Đề tài Chế độ tỷ giá cố định

Mục lục:

 

I.Khái quát về tỷ giá hối đoái.

1.Khái niệm chế độ tỷ giá.

2.Các chế độ tỷ giá

3.Căn cứ xác định chế độ tỷ giá trong lịch sử

II.Chế độ tỷ giá cố định

1.Khái niệm

2.Quá trình hình thành và phát triển

2.1.Chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm đơn vị ( chế độ bản vị vàng)

2.2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods ( chế độ cố định theo định danh)

2.3. Chế độ tỷ giá cố định được áp dụng ở một số nước hịên nay

3.Ưu và nhược điểm

4.Sự can thiệp của ngân hàng TW trong việc điều tiết chế độ tỷ giá cố định

III.Diễn biến quá trình sử dụng chế độ tỷ giá cố định ở Việt Nam

 

doc22 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8485 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ tỷ giá cố định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng thuyết về tái thiết IMS đã diễn ra giữa Mỹ và Anh. Cuối cùng Hội nghị tiền tệ quốc tế bao gồm 44 nước diễn ra ở Bretton Woods, New Hampshire (từ ngày 1/7 đến 20/7 năm 1944) đã phê chuẩn BWS. BWS có hai điểm cơ bản đó là hệ thống chế độ tỷ giá là cố định nhưng có thể điều chính và hình thành hai tổ chức quốc tế mới là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF – International Monetary Fund) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế còn được gọi tắt là Ngân hàng thế giới (WB – World Bank). BWS hình thành hệ thống chế độ tỷ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh. Mỗi quốc gia được ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được phép dao động trong biên độ ± 1% . Tỷ giá đồng USD tự nó được cố định với giá vàng là $35/ounce. Việc cố định tỷ giá USD vào giá vàng là đảm bảo cho BWS có được sự tin tưởng vì năm 1945 dự trữ vàng của Mỹ chiếm 70% dự trữ vàng của thế giới, mặt khác chính phủ Mỹ cam kết duy trì chuyển đổi USD ra vàng không hạn chế tại mức giá cố định $35/ounce. Do đó USD là một công cụ dự trữ đáng tin cậy cho ngân hàng các nước. USD đã trở thành cầu nối cho toàn bộ hệ thống tiền tệ thế giới đến với vàng. Có thể nói USD đã trở thành bản vị của chế độ Bretton Woods hay còn gọi là đồng đô la vàng. Mỗi quốc gia được yêu cầu duy trì tỷ giá trung tâm của đồng bản tệ với USD nhưng trong trường hợp cán cân thanh toán quốc tế bị mất cân đối cơ bản thì có thể tiến hành phá giá hay nâng giá đồng tiền không quá 10% nếu không được IMF cho phép. Chế độ Bretton Woods đã đạt được những thành công và kết quả đáng ghi nhận trong hơn 20 năm (1947-1971) nhưng bản thân nó cũng chứa đựng nhiều bất ổn. Đến năm 1971 tổng thống Mỹ Nixon chính thức bãi bỏ việc đổi ra vàng của USD và tuyên bố phá giá đồng USD 7,89% ( 1 USD = 0,8185 gam vàng), tháng 3/1971 Mỹ phá giá lần thứ 2 (-10%). Một loạt sự kiện quan trọng liên tiếp xảy ra sau khi Mỹ phá giá USD, tháng 6 năm 1972 nước Anh thả nổi đồng Pound, tháng 1 năm 1973 Thụy Sĩ cho phép đồng franc thả nổi đối với USD, tháng 2/1973 Nhật cũng tiếp bước các nước trên. Nạn đầu cơ vào USD vào đầu tháng 3/1973 ngày càng tăng buộc thị trường ngoại hối phải đóng cửa và khi mở cửa lại vào ngày 19 tháng 3 năm 1973 thì các đồng tiền của Châu Âu đã liên kết cùng thả nổi