Lời nói đầu 1
Chương I: Khái quát chung về tỷ giá hối đoái và hoạt động của chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết 3
I - Tỷ giá hối đoái 3
1. Khái niệm 3
2. Ưu nhược điểm của chế độ tỷ giá thả nổi và chế độ tỷ giá cố định 4
II - Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN 8
1. Mục đích can thiệp 8
2. Các hoạt động can thiệp của NHNN 8
2.1 Nghiệp vụ thị trường mở 8
2.2 Chính sách chiết khấu 8
2.3 Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái 9
2.4 Phá giá tiền tệ 9
2.5 Nâng giá tiền tệ 10
Chương II: Chính sách điều hành tỷ giá của Việt nam trong
thời gian qua - Thành tựu và những mặt còn hạn chế 11
I - Chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 1986 - 198911
1. Thực trạng kinh tế - tài chính của Việt Nam từ 1986 - 198911
2. Đặc điểm của chính sách tỷ giá 11
3. Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá đến hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô và hoạt động ngoại thương 12
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - Kinh nghiệm quốc tế và chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công bố không phản ánh đúng diễn biến tình hình thực tế trên thị trường. Điều này không những gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu mà còn kích thích nhập khẩu. Nhập khẩu tăng đã đe dọa sự phát triển và đứng vững của các doanh nghiệp vốn đang bỡ ngỡ bước vào kinh tế thị trường. Hơn nữa, lý thuyết và thực tế cho thấy việc định giá cao đồng bản tệ sẽ gây thiệt hại lớn cho các hoạt động xuất khẩu, nếu tình trạng này kéo dài trong khi năng lực tài chính ốm yếu thì sớm muộn những bất ổn sẽ xuất hiện khi toàn cầu hóa ngày càng tăng.
Với những đặc điểm nêu trên, trong nền kinh tế mở theo hướng thị trường, Nhà nước cần phải để công cụ tỷ giá giữ đúng vai trò của nó và chính sách điều hành tỷ giá cần phải tuân theo những quy luật khách quan nhất định.
II - Chính sách tỷ giá của Việt nam giai đoạn 1989-1996
Giai đoạn 1989-1996 được coi là giai đoạn cải cách trong điều hành chính sách tỷ giá. Cùng với sự hoàn thiện từng bước chính sách kinh tế, việc điều hành tỷ giá của Chính phủ cũng được cải cách để phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước.
* Đối với hoạt động ngoại thương, chính phủ chủ trương:
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua hai biện pháp “phá giá” vá “tự do hoá” một bộ phận đáng kể xuất khẩu vì xuất khẩu gia tăng có tác động tốt đối với việc điều hành tỷ giá. Hoạt động nhập khẩu cũng được nới lỏng hơn nhưng có quản lý thông qua việc quy định hạn ngạch và chính sách thuế nhập khẩu. Mặt khác, chính phủ còn tiến hành cải cách thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
* Đối với lĩnh vực tiền tệ - tín dụng:
- Nhà nước thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp điều chỉnh chính sách tiền tệ, cải cách hệ thống ngân hàng. Để ngăn chặn xu thế lạm phát cao đang hoành hành, NHNN đã nâng lãi suất tiết kiệm lên có thời kỳ tới 12%/ tháng; đồng thời cắt giảm hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế, nhất là đối với khu vực kinh tế quốc tế quốc doanh; giảm mức phát hành tiền tệ cho chi tiêu ngân sách. Các biện pháp này cũng gián tiếp góp phần hạn chế tốc độ mất giá của đồng nội tệ.
- Chính phủ thực hiện việc cắt giảm chi tiêu cho các công trình đầu tư chưa cấp thiết hoặc không quan trọng; cắt giảm, xoá bỏ tình trạng bao cấp, bù lỗ thông qua ngân sách; tăng cường các khâu tài chính. Những biện pháp này có tác dụng làm giảm cầu hàng hoá và tiền mặt.
- Bắt đầu từ năm 1990, chính phủ chuyển dần cơ chế bù đắp thâm hụt NSNN bằng vay dân, vay nước ngoài thay vì phát hành tiền để trang trải như trước đây. Điều này đã làm tăng khả năng kiểm soát lạm phát của chính phủ, hỗ trợ quá trình thống nhất tỷ giá trên thị trường tự do.
