Đề tài Chế định pháp lý về khu công nghiệp

MỤC LỤC

Lời nói đầu 1

Nội dung 2

I. Khái niệm và vai trò về khu công nghiệp. 2

1. Khái niệm, đặc điểm và các loại khu công nghiệp. 2

2. Vai trò của việc xây dựng khu công nghiệp trong sự nghiệp công

 nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3

II. Quy chế thành lập và quản lý khu công nghiệp. 5

1. Các điều kiệncần thiết cần được xem xét khi quyết định

 thành lập khu công nghiệp-khu chế xuất. 5

2. Chế độ thành lập khu công nghiệp. 8

3. Quản lý Nhà nước hoạt động khu công nghiệp. 9

4. Cơ chế kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. 13

III. Quy chế thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp

 trong khu công nghiệp. 14

1. Thủ tục thành lập của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. 14

2. Quy chế hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. 16

Kết luận 18

Tài liệu tham khảo 19

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1699 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chế định pháp lý về khu công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
môi trường kinh doanh thuận lợi. Kinh nghiệm các nước đang phát triển chỉ ra mô hình khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung đã đáp ứng được nhu cầu cải thiện môi trường đầu tư trong một thời gian tương đối ngắn, nhờ đó đã thu hút được một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn vào trong nước, tập trung sức cho quá trình tăng trưởng nền kinh tế. Phân tích sự chuyển dịch của dòng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài trên thế giới, các nhà kinh tế đều đi đến khẳng định rằng đồng vốn chỉ đổ về nơi nào có khả năng làm cho nó sinh lời, nhờ đó đồng vốn được bảo toàn và đem lại lợi nhuận cần thiết cho chủ đầu tư. Chính quy luật đó đã quy định dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới trong mấy thập kỷ qua, phần lớn đã đổ dồn về các nước tư bản phát triển gây nên tình trạng thiếu vốn đầu tư ở ác nước đang phát triển. Vì vậy sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế ở các nước đang phát triển càng thêm gay gắt. Các nước châu á và tiếp theo là các nước ASEAN đã sớm nhận ra và tìm cách khắc phục mâu thuẫn đó. Đồng vốn muốn vận động sinh lời cần phải có một môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm môi trường pháp lý hoàn thiện và môi trường kinh doanh thuận lợi. Về môi trường pháp lý: nếu như sự ổn định về chính trị - xã hội trong nước là yếu tố đầu tiên đảm bảo thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước thì môi trường pháp lý là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của môi trường đầu tư. Môi trường pháp lý lành mạnh tiến bộ, phù hợp với thônglệ quốc tế... là một tiêu chí để nhà đầu tư lựa chọn, quyết định đầu tư. Bởi đồng vốn bỏ ra mà thậm chí còn nhiều rắc rối có khi liên quan đến tính mạng của người đầu tư và gia đình họ do sự khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, văn hoá và thái độ chính trị ở nước nhận đầu tư. Mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài từ các nước tư bản phát triển, quen sống trong một môi trường pháp lý tương đối hoàn chỉnh sẽ rất khó xử khi có những sự cố xaỷ ra nếu như không dựa vào pháp luật để điều chỉnh. Vậy môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư phải bao hàm cả một hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ vận hành có hiệu quả. Nó là một trong những yếu tố quyết định, trên cơ sở đó sẽ tạo lập nên một một môi trường kinh doanh có hiệu quả. Môi trường pháp lý đó phải có định hướng rõ ràng, hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động ở nước sở tại một cách dễ dàng, thuận lợi nhất. Về môi trường kinh doanh: được coi là thuận lợi khi ít nhất phải hội tụ đủ các yếu tố như kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại, hệ thống luật pháp và tư pháp tốt, hệ thống tài chính và tiền tệ tương đối ổn định, có hiệu quả, an ninh kinh tế và an toàn xã hội được bảo đảm... Hai nhân tố trên được coi là điều kiện cần thiết có ý nghĩa tiên quyết cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Song, chính nó cũng là hai lỗ hổng hay hai điển yếu ở tất cả các nước đang phát triển đều mắc phải, không dễ gì khắc phục nhanh chóng do nguyên nhân khách quan và cả nguyên nhân chủ quan. Các nước đang phát triển chưa có một hệ thống pháp luật hoàn hảocùng với một môi trường kinh doanh thuận lợi, nên việc đáp ứng ngay những yêu cầu trên cho nhà đầu tư nước ngoài không thể trong một thời gian ngắn do chính quá trình nhận thức của cả cộng đồng, cư dân trong xã hội cũng như chính hạn chế về vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng bao gồm cả kết cấu hạ tầng “cứng” và kết cấu hạ tầng “mềm”. Giải pháp để khắc phục mâu thuẫn trên được nhiều nước lựa chọn là xây dựng khu chế xuất - khu công nghiệp và các hình thức tương tự để qua đó thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi chưa tạo được môi trường đầu tư hoànchỉnh trên phạm vi cả nước. II.Quy chế thành lập và quản lý khu công nghiệp. 