với USD. Như vậy BWS hoàn toàn sụp đổ. Các nhà kinh tế học, các chuyên gia đã đưa ra nhiều phân tích, lý giải về sự sụp đổ của Bretton Woods , chúng ta có thể tìm hiểu một số nguyên nhân cơ bản. Đầu tiên hãy xét đến vấn đề thanh khoản.Theo Robert Triffin, quan hệ bản vị giữa USD và vàng luôn tồn tại một sự không nhất quán.BWS chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi các ngân hang trung ương các nước thành viên còn long tin để nắm giữ USD làm dự trữ, và long tin vào USD chỉ tồn tại chừng nào ngân hang trung ương Mỹ còn tiếp tục đổi USD ra vàng với giá $35/ounce. Trong khi đó, thương mại quốc tế phát triển sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối quốc tế mà chủ yếu là USD. Dự trữ ngoại hối quốc tế tăng chỉ có thể xảy ra khi BP( The Balance of Payments – Cán cân thanh toán quốc tế) của Mỹ phải thâm hụt và BP của các nước khác là thặng dư., hơn nữa do BP là thặng dư nên để duy trì sức cạnh tranh thương mại quốc tế buộc các nước phải tiếp tục mua USD vào để ngăn ngừa đồng bản tệ lên giá . Sau một thời gian nhất định thì tài sản nợ của Mỹ đối với phần thế giới còn lại tăng lên nhanh chóng.Kết quả là tài sản nợ của Mỹ tăng nhanh hơn lượng vàng Mỹ khai thác được bổ sung vào dự trữ. Điều này có nghĩa là khả năng chuyển đổi Toàn bộ tài sản nợ bằng USD ra vàng tại mức giá $35/ounce là không thể thực hiện. Triffin đã tiên đoán rằng : một khi chính phủ Mỹ mất khả năng thanh toán ( USD được dự tính là sẽ phá giá đối với vàng ) thì các ngân hang trung ương nước ngoài sẽ chuyển đổi USD dự trữ của mình ra vàng , do lượng vàng không đủ nên cuối cùng chính phủ MỸ sẽ buộc phải từ chối việc chuyển đổi từ USD ra vàng , nghĩa là chấm dứt duy trì tỷ giá cố định với USD, làm cho BWS sụp đổ. Triffin chỉ ra một thế tiến thoái lưỡng nan rằng : một mặt, nếu BP của Mỹ tiếp tục thâm hụt thì sẽ làm xói mòn hiệu lực của BWS ; mặt khác nếu Mỹ áp dụng các biện pháp hạn chế thâm hụt BP sẽ dẫn đến thiếu hụt dự trữ quốc tế, điều này làm hạn chế thương mại quốc tê,tạo áp lực thiểu phát cho nền kinh tế thế giới. Nếu giải thích theo Định luật Gresham ta có thể nhìn nhận thấu đáo nội dung bên trong sự sụp đổ của BWS. Thomas Gresham đưa ra định luât : khi tỉ lệ trao đổi giữa hai tài sản là không nhất quán trên thị trường chính thức và trên thị trường tự do, thì tài sản được định giá thấp trên thị trường chính thức sẽ bị loại ra khỏi lưu thông, trong khi đó tài sản được định giá cao sẽ tiếp tục được ở lại trong lưu thông. Áp dụng định luật cho trường hợp BWS, tỷ lệ trao đổi chính thức giữa USD và vàng là $35/ounce , trong giai đoạn 1959-1969 chỉ số giá cả chung ở Mỹ tăng 40% như vậy nếu các nhân tố khác không đổi thì giá vàng cũng tăng với mức 40%. Giá vàng trên thị trường tự do luôn chịu áp lực gia tăng dẫn đến hình thành một thị trường vàng tự do với mức giá cả do cung cầu trên thị trường quyết định ; sự biến động của giá vàng trên thị trường tự do dần có sự độc lập tương đối với giá vàng chính thức và giữa chúng có khoảng cách ngày càng lớn.Như vậy khi giá vàng chính thức bị định giá thấp hơn giá vàng trên thị trường tự đã kích thích các NHTW nước ngoài ồ ạt đổi dự