- Để phù hợp với tình hình mới, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và hoạt động đầu tư nước ngoài, chính phủ đã có những cải cách về chế độ quản lý ngoại hối theo hướng: giảm các thủ tục hành chính, nới dần các hạn chế, tăng cường quản lý bằng các công cụ kinh tế.
- Để hạn chế tác động của yếu tố tâm lý, đầu cơ, đặc biệt là sau sự kiện Liên xô sụp đổ năm 1991, khủng hoảng tín dụng 1990-1991, Chính phủ Việt nam đã kịp thời công khai hoá các chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường tốc độ lạm phát, chỉ số biến động của vàng.
Để thuận lợi cho việc đánh giá, phân tích cơ chế điều hành tỷ giá của Chính phủ, chia giai đoạn 1989 - 1996 làm hai thời kỳ:
1 - Thời kỳ 1989-1992
1.1 Cơ sở của việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái
Mục tiêu quan trọng nhất của thời kỳ này là: “ Đẩy lùi, kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô; tìm lối thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái bởi khủng hoảng kéo dài cho nền kinh tế “
Các quan điểm chủ đạo:
Thứ nhất: Chúng ta không thể duy trì chế độ tỷ giá cũ vì nó quá phức tạp lại không có khả năng quản lý ngoại hối, cản trở hoạt động xuất khẩu, và đặc biệt nó không còn ý nghĩa thực tế khi tình trạng đối nội và đối ngoại có nhiều thay đổi.
Thứ hai: Để thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nâng cao dự trữ ngoại tệ của Chính phủ và ổn định tiền tệ thì trong tình hình lúc đó không có cách nào khác hơn là phải phá giá đồng nội tệ.
Thứ ba: Mức độ phá giá phải hợp lý để thực hiện được các mục tiêu đề ra.
Thứ tư: Việc điều chỉnh tỷ giá phải gắn với ngoại tệ mà đại đa số dân chúng và các doanh nghiệp ít nhiều có hiểu biết về nó.
Xuất phát từ những quan điểm đó, Chính phủ đã lựa chọn phương án “phá giá, thả nổi có quản lý, gắn với đồng USD”. Phương án này vừa sử dụng được lợi thế của các yếu tố thị trường và sự can thiệp hợp lý của Nhà nước, vừa là tối ưu cho nền kinh tế Việt nam thời kỳ đó.
Cơ chế điều hành và xác định tỷ giá cũng theo hướng mới. Phương pháp đồng giá sức mua được loại bỏ. Thay vào đó, việc xác định tỷ giá chính thức được tiến hành trên cơ sở như sau:
- Biến động của chỉ số giá cả
- Tình hình cán cân thanh toán
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ
- Biến động của tỷ giá trên thị trường tự do.
1.2 Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
Bắt đầu từ năm 1989, hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN có nhiều đổi mới rõ rệt. Trên cơ sở phương án lựa chọn như trên, chính phủ đã thả nổi TGHĐ nhằm tạo lập quan hệ cung cầu đồng thời mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi lên mức “siêu cao”để thu hút tiền gửi từ nền kinh tế. Các NHTM áp dụng tỷ giá giao dịch của mình trong biên độ 5% so với giá chính thức ( biên độ này sau đó được mở rộng đến 10%, 15%, 30%). Mặc dù vậy cơ chế xác định tỷ giá chưa thực sự linh hoạt, tỷ giá chính thức vẫn được coi là chậm được điều chỉnh do tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường chợ đen ngày càng chênh lệch.
Trước tình trạng giá USD leo thang, VND bị mất giá mạnh, giá cả hàng nhập khẩu tăng nhanh - thúc đẩy lạm phát; từ năm 1992, Chính phủ đã thay đổi chính sách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành TGHĐ giữa VND và USD :
- Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế như mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận.
- Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách và các tổ chức tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, NHNN công bố tỷ giá chính thức.
