pháp khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chúng ta phải tìm ra những nguyên nhân, những yếu tố tác động đến chất lượng hoạt động tín dụng.
3.1. Nguyên nhân bên ngoài :
Môi trường kinh tế:
Nền kinh tế của nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, nhiều vấn đề còn dở dang, các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới, bởi vậy nhiều vấn đề còn chưa hoàn thiện. Môi trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong đó các NHTM còn thiếu nhiều yếu tố như: hệ thống văn bản pháp luật nhà nước đang được hình thành nhưng chưa đồng bộ, thậm chí có khi chồng chéo. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng chưa thực sự độc lập, đôi khi còn chịu những tác động của phương pháp quản lý bằng mệnh lệnh hành chính làm cho tín dụng kém hiệu quả.
Các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, khả năng tự vay vốn bị hạn chế, dẫn đến vốn để đầu tư chiều sâu, mở rộng bị thu hẹp, thiếu thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, khiến cho tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của Doanh nghiệp và khả năng trả nợ vốn vay Ngân hàng. Bên cạnh đó, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng về điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hàng hoá vật tư bị tồn kho, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi.
Môi trường pháp lý :
Môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng của Ngân hàng chưa đầy đủ, đồng bộ. Một số văn bản pháp lý có liên quan tới vấn đề thế chấp vốn vay Ngân hàng, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác qui định chưa đồng bộ, đầy đủ, nhất là thiếu các văn bản hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn nhưng chưa phù hợp, nên quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, thể hiện:
* Về cơ sở pháp lý của tài sản thế chấp:
Theo quy định của luật pháp thì cơ sở đảm bảo cho việc thế chấp tài sản là bản hợp đồng được ký kết giữa hai bên thế chấp và nhận thế chấp, cùng bản gốc giấy tờ chứng minh cùng sở hữu tài sản do bên thế chấp giao cho bên nhận thế chấp. Thực tế các cơ quan quản lý Nhà nước chịu trách nhiệm cấp chứng thư nhận quyền sở hữu tài sản cho các chủ sở hữu chưa được rộng khắp. Do đó thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng nhiều khó khăn phức tạp, do thiếu cơ sở pháp lý và quyền sở hữu tài sản.
Đối với DNNN, hầu hết không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản khi giao vốn mà chỉ có bản xác nhận tổng số vốn giao của cơ quan thẩm quyền. Trên thực tế nhiều DNNN vay vốn chưa thực hiện thế chấp tài sản, một phần vì chưa làm được giấy tờ chứng nhận sở hữu.
* Vấn đề phát mại tài sản thế chấp:
Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hoạch toán thống kê chính xác kịp thời. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa hoạch toán kế toán theo qui định, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nên số liệu không phản ánh chính xác tình hình sản xuất, kinh doanh tài chính của khách hàng, làm cho việc xử lý phân tích thông tin và ra quyết định của Ngân hàng cũng thiếu chính xác.
Hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng và hợp đồng kinh tế...
Các hình thức kinh doanh tiền tệ trái phép đang phát triển nhanh chóng và hoạt động tự do, như các tổ chức cho vay nặng lãi, cho vay nóng,... không có cơ quan nào quản lý, kiểm tra kiểm soát, thủ đoạn của chúng là móc nối với khách hàng để lừa đảo Ngân hàng cho vay tiền, cho vay lại vay nóng, giúp khách hàng đảo nợ ở các tổ chức tín dụng, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Hiện nay, các tổ chức tín dụng mới được phép trích. “ Quĩ dự phòng đặc biệt mà thực chất là quĩ dự phòng chung cho các loại rủi ro. Theo cơ chế hiện hành, quĩ này được tính bằng 10% số lợi nhuận sau khi nộp thuế là chưa phù hợp với nguyên tắc hoạch toán kinh doanh và không bình đẳng với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Khi có rủi ro
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6736.doc