1. Các điều kiệncần thiết cần được xem xét khi quyết định thành lập khu công nghiệp-khu chế xuất. Ngày 24-4-1997, Chính phủ đã có Nghị định 36/CP ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao thay thế quy chế khu chế xuất ban hành kèm theo Nghị định số 322-HĐBT ngày 18-10-1991 và quy chế khu công nghiệp ban hành kèm theo Nghị định 192/CP ngày 28-12-1994 của Chính phủ. Cho đến nay, đã có 30 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trên phạm vi cả nước với tổng diện tích đất xấp xỉ 4700 ha. Việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất này là trên cơ sở dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được phê duyệt theo một hay hai hình thức: doanh nghiệp Việt Nam tự đầu tư hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài để đầu tư.. Trong số các khu công nghiệp đó, cá biệt có một khu công nghiệp do doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng. Hiện nay ở nhiều địa phương trong cả nước có xu hướng thành lập và phát triển khu các khu công nghiệp với quy mô và hình thức khác nhau. Việc phát triển các khu công nghiệp là việc làm tất yếu và cần thiết trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Các điều kiện bắt buộc phải xét đến khi quyết định thành lập một khu công nghiệp là: Sự phù hợp của khu công nghiệp đó với quy hoạch phát triển hệ thống khu công nghiệp trong phạm vị cả nước, kế hoạch phát triển ngành kinh tế-kỹ thuật cũng như quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương Quy hoạch phát triển khu công nghiệp trong phạm vi cả nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định 519/TTg ngày 8-6-1996. Khi xây dựng khu công nghiệp cần xem xét phương hướng mặt hàng, sản phẩm chủ yếu trong khu công nghiệp đó có phù hợp với định hướng phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật tương ứng hay không. Vai trò, vị trí của khu công nghiệp trong quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương là hết sức quan trọng khi quyết định thành lập, bao gồm việc tạo ra năng lực sản xuất mới ở địa phương, hình thành các khu dân cư mới và yêu cầu giải quyết các vấn đề phát sinh. Việc thành lập các khu công nghiệp phải phù hợp với định hướng phát triển công nghệ của các ngành kinh tế - kỹ thuật, kể cả yêu cầu áp dụng dụng công nghệ kỹ thuật cao, hiện đại đối với một số ngành mũi nhọn. Các dự án thành lập khu công nghiệp phải thể hiện đầy đủ yêu cầu và có giải pháp khả thi trong việc phát triển và kinh doanh cơ sở hạ tầng, trước hết là cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như giao thông cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc, thoát nước và xử lý nước thải... Khi xem xét cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cần tính toán đầy đủ khả năng cung cấp từ bên ngoài các đầu nối kỹ thuật, nhu cầu đầu tư và khả năng thực hiện. Trong các dự án phát triển khu công nghiệp, yếu tố này thường bị bỏ qua hoặc bị xem xét sơ sài trong khi nó đóng vai trò hết sức quan trọng nhiều khi là quyết định trong việc đảm bảo cơ sở hạ tầng tối thiểu cho hoạt động khu công nghiệp. Bao trùm lên toàn bộ vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp là phải xác định được tổng nhu cầu vốn đầu tư và phương thức tổ chức thực hiện. Doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, dù đó là doanh nghiệp Việt Nam hay doanh nghiệp nước ngoài, phải đóng vai trò chủ đạo trong việc khâu nối đồng bộ hoá các khâu có liên quan để đảm bảo vận hành khu công nghiệp có hiệu quả. Yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định nhất khi xem xét thành lập các khu công nghiệp là kế hoạch vận động các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào khu công nghiệp. Một thực tế đặt ra đối với chúng ta là, trong số 30 khu công nghiệp được quyết định thành lập như nói trên, một số khu công nghiệp, kể cả khu công nghiệp liên doanh với nước ngoài đã xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ và tương đối hiện đại song vẫn chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư vào. Điều này ngoài các yếu tố chung của môi trường đầu tư của đất nước, còn có phần chủ quan của doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng và nếu kéo dài tình trạng không thu hút được các nhà đầu tư thì sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng nói riêng và đất nước nói chung. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầngđưa ra giá cho thuê lại đất quá cao so với mức giá của các dự án ngoài khu công nghiệp ở gần đó. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, họ còn áp dụng phương thức trả tiền thuê lại đất một lần cho thời gian quá dài thậm chí đến 50 năm nên làm cho nhiều nhà đầu tư ngần ngại khi quyết định đầu tư vào khu công nghiệp. Vậy việc thành lập khu công nghiệp mà mục đích cuối cùng là các xí nghiệp sản xuất công nghiệp cùng với cơ sở hạ tầng hiện đại, bảo vệ môi trường trong sạch là quá trình lâu dài, phức tạp. Khi ra quyết định thành lập các khu công nghiệp đó, nếu xét kỹ các vấn đề nêu trên thì cơ bản sẽ tránh được nhiều rủi ro, tránh được lãng phí đầu tư có thể xảy ra. 2. Chế độ thành lập khu công nghiệp. Như định nghĩa đã nêu ở phần trên, khu công nghiệp là do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Việc phát triển khu công nghiệp phải tuân theo quy hoạch tổng thể đã được Chính phủ phê duyệt. Trường hợp muốn hình thành khu công nghiệp đã có thì trong quy hoạch tổng thể thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập khu công nghiệp và trình duyệt quy định hiện hành. Trường hợp muốn hình thành khu công nghiệp chưa có trong quy hoạch tổng thể thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Ban quản lý các khu công nghiệp Việt Nam và các cơ quan lien quan trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định chủ trương hình thành khu công nghiệp đó. Khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc thành lập khu công nghiệp, cơ quan xem xét, thẩm định dự án làm rõ các vấn đề sau: Có hoặc chưa có trong quy định tổng thể đã được Chính phủ phê duyệt. Trường hợp chưa có trong quy hoạch tổng thể thì phải làm rõ sự cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung vào quy hoạch tổng thể. Việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, có tính đến các đầu nối kỹ thuật ngoài khu công nghiệp, khu dân cư phục vụ công nhân, lao động làm việc tại khu công nghiệp, các trường học, cơ sở khám và chữa bệnh phục vụ khu công nghiệp. Các giải pháp về nguồn vốn, cấp điện, cấp thoát nước, giao thông, thông tin môi trường, lao động để đảm bảo tính khả thi của khu công nghiệp. Ngành nghề sản xuất công nghiệp trong khu công nghiệp. Phương án vận động đầu tư vào khu công nghiệp. Về khu công nghiệp cũng giống như khu chế xuất. Về cơ bản, khu công nghiệp cũng là địa bàn sản xuất công nghiệp mà phần lớn là công nghiệp tiêu dùng đều gồm các xí nghiệp vừa và nhỏ, đều là khu vực không có dân cu sinh sống. Tuy vậy, sự khác nhau về cơ bản giữa khu công nghiệp và khu chế xuất là ở chỗ: khu chế xuất được lập ra để sản xuất chủ yếu, phục vụ cho xuất khẩu, còn khu công nghiệp có phạm vi không gian rộng hơn, sản phẩm làm ra vừa được xuất khẩu vừa được phép tiêu dùng nội địa, thay thế hàng nhập khẩu. Một số khu công nghiệp ở Việt Nam còn quy định nếu xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra thì được hưởng quy chế ưu đãi như quy chế khu chế xuất. Trong năm 1998, hoạt động xây dựng và phát triển khu công nghiệp ở nước ta thể hiện rõ thành tựu nổi bật như sau: phát triển và phân bố rộng các khu công nghiệp trên các vùng kinh tế có lợi thế. Năm 1998, trên phạm vi cả nước đã có 64 khu công nghiệp trong đó gồm 3 khu chế xuất, 60 khu công nghiệp, 1 khu công nghệ cao với tổng diện tích đất theo quy hoạch được phê duyệt trên 10.000 ha trong giai đoạn 1 chiếm 71% tổng số khu công nghiệp dự kiến trong quy hoạch đến năm 2000. Trong 64 khu công nghiệp này có 21 khu công nghiệp mới và hiện đại trong đó 13 khu công nghiệp hợp tác với nước ngoài để phát triển hạ tầng. 3. Quản lý Nhà nước hoạt động khu công nghiệp. Cơ chế quản lý “một cửa” đối với khu công nghiệp được quy định lần đầu tiên trong quy chế khu công nghiệp và được áp dụng thực tế đối với việc ra đời và phát triển của khu chế xuất Tân Thuận. Sau những năm vận hành đã chứng tỏ đó là một cơ chế đúng đắn và đến nay tiếp tục được phát huy. Mục tiêu của cơ chế quản lý “một cửa” tại chỗ là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, giảm bớt các thủ tục hành chính “xin - cho”, đồng thời bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế bớt phiền hà, quan liêu tiêu cực trong thực thi nền quản lý Nhà nước. Việc thực hiện cơ chế quản lý tại chỗ được thực hiện thông qua cơ chế uỷ quyền của các ngành Trung ương và Uỷ ban nhân dân thành phố cho ban quản lý cấp tỉnh thực hiện thực hiện một số nhiệm vụ quản lý Nhà nước về dầu tư xây dựng, thương mại, lao động... Thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Thương mại đã có quyền sâu và rộng cho ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước thuộc thẩm quyền của Bộ. Một số nội dung quản lý thuộc lĩnh vực chuyên ngành như hải quan, công an, thuế đã thực hiện theo phương thức cơ quan này đặt cơ quan đại diện đủ thẩm quyền giải quyết trực tiếp công việc tại từng khu công nghiệp, hoặc xoá bỏ dần cơ chế xét từng trường hợp cụ thể đối với một số thủ tục như: Điều lệ quản lý khu công nghiệp, điều lệ quản lý xây dựng cấp phép xây dựng, giấy phép xuất nhập khẩu chuyến. Quy định mềm dẻo hơn đối với vệc hình thành, quản lý khu chế xuất, trong khu công nghiệp có thể có khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất và thúc đẩy hoạt động khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất đối vơí hoạt động kinh tế trong thị trường nội địa. Song song với việc uỷ quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp chuyển sang tập trung làm tốt công tác quy hoạch ngành,vùng và lãnh thổ, xây dựng các quy trình, quy phạm, các định mức kinh tế, kỹ thuật, tăng cường công tác hướng dẫn, tổ chức tập huấn, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và giám sát các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước được uỷ quyền. Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh đã được trao quyền quyết định nhiều hơn trong quản lý khu công nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nước, rút ngắn hơn thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Nhưng đã xuất hiện hiện tượng chưa thông suốt giữa ban quản lý với các sở chức năng của tỉnh, thành phố. Hiện tượng coi khu công nghiệp là của Trung ương trên địa bàn tỉnh không phải là không còn tồn tại cho đủ theo quy chế khu công nghiệp thì ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh chịu sự lãnh đạo song trùng của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và các ngành Trung ương, từ đó coi nhẹ vai trò quản lý của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố. Vẫn còn hạn chế trong việc thực hiện cơ chế quản lý “một cửa” tại vì dự án lớn tiêu thụ trong nước vẫn phải xin ý kiến các cơ quan trung ương. Việc thẩm định thiết kế do sở xây dựng thực hiện. Hồ sơ xin đăng ký chế độ kế toán nước ngoài của doanh nghiệp khu công nghiệp phải lên Bộ Tài chính để giaỉ quyết. Muốn vay vốn của ngân hàng nước ngoài phải xin phép thống đốc ngân hàng nhà nước. Việc quy định sở lao động uỷ quyền cho ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh cấp giấy phép lao động nước ngoài có thời hạn lao động dưới 3 tháng là chưa đúng thẩm quyền. Việc cấp giấy phép lao động có thời hạn trên 3 tháng phải do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện. Về tổ chức bộ máy quản lý, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về khu công nghiệp theo chức năng và thẩm quyền đã được quy định trong Nghị định ban hành quy chế khu công nghiệp và các văn bản pháp quy khác. Ban quản lý các khu công nghiệp Việt Nam được thành lập cuối năm 1996, là cơ quan đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc chuẩn bị xây dựng, phát triển và quản lý các khu công nghiệp đã được quy hoạch và phê duyệt. Ban quản ly các khu công nghiệp Việt Nam là đầu nối tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ giải quyết các vấn đề liên quan đến khu công nghiệp, đầu mối phối hợp với các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển khu công nghiệp. Đến nay theo quy định tại Nghị định ban hành quy chế khu công nghiệp Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập 21 ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh. Việc thành lập các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh được thực hiện bởi ban tổ chức cán bộ chính phủ. Hoạt động của các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển khu công nghiệp, tổ chức thực hiện cơ chế quản lý “một cửa tại chỗ” phù hợp với đặc thù của khu công nghiệp được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài ghi nhận đã góp phần tăng hiệu lực quản lý nhất là 10 ban quản lý đã được các Bộ, ngành uỷ quyền thực hiện một số chức năng quản lý Nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản giao ban quản lý khu công nghiệp Việt Nam phối hợp với các ngành liên quan trong năm 1999 tổ chức nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức quản lý khu công nghiệp Dung Quất cho phù hợp với đặc thù của khu công nghiệp này, diện tích chiếm đất lớn, có nhà máy lọc dầu, cảng nước sâu, thành phố... nghiên cứu phương án tiếp tục hoàn thiện mô hình quản lý các khu công nghiệp, trong đó có vấn đề về kinh phí hoạt động và biên chế của các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh. Sửa đổi bổ sung một số quy định của quy chế khu công nghiệp hiện hành. Một số vấn đề đang tồn tại trong quy chế khu công nghiệp cần phải có luật mới điều chỉnh được như tạo khung pháp lý ổn định sự nhất trí cao, sự viện dẫn các chính sách, cơ chế quản lý, bỏ chế độ uỷ quyền chuyển sang cơ chế quản lý có thẩm quyền của ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh., tạo một sân chơi chung, một hành lang chung để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào khu công nghiệp có cùng quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Trong khi chờ đợi luật khu công nghiệp được ban hành, chúng ta nghiên cứu để trình Chính phủ, sửa đổi, bổ sung Nghị định 36/CP ban hành quy chế khu công nghiệp.xác định khái niệm khu công nghiệp ở đây không chỉ bao gồm sản xuất khu công nghiệp và dịch vụ sản xuất khu công nghiệp mà còn có cả các hoạt động phân phối, lưu thông, các dịch vụ hỗ trợ và khu dân cư, các khu hỗ trợ, khu dân cư này thực hiện như cơ chế của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh phát triển cơ sở hạ tầng. Chuyển công ty phát triển hạ tầng sang công ty phát triển khu công nghiệp với quyền và nghĩa vụ rộng hơn không chỉ bó hẹp trong đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp mà còn chăm lo khu công nghiệp toàn diện và tổng thể gắn chặt lợi ích của chủ đầu tư bỏ vốn phát triển hạ tầng với lợi ích của các doanh nghiệp hoạt động theo khu công nghiệp. 4. Cơ chế kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Theo Nghị định 36/CP của Chính phủ ngày 24-4-1997 về ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, Chính phủ khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh với các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Tuỳ theo quy mô và tính chất, một khu công nghiệp có thể có một hoặc nhiều công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Sau khi có quyết định chấp thuận đầu tư hoặc giấy phép đầu tư của cấp có thẩm quyền, UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể việc cho phép công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp là doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế được chậm nộp tiền thuê đất trong khoảng thời gian nhất định dưới hình thức cho doanh nghiệp được nhận nợ tiền thuê đất thuộc vốn ngân sách Nhà nước. Trên cơ sở đó, UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc chậm nộp tiền thuê đất của các doanh nghiệp khu công nghiệp là doang nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế căn cứ thoả thuận về thời gian chậm nộp tiền thuê đất giữa doanh nghiệp khu công nghiệp và công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp, nhưng tối đa không vượt quá thời gian mà công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp được UBND cấp tỉnh cho phép chậm nộp tiền thuê đất. Công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp là doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế được vay vốn ưu đãi của Nhà nước, huy động các nguồn vốn theo quy định của pháp luật để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp. Qua thực tế, chúng ta đã rút ra được một số kinh nghiệm cần thiết để chuẩn bị tốt hơn cho việc thành lập và phát triển một công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp. Công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp là hạt nhân quyết định sự thành bại của khu công nghiệp. Do đó, việc chọn lựa đơn vị có đủ uy tín, năng lực về vốn, về cán bộ, năng lực về tiếp thị, vận động đầu tư để đầu tư kinh doanh và quản lý hạ tầng khu công nghiệp là một vấn đề quan trọng quyết định cho sự thành công của khu công nghiệp. Sự nhận thức đúng đắn của các cấp, các ngành ở tỉnh, thành phố đối với việc thành lập khu công nghiệp tập trung và sự hỗ trợ tích cực của chính