- Chính phủ đã sử dụng những biện pháp để thắt chặt tiền tệ như khống chế mức cung tiền, hạn chế tối đa việc cấp phát cho chi tiêu NSNN. NHNN đã thành lập các trung tâm giao dịch ngoại tệ và việc điều hành tỷ giá của NHNN được thông qua các trung tâm giao dịch ngoại tệ đó, gồm trung tâm giao dịch ngoại tệ ở thành phố Hồ Chí Minh và một trung tâm giao dịch ở Hà Nội. NHNN không can thiệp trực tiếp vào tỷ giá như trước nữa mà chỉ điều hành thông qua công cụ gián tiếp là quỹ điều hòa ngoại tệ. Khi cần thiết, quỹ này được dùng để mua ngoại tệ hay bán ngoại tệ tại các phiên đấu giá. Trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố, NHTM quy định tỷ giá ngoại tệ bán ra trong phạm vi biên độ 1%: chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua ngoại tệ của các NHTM tối đa là 0,5%.
NHNN đã tiến hành điều chỉnh thành công trước “cơn sốt” ngoại tệ 1991 (giá USD tăng cao). Nội dung điều chỉnh:
- NHNN và NHTM đồng loạt bán USD ra thị trường chính thức.
- NHNN thông báo và bán vàng không hạn chế để thu tiền nội tệ.
Các biện pháp trên đã hạn chế lượng cung tiền VND và làm giảm cầu ngoại tệ. Do đó tỷ giá đã dần được ổn định, tạo tâm lý yên tâm trong dân chúng.
1.3 Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá USD/ VND bình quân hàng năm (1989-1992):
Chỉ tiêu
1989
1990
1991
1992
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Tỷ giá trên thị trường tự do
Chỉ số tăng tỷ giá chính thức (%)
Chỉ số tăng tỷ giá trên TTTD (%)
4.200
4.575
6.650
7.050
158,3
154,1
12.720
12.550
191,3
187
10.720
10.650
84,3
84,8
Nguồn: Học Viện Ngân Hàng
Cùng với sự khởi sắc của hoạt động ngoại thương và hoạt động đầu tư nước ngoài, đồng USD trong thời kỳ này đã tăng liên tục so với đồng nội tệ. Diễn biến của tỷ giá được thể hiện rõ trong bảng trên.
Trong thời gian này, NHNN đã dần nâng tỷ giá, nhưng vẫn chỉ là “ lẽo đẽo” theo sau tỷ giá chợ đen nên đã làm cho số ngoại tệ thu hút bị giảm đi. Khi giá USD tăng cao đã kích thích tâm lý dự trữ USD để tránh bị trượt giá nếu giữ bằng VND và hiện tượng đầu cơ USD để hưởng chênh lệch giá. Ngoại tệ mạnh vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà bị buôn bán vòng vèo qua các cá nhân, tổ chức trong nước.
Trong tình hình như vậy, NHNN không phát huy được vai trò quản lý ngoại tệ của mình. Về mặt chính sách, chính phủ đã tiến hành quản lý chặt đối với lưu thông ngoại tệ và tỷ giá hối đoái. Nhưng trên thực tế tỷ giá hối đoái đã bị “thả nổi”, vượt tầm kiểm soát nhất định của NHNN nên thời kỳ 1989 - 1992 còn được coi là thời kỳ “thả nổi tỷ giá”.
1.4 ảnh hưởng của chính sách tỷ giá và những biến động của tỷ giá đối với hoạt động ngoại thương trong thời kỳ này
Hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1989 - 1992 có những chuyển biến rõ rệt. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục qua các năm. Trong thời kỳ này, xuất khẩu gia tăng, thâm hụt cán cân thương mại giảm dần qua các năm, đặc biệt là năm 1992. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam tăng lên năm 1992 có sự góp phần quan trọng của đồng VND bị phá giá mạnh tới 60% so với USD (1991).
1.5 Nhận xét
Qua nghiên cứu chính sách tỷ giá và tác động của nó đến hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1989 - 1992, có thể kết luận rằng chính sách tỷ giá và hoạt động ngoại thương có mối quan hệ qua lại với nhau rất chặt chẽ. Trong giai đoạn này, do tỷ giá được xác định thông qua các giao dịch tại hai trung tâm ngoại tệ nên đã sát với tình hình thị trường. Tuy nhiên, việc điều hành và xác định tỷ giá như vậy vẫn còn những hạn chế nhất định:
- TGHĐ xác định qua các trung tâm không phản ánh được quan hệ cung cầu ngoại tệ trên phạm vi cả nước.
- Việc kiểm soát trạng thái ngoại hối của NHNN đối với các NHTM còn lỏng lẻo, chưa có quy định cụ thể. Hoạt động giao dịch ngoại tệ của một số NHTM đôi lúc còn mang tính đầu cơ, đặc biệt khi tỷ giá biến động mạnh.
- Mức độ can thiệp của NHNN đối với tỷ giá đôi khi còn quá lớn. Thậm chí trong nhiều phiên giao dịch chỉ có NHNN là người mua hay người bán duy nhất.
Với những đặc điểm trên, việc điều hành tỷ giá của NHNN vẫn cần được cải thiện hơn nữa. Như vậy mới có thể tạo điều kiện để “đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập khẩu” theo tinh thần nghị quyết Đai hội Đảng VII.
2. Thời kỳ 1993 - 1996
2.1 Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
Có thể nói, thời kỳ 1993 - 1996 là một thời kỳ có nhiều nét đổi mới quan trọng trong chính sách điều hành tỷ giá của NHNN. Việc điều hành tỷ giá của NHNN không những đã sát hơn với tình hình thực tế mà còn góp phần ổn định thị trường tiền tệ, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. NHNN thực hiện đồng thời nghiệp vụ “thị trường mở “ và công cụ lãi suất trong điều hành tỷ giá.
Ngày 20/ 9/ 1994 NHNN ra quyết định 203A/ QĐ-NH13 thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (TTNTLNH). Quyết định này nhằm tạo ra thị trường ngoại tệ thống nhất với quy mô lớn hơn; trong đó NHNN tăng cường kiểm soát đối với các giao dịch ngoại tệ. Cùng ngày, thống đốc NHNN đã ra quyết định số 206/ QĐ-NH7 về “Quy chế xác định, điều chỉnh và công bố tỷ giá hối đoái của VND với ngoại tệ”. Theo đó các NHTM được điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn và NHNN chỉ thực hiện chức năng là người giao dịch cuối cùng. Sự can thiệp của NHNN cũng chỉ ở mức độ cần thiết, nhằm theo đuổi mục tiêu chính sách tiền tệ của từng thời kỳ. Tỷ giá hối đoái cũng được xác định một cách khách quan hơn, phù hợp hơn với quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường.
Cũng nhờ quyết định kịp thời đó mà khoảng cách giữa tỷ giá trên TTNTLNH và trên thị trường tự do được thu hẹp dần. Ngân hàng ngày càng thu hút thêm nhiều ngoại tệ tiền gửi. Điều này góp phần làm tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam.
Như vậy trong thời kỳ này NHNN đã thi hành chính sách tỷ giá “mềm dẻo, năng động, phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường và hướng điều tiết của chính phủ nhằm ổn định giá cả của VND và khuyến khích hoạt động xuất khẩu”.
2.2 Diễn biến tỷ giá
Tình hình tỷ giá trong giai đoạn này nhìn chung tương đối ổn định, mức độ dao động nhỏ.
Tỷ giá USD bình quân các năm như sau:
Năm
1993
1994
1995
1996
Tỷ giá chính thức
10.642
10.956
11.021
11.025
Tỷ giá trên thị trường tự do
10.705
10.978
11.041
11.010
Nguồn: Vụ Quản Lý Ngoại hối – NHNN
Trong thời kỳ này, khoảng cách giữa tỷ giá trên TTNTLNH và trên thị trường tự do được thu hẹp dần. Biến động về tỷ giá qua các năm ở mức độ nhỏ nên thời kỳ 1993 - 1996 còn được gọi là “thời kỳ ổn định tỷ giá”.