trữ USD ra vàng tại tỷ giá chính thức sau đó bán lại số vàng này trên thị trường tự do với giá cao và thu được lợi nhuận. Khi Mỹ tuyên bố chấm dứt chuyển đổi USD ra vàng theo định luật Gresham có thể nói USD đã đẩy vàng ra khỏi lưu thông. Một nguyên nhân rất quan trọng nữa đó là việc BWS thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh có hệ thống và nhất quán.BWS cho phép điều chỉnh tỷ giá chính thức như một biện pháp cuối cùng để điều chỉnh sự mất cân đối cơ bản trong BP của các nước thành viên. Tuy nhiên thế nào là mất cân đối cơ bản không được xác định rõ ràng, không có những thống nhất cụ thể trong cơ chế điều chỉnh đã làm giảm khả năng ứng phó của BWS cũng như không có khả năng buộc các quốc gia phải phải điều chỉnh tỷ giá khi BP mất cân đối. Vậy nên BWS đi đến vực thẳm là tất yếu. 2.3. Chế độ tỷ giá cố định được áp dụng ở một số nước hịên nay Sau khi BWS sụp đổ, thị trường tài chính thế giới đã trải qua nhiều biến động với sự thay đổi chế độ tỷ giá hối đoái. Các quốc gia không chỉ áp dụng một chế độ tỷ giá trong suốt một thời gian dài mà có sự thay đổi chế độ tỷ giá để phù hợp với tình hình kinh tế quốc tế và chính sách phát triển vĩ mô của quốc gia. Hiện nay có một số chế độ tỷ giá cố định vẫn đang được sử dụng như : chế độ bản vị tiiền tệ, chế độ tỷ giá cố định thông thường, chế độ tỷ giá cố định với biên độ giao động rộng, chế độ tỷ giá cố định trượt, chế độ tỷ giá cố định trượt có biên độ. Chế độ bản vị tiền tệ là chế độ tỷ giá có sự cam kết chính thức của chính phủ chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ là đồng tiền bản vị tại một mức tỷ giá cố định. Như Hong Kong chuyển đổi đô la Hong Kong ra USD với tỷ giá 1HKD = 0,129031USD hay Đô la Brunei có mức tỷ giá 1BND = 0,706165 USD.Nền kinh tế theo chế độ này sẽ có lãi suất thấp, từ đó có thể kích thích đầu tư phát triển kinh tế.Tuy vậy cơ chế này lại hạn chế khả năng hấp thụ các thay đổi của nền kinh tế vì vậy sẽ tác động tiêu cực đến tăng trưởng, thất nghiệp. Mục tiêu của chế độ bản vị tiền tệ là cố định tỷ giá cho nên các quốc gia theo đuổi chế độ này có thể phải trả giá đối với các mục tiêu kinh tế khác. Chế độ tỷ giá cố định thông thường hiện nay được khá nhiều nước áp dụng.Theo chế độ tỷ giá này, chính phủ sẽ neo đồng tiền của mình với một hay một rổ các đồng tiền tại một mức tỷ giá cố định, đồng thời cho phép tỷ giá giao động trong biên độ hẹp tối đa là ± 1% xung quanh tỷ giá trung tâm. Theo báo cáo của IMF năm 2008 thì Việt Nam cũng đang sử dụng chế độ tỷ giá này. Chế độ tỷ giá cố định với biên độ giao động rộng hiện nay có khá ít nước áp dụng. Nếu như chế độ tỷ giá cố định thông thường biên độ giao động tỷ giá dưới 1% thì biên độ giao động rộng cho phép tỷ giá giao động rộng hơn mức 1% so với tỷ giá trung tâm. Chế độ tỷ giá cố định trượt là chính sách tỷ giá hối đoái được xem là giải pháp để phá giá từng bước đồng tiền của một quốc gia. Ngân hàng TW ấn định một mức tỷ giá cố định, định kỳ tỷ giá trung tâm sẽ được điều chỉnh theo một tỷ lệ nhất định đã thông báo trước hoặc để phản ánh những thay đổi trong một số chỉ tiêu nhất định đã được lựa chọn ( lạm phát, cán cân thương mại). Chế độ này giúp kiểm soát lạm phát hiệu quả, tạo ra tâm lý an toàn và tin tưởng của thị trường nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều nhược điểm : Nếu dự trữ ngoại tệ không thuyết phục, tỷ giá hối đoái cố định này có thể sụp đổ nếu không đủ khả năng bảo vệ được mức điều chỉnh mà Ngân hàng nhà nước xác định trước; Rất dễ tiêu hao ngoại tệ để bảo vệ được mục tiêu điều chỉnh; Và đường đi của tỷ giá được xác định trước thường là theo kỳ vọng cho nên tạo ra tâm lý giữ ngoại tệ, luôn tạo áp lực thiếu hụt ngoại tệ trên thị trường. Trung Quốc cũng được xếp vào nhóm nước sử dụng chế độ này. Chế độ tỷ giá cố định trượt có biên độ gần giống với chế độ cố định trượt chỉ thêm vào một nội dung đó là Ngân hàng nhà nước cho phép thị trường giao dịch với một biên độ nhất định xung quanh tỷ giá trung tâm tùy theo mức độ phá giá đồng tiền. Hiện nay chỉ có Costa Rica, và Azerbaijan là đang thực hiện chế độ này. BẢNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI PHÂN THEO NHÓM (2008) Chế độ tỷ giá hối đoái Tên quốc gia 1. Chế độ tỷ gía không có đồng tiền pháp định riêng Ecuador, El Salvador, Marshall Islands, Micronesia Fed, States of Palau, Panama, Timor-Leste, Montenegro, SanMarino, Kiribati 2.Chế độ bản vị tiền tệ Antiguaand, Barbuda2, Djibouti, Dominica2,Grenada2, Hong Kong SAR, St. Kitts and Nevis2, St. Lucia2, St. Vincent and the Grenadines2, Bosnia and Herzegovina Bulgaria, Estonia3, Lithuania3, Brunei, Darussalam 3.Chế độ tỷ giá cố định thông thường Angola, Argentina, Aruba,Bahamas, The Bahrain, Bangladesh, Barbados, Belarus, Belize, Eritrea, Guyana, Honduras, Jordan, Kazakhstan, Lebanon, Malawi, Maldives,Mongolia, Netherlands, Antilles, Oman, Qatar, Rwanda, Saudi Arabia, Seychelles, Sierra Leone, Solomon Islands,Sri Lanka, Suriname, Tajikistan, Trinidad and Tobago, Turkmenistan, United Arab Emirates,Venezuela, Rep. Bolivariana de, Vietnam, Yemen, Rep. of Zimbabwe, Benin4, Burkina Faso4, Cameroon5, Cape Verde, Central African Rep. 5,Chad5, Comoros, Congo Rep. of5 ,Côte d'Ivoire4, Croatia, Denmark3, Equatorial Guinea 5,Gabon 5,Guinea-Bissau4, Latvia3,Macedonia, FYR; Mali4, Niger4, Senegal4,Togo4, Fiji, Kuwait, Libya, Morocco, Russian Federation, Samoa, Tunisia, Bhutan, Lesotho, Namibia, Nepal, Swaziland, Argentina, Malawi,Rwanda, Sierra , Leone 4.Chế độ tỷ giá cố định với biên độ giao động rộng Slovak Rep.3, Syria, Tonga 5.Chế độ tỷ giá cố định trượt Bolivia, China, Ethiopia, Iraq, Nicaragua, Uzbekistan, Botswana, Iran, I.R. of 6.Chế độ tỷ giá cố định trượt có biên độ Costa Rica, Azerbaijan 7. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết không báo trước Cambodia, Kyrgyz, Rep.Lao, P.D.R.Liberia, Mauritania, Mauritius, Myanmar, Ukraine, Algeria, Singapore, Vanuatu, Afghanistan, I.R. of Burundi, Gambia, The Georgia, Guinea, Haiti, Jamaica, Kenya, Madagascar, Moldova, Mozambique, Nigeria, Papua New Guinea, São Tomé and Príncipe,Sudan, Tanzania,Uganda, Armenia6, Colombia, Ghana, Guatemala, Indonesia, Peru, Romania, Serbia6, Thailand, Uruguay, Dominican, Rep.Egypt, India, Malaysia, Pakistan, Paraguay 8. Chế độ tỷ giá thả nổi độc lập Zambia, Albania, Australia, Austria7, Belgium7, Brazil, Canada, Chile, Cyprus7,Czech Rep., Finland7, France7, Germany7, Greece7, Hungary, Iceland, Ireland7, Israel, Italy7, Rep of Korea , Luxembourg7, Malta7, Mexico, Netherlands7, New Zealand, Norway, Philippines, Poland, Portugal7, Slovenia7, South Africa, Spain7, Sweden, Turkey, United Kingdom, Congo, Dem. Rep. of Japan, Somalia8, Switzerland, United States 3.