quyền địa phương nơi khu công nghiệp ra đời là điều kiện quyết định cho công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ, mục tiêu của mình. Sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách của Nhà nước ở tầm vĩ mô đối với công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp nhất là đối với các tỉnh miền Trung và các tỉnh có cơ sở hạ tầng yếu kém, môi trường thu hút đầu tư kém hấp dẫn là động lực quan trọng để thúc đẩy công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp hoạt động có hiệu quả. Nơi nào công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp và chính quyền địa phương có quan điểm đúng, thống nhất phương thức, giá cả thoả đáng cho việc đền bù di chuyển cho dân và có chính sách hỗ trợ, có kế hoạch thu nhận sắp xếp, giải quyết tốt việc làm cho số lao động trong khu vực bị giải toả thì ở nơi đó việc giải toả mặt bằng xây dựng khu công nghiệp có nhiều thuận lợi. Việc xây dựng, phát triển hạ tầng khu công nghiệp theo phương thức cuốn chiếu, ứng trước tiền thuê đất của các nhà đầu tư để lấy vốn tiếp tục xây dựng, mở rộng khu công nghiệp là bài học kinh nghiệm tốt cần được phổ biến nhân rộng trong điều kiện chúng ta còn khó khăn về vốn trong điều kiện hiện nay. Việc chọn vị trí thành lập khu công nghiệp rất quan trọng. Địa điểm thích hợp sẽ góp phần rất lớn trong việc quyết định sự thành bại của công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Khu công nghiệp ra đời và phát triển phụ thuộc vào quá trình hoạt động của công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. III. Quy chế thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. 1. Thủ tục thành lập của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Doanh nghiệp khu công nghiệp có đủ cơ sở pháp lý hoạt động trong khu công nghiệp sau khi được cơ quan Nhà nước có đủ thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì giấy phép đầu tư có giá trị là giấy đăng ký kinh doanh theo quy định tại điều 60 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đối với các nhà đầu tư trong nước, trước khi đầu tư vào khu công nghiệp phải có quyết định thành lập doanh nghiệp theo quy định hiện hành đối với mỗi loại hình doanh nghiệp. Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp khu công nghiệp không quá 50 năm và không vượt quá thời hạn hoạt động của công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp được tính từ ngày doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư vào khu công nghiệp. Trường hợp đặc biệt, thời hạn hoạt động của doanh nghiệp khu công nghiệp có thể vượt quá tầng khu công nghiệp, nhưng phải được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận trên cơ sở đề nghị của UBND cấp tỉnh và cơ quan ra quyết định chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư. Qua thực tế, đến cuối năm 1998, đã có 649 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trong khu công nghiệp với tổng số vốn đăng ký 6.773 triệu USD, 175 dự án đầu tư trong nước, đầu tư phát triển hạ tầng đạt 2.039 triệu USD, trong đó vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài để phát triển hạ tầng chiếm 40%, vốn của các doanh nghiệp trong nước chiếm 60%. Đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong lĩnh vực đầu tư của cả nền kinh tế, về số dự án đạt 18% và về vốn đầu tư đạt 18,5%. Đáng chú ý là trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp đã xuất hiện những nhân tố mới biểu hiện tính hấp dẫn và hiệu quả đầu tư vào khu công nghiệp có nhiều ưu thế. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động trong khu công nghiệp do làm ăn có hiệu quả đã xin được điều chỉnh bổ sung tăng vốn... Đầu tư trong nước bắt đầu có chuyển động khá lớn. Đã có 40 dự án đầu tư sản xuất khu công nghiệp với tổng số vốn 396 tỷ VND. Nếu so với năm 1998, đầu tư trong nước đã tăng 4,4 lần về số dự án và 1,9 lần về vốn đầu tư. Qua thực tế, chúng ta thấy thủ tục thành lập của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp còn nhiều khó khăn vướng mắc, vì vậy chúng ta cần phải kiên quyết cải tiến và đơn giản hoá thủ tục thẩm định, xét duyệt quản lý dự án đầu tư, tạo điều kiện tốt nhất để xí nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp nhanh đi vào hoạt động, tiết kiệm tiền của và thời gian cho nhà đầu tư. 2. Quy chế hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Nghĩa vụ của các doanh nghiệp: tuân thủ pháp luật, q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24555.doc
Tài liệu liên quan