2.3 Tác động của chính sách tỷ giá đối với hoạt động Ngoại thương.
Trong thời kỳ này, chính sách tỷ giá và hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN đã có nhiều đổi mới, góp phần ổn định thị trường tiền tệ nước nhà. Sự ổn định của tỷ giá hối đoái đã tạo điều kiện cân đối lợi ích giữa xuất khẩu và nhập khẩu, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu của đất nước. Hơn nữa, việc duy trì tỷ giá tương đối ổn định trong thời gian khá dài đã góp phần củng cố sức mua đối nội của VND, kiềm chế lạm phát, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặc dù vậy, do tỷ giá được ổn định quá lâu, chậm được điều chỉnh nên vai trò khuyến khích xuất khẩu của nó hầu như vẫn chưa có tác dụng. Cán cân xuất nhập khẩu luôn bị thâm hụt trong thời kỳ này, nhập siêu liên tục và đạt mức cao vào năm 1995, 1996.
Theo số liệu thống kê, tỷ lệ lạm phát từ năm 1993 đến 1996 là 37%, trong khi tỷ giá USD/ VND chỉ tăng hơn 2%. Như vậy VND đã bị đánh giá cao tương đối so với USD. Đây là một trở ngại đối với hoạt động xuất khẩu và kích thích nhập khẩu. Tại thị trường nội địa hàng hoá của các nhà sản xuất trong nước bị cạnh tranh gay gắt bởi một lượng lớn hàng nhập khẩu từ bên ngoài vào nên càng khó thâm nhập và đứng vững trên thị trường quốc tế. Thực trạng này đòi hỏi chính phủ phải linh hoạt hơn nữa trong điều hành tỷ giá để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
3. Nhận định chung về chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của Việt nam trong giai đoạn 1993 - 1996
Giai đoạn 1993 - 1996, Việt nam đã thu được nhiều thành tựu trong việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát cao đã bị đẩy lùi và ở mức có thể kiểm soát được. Tăng trưởng GNP bình quân thời kỳ 1990-1995 là 8,2%/ năm, riêng năm 1996 là 9,4%.
Những kết quả đó đã minh chứng cho tính hợp lý của chính sách kinh tế vĩ mô, mà trong đó có cả chính sách tỷ giá hối đoái. Mặc dù tình trạng mất cân đối trong cán cân thương mại ngày càng tăng, nhưng điều này là do nhiều nguyên nhân và không thể đổ lỗi cho riêng TGHĐ.
Chính phủ tiến hành phá giá VND để thúc đẩy xuất khẩu ngăn chặn xu hướng lên giá của VND thì sẽ rơi vào tình thế “lợi bất cập hại”. Nền kinh tế của ta mới được chuyển đổi và đạt được những thành tựu bước đầu nên mục tiêu “ổn định kinh tế vĩ mô“ là quan trọng nhất. Trong hoàn cảnh kinh tế nước ta lúc đó nếu như Chính phủ tuyên bố phá giá VND thì chắc chắn những bất ổn sẽ xuất hiện.
Chính vì những đặc điểm đó mà có thể nhận định rằng chính sách tỷ giá hối đoái trong giai đoạn 1993 - 1996 của Việt nam nhìn chung là hợp lý - thể hiện những nỗ lực của chính phủ và NHNN trong việc cải cách và hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá. Song cũng phải thừa nhận rằng chính sách này vẫn chưa thực sự rõ ràng, việc đánh giá VND vẫn chưa phản ánh đúng sức mua của đồng nội tệ. Điều này đòi hỏi NHNN cần phải linh hoạt hơn nữa trong việc xác định và điều hành tỷ giá. Có như vậy chúng ta mới có thể đi lên với những bước tiến vững chắc trên tiến trình công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
III . Chính sách tỷ giá của Việt nam từ 1997 đến nay
1. Tình hình kinh tế - tài chính trong nước
a. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Từ năm 1997 đến năm 1999, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng giảm dần, như năm 1997: tăng 8,8%, năm 1998: tăng 3,8%; năm 1999: tăng 5,7%; Tốc độ tăng trưởng như vậy được đánh giá là chưa đủ để giải quyết những nhu cầu phát triển của đất nước. Hiện tượng “suy thoái” đang kéo theo nguy cơ gây bất ổn định kinh tế vĩ mô khi có những biến động lớn. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, tình hình kinh tế đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, năm 2000 tốc độ tăng trưởng đạt 6,7%; chín tháng đầu năm 2001 tăng 7%, dự kiến mức tăng trưởng cả năm là 7,1%.
Trong giai đoạn này tình hình lạm phát