Ưu và nhược điểm của chế độ tỷ giá cố định 3.1. Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định Chính phủ và ngân hàng trung ương dễ dàng đạt được các mục tiêu liên quan kiểm soát lạm phát hiệu quả,tạo tâm lí an toàn ,tin tưởng. Mặc dù việc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ hạn chế khả năng của chính phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy trì ổn định kinh tế trong nước, song trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích chế độ tỷ giá hối đoái cố định bởi nó tạo ra sự ổn định vì vậy không cần phải dự phòng cho rủi ro tỷ giá. Trong lịch sử, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đã từng tồn tại hệ thống Bretton Woods cho phép Tây Âu và Nhật Bản có được tỷ giá cố định so với dollar Mỹ cho đến tận năm 1970. Gần đây, Trung Quốc, Hong Kong và Malaysia đã rất thành công trong việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định để giữ ổn định kinh tế trong nước. Đồng euro hiện nay cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia châu Âu tham gia. 3.2. Nhược điểm của tỷ giá cố định -Thị trường ngoại hối không phát triển và luôn tiềm ẩn những hạn chế và tình trạng mất cân đối cung cầu , làm cho dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi. -Tình trạng khan hiếm ngoại tệ rất phổ biến hạn chế sự phát triển thương mại quốc tế -Chi phí can thiệp và quản lý dự trữ ngoại hối rất lớn -Chế độ tỷ giá hối đoái ổn định (không có rủi ro hối đoái) tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dễ dàng tận dụng chênh lệch lãi suất nội tệ và ngoại tệ; chênh lệch lãi suất trong nước và quốc tế để đầu cơ tiền tệ, khiến cho thị trường biến động mạnh, tình trạng thừa, thiếu ngoại tệ rất khó dự báo, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Nhiều quan điểm cho rằng tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Đó là vì đồng tiền không còn thể hiện giá trị thị trường thực của chúng. Sự che đậy thông tin nào tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công" các đồng tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối khi cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy. Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. * Hạn chế so với chế độ tỷ giá thả nổi tự do: Đầu tiên là, trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, các căn bệnh kinh tế của quốc gia này có thể lay nhiễm sang một quốc gia khác. Nhưng với hệ thống tỷ giá thả nổi tự do thì sự lây nhiễm này được ngăn cản góp phần duy trì sự ổn định chung của nền kinh tế thế giới. Ví dụ: Giả định hệ thống tỷ giá giữa 2 nước Việt Nam và Mỹ là cố định, khi lạm phát cao tại Việt Nam thì người tiêu dùng Việt Nam sẽ mua nhiều hàng hoá Mỹ hơn (do giá hàng hóa Việt Nam cao). Phản ứng này làm cho nhu cầu về hàng hóa Mỹ vượt quá mức cung, và giá hàng hoá Mỹ tăng lên. Ngược lại, với tỷ giá thả nổi tự do, khi nhu cầu về hàng hoá Mỹ tăng cao đồng nghĩa với nhu cầu về đồng đôla Mỹ tăng theo, sẽ làm đồng đôla tăng giá. Do đó, giá hàng hoá Mỹ sẽ tăng lên và nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam về hàng hoá Mỹ sẽ giảm trong khi nhu cầu về hàng hoá Việt Nam của người Mỹ có thể tăng lên. Vì vậy, trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, lạm phát cao tại Việt Nam có thể gây lạm phát cao ở Mỹ. Nhưng trong hệ thống tỷ giá thả nổi tự do thì sự lây truyền này được ngăn cản. Sau đó là, trong hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi tự do, ngân hàng trung ương không bị buộc phải liên tục duy trì tỷ giá hối đoái trong biên độ đã định với những chính sách can thiệp có thể tạo nên những tác động không thuận lợi đối với nền kinh tế, nhằm kiểm soát tỷ giá. Mặt khác, các chính phủ có thể thực thi những chính sách mà không cần quan tâm là các chính sách này có duy trì được tỷ giá trong vòng các biên độ quy định hay không, và.làm giảm bới áp lực lên ngân hàng trung ương. Cuối cùng là, trong tỷ giá cố định, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vốn của mình vào bất cứ nước nào có lãi suất cao nhất. Do đó, tại các quốc gia có lãi suất thấp, chính phủ sẽ phải áp dụng các biện pháp làm giảm tự do tài khoản vốn nhằm hạn chế việc rút vốn của các nhà đầu tư nên hiệu quả của thị trường tài chính sẽ bị sút giảm. 4.Sự can thiệp của ngân hàng TW trong việc điều tiết chế độ tỷ giá cố định Như vậy, trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định tỷ giá trung tâm và duy trì sự biến động của nó trong một biên độ hẹp đã định trước.Để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất định.Do mỗi đồng tiền quốc gia đều có tỷ giá với các đồng tiền khác, do đó, tỷ giá của mỗi đồng tiền có thể được thả nổi với đồng tiền này nhưng lại được cố định với một đồng tiền khác. Có 2 trường hợp can thiệp: * TH1: Điểm cân bằng của thị trường cao hơn tỷ giá do NHTW ấn định (đồng nội tệ được đánh giá cao).e Vì thiếu ngoại tệ nên giá ngoại tệ có xu hường tăng. Muốn ổn định giá, NHTW bán ngoại tệ ra mua nội tệ vào để giảm dự trữ ngoại tệ và làm giảm lượng tiền mạnh (H) e 2 S 1 M2 e’ M0 M1 S’ e0 D’ D Q2 Lượng ngoại tệ Q0 Cơ chế can thiệp vào thị trường ngoại hối của NHTW khi cầu ngoại tệ tăng Khi cầu ngoại tệ tăng đến D’ tạp áp lực làm tỷ giá hối đoái tăng từ e0 đến e’.Để cố định tỷ giá hối đoái ở e0 như đã cam kết, NHTW phải bán dự trữ ngoại tệ ra một lượng ngoại tệ bằng khoảng cách Q0Q2 cho đến khi nào S ≡ S’.Như vậy thông qua can thiệp, NHTW đã thỏa mãn toàn bộ lượng cầu ngoại tệ phụ trội so với cung, do đó tỷ giá vẫn được duy trì không đổi ở mức e0. Hành động can thiệp của NHTW làm giảm dự trữ ngoại hối quốc tế và làm cho lượng nội tệ trong lưu thông co lại. Do lượng tiền trong lưu thông co lại, nên để tránh hậu quả giảm phát, NHTW phải tiến hành một giao dịch trên thị trường mở bằng cách mua các chứng khoán vào để bơm thêm tiền vào lưu thông tương đương với lượng nội tệ thu được từ việc bán ngoại tệ. * TH2: Điểm cân bằng của thị trường thấp hơn tỷ giá do NHTW ấn định (đồng nội tệ bị đánh giá thấp).Vì xuất hiện hiện tượng thừa ngoại tệ nên tỷ giá hối đoái có xu hướng sụt giảm. Muốn duy trì cố định, NHTW bỏ nội tệ ra mua ngoại tệ vào để làm tăng dự trữ ngoại tệ và tăng phát hành nội tệ. e 2 M2 M0 e0 S S’ 1 e’ M1 D’ D Lượng ngoại tệ Q2 Q0 Cơ chế can thiệp vào thị trường ngoại hối của NHTW khi cung ngoại tệ tăng Trong trường hợp này, NHTW phải can thiệp lên thị trường ngoại hối bằng cách mua vào một lượng ngoại tệ bằng khoảng cách Q0Q2 để bán đồng nội tệ ra cho đến khi nào D≡D’.Như vậy thông qua can thiệp, NHTW đã hấp thụ toàn bộ lượng cung ngoại tệ phụ trội, do đó tỷ giá vẫn được duy trì ở mức không đổi e0. Hành động can thiệp của NHTW làm tăng dự trữ ngoại hối quốc tế, đồng thời làm lượng nội tệ trong lưu thông tăng lên. Do lượng tiền trong lưu thông tăng, NHTW phải tiến hành một giao dịch trên thị trường mở bằng cách bán các chứng khoán để hút bớt tiền từ lưu thông tương đương với lượng nội tệ bơm vào từ việc bán ngoại tệ. Trong cơ chế này , khi NHTW tăng tỷ giá hối đoái, ta gọi đó là chính sách phá giá nội tệ.Ngược lại, khi NHTW giảm tỷ giá hối đoái, ta gọi đó là chính sách năng giá nội tệ. Để tránh áp lực phá giá hay nâng giá nội tệ, NHTW buộc phải hấp thụ toàn bộ độ lệch giữa cung và cầu ngoại tệ bằng cách mua vào hay bán ra nội tệ trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên Việc tăng giá đồng nội tệ cần cân nhắc tác động của nó: * Tăng giá nội tệ có thể làm tăng nhập siêu, đặc biệt là nhập những hàng hoá xa xỉ, không phải là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống. * Tăng giá nội tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi canh tranh về tỷ giá trên trường quốc tế, có thể mất thị phần. Cũng vậy, việc giảm giá đồng nội tệ hay còn gọi là phá giá với liều lượng mạnh không những có ảnh hưởng đến chính trị mà còn làm cho hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên đắt hơn, tạo áp lực lạm phát. Lạm phát làm xói mòn sức mua của nội tệm nên trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của đại bộ phận người lao động, làm giảm lòng tin của dân chúng vào chính phủ. Như vậy, trong chế độ tỷ giá cố định, khi các lực lượng thị trường làm cho đường cung và đường cầu ngoại hối dịch chuyển, làm cho dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi. Do các lực lượng cung cầu trên thị trường thường xuyên thay đổi, do đó giữa cung và cầu ngoại hối luôn có một độ lệch nhất định. Độ lệch càng lớn thì NHTW càng phải chống đỡ can thiệp càng nhiều, khi độ lệch trở nên gay gắt buộc NHTW phải thay đổi tỷ giá trung tâm.Hai trạng thái cơ bản có thể xảy ra với chế độ tỷ giá cố định đó là : tỷ giá trung tâm thấp hơn tỷ giá thị trường ( đồng nội tệ được định giá quá cao) và tỷ giá trung tâm cao hơn tỷ giá thị trường ( đồng nội tệ được định giá quá thấp) III.Diễn biến quá trình sử dụng chế độ tỷ giá cố định ở Việt Nam Tại Việt Nam, chính sách tỉ giá cố định được áp dụng trong thời kì 1955-1989 – thời kì nền kinh tế mang tính kế hoạch hóa tập trung cao cấp, nhà nước can thiệp vào mọi mặt của đời sống xã hội. Chính sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng các quy luật cung cầu trên thị trường, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng 1 chiến lược phát triển KT hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối, do đó độc quyền trong việc ban hành và ấn định tỷ giá. Đây là thời kì chế độ tỉ giá cố định, đa tỉ giá với tính chất thị trường sâu sắc. - Năm 1955 khi VN bắt đầu có quan hệ ngoại thương với Trung Quốc, tỉ giá được xác định trên cơ sở ngang giá sức mua giữa 2 đồng tiền, kết quả tỉ giá vào ngày 25/11/1955 là 1 CNY= 1470 VND. - Năm 1956, khi VN có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND với đồng Rúp Liên Xô (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa đồng CNY với đồng SUR đã có sẵn từ trước là 1 SUR= 0,5 CNY, suy ra 1 SUR= 735 VND. Tỷ giá trong thời gian này thường được cố định trong một thời gian dài và chúng được điều chỉnh từng đợt theo sự thay đổi về năng suất lao động giữa 2 nước - Năm 1959, VN tiến hành cải cách mệnh giá tiền tệ thông qua cuộc đổi tiền 2/59 với tỷ lệ 1 đồng tiền mới có giá trị bằng 1000 đồng tiền cũ. Tỷ giá thời kì được chia làm 2 khu vực, bao gồm Khu vực 1: Tỷ giá trong phe XHCN và Khu vực 2: Tỷ giá ngoài phe XHCN. Tỷ giá khu vực I: Trong thời gian này, VN có quan hệ thương mại chủ yếu với các nước XHCN. Hình thức buôn bán phổ biến là hàng đổi hàng theo 1 tỷ giá cố định được quy định trong các hiệp định song phương và đa phương. Tỷ giá được chia thành nhiều nhóm tương thích với từng mục đích quan hệ KT khác nhau, bao gồm: - Tỷ giá mậu dịch: Là tỷ giá dùng trong thanh toán có liên quan đến mua, bán hàng hóa, dịch vụ vật chất giữa các nước trong phe XHCN. Nó được xác định dựa trên cơ sở so sánh giá hàng hóa xuất khẩu tính bằng VND và tính bằng ngoại tệ ở nước ngoài. - Tỷ giá phi mậu dịch: Là tỷ giá dùng trong thanh toán, chi trả hàng hóa hoặc dịch vụ vật chất không mang tính thương mại giữa các nước trong phe XHCN, như chi về ngoại giao, đào tạo, hội thảo, hội nghị… Nó được xác định trên cơ sở giá bán lẻ của một số mặt hàng tại 2 nước tính theo đồng tiền của 2 nước. Tại VN trong 1 thời kỳ dài đã quy định tỷ giá phi mậu dịch thấp hơn rất nhiều so với tỷ giá mậu dịch để điều tiết lại phần “chênh lệch giá” do những người nước ngoài được mua rẻ ở VN. - Tỷ giá kết toán nội bộ: Được xác định trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng thêm hệ số phần trăm để bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này không công bố ra ngoài mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ (nên gọi là kết toán nội bộ). Tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) do Nhà nước công bố và cố định trong một thời gian dài. Tại thời điểm công bố, tỷ giá chính thức thường thấp hơn tỷ giá thị trường (tức VND bị định giá cao), do đó hoạt động xuất khẩu tính theo tỷ giá chính thức bị lỗ. Để bù lỗ cho xuất khẩu, Nhà nước dùng tỷ giá kết toán nội bộ bằng tỷ giá chính thức cộng thêm một tỷ lệ phần trăm quy định cho từng nhóm hàng. Đối với hàng nhập khẩu như vật tư nguyên liệu, thiết bị, Nhà nước đứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChế độ tỷ giá cố định.doc
Tài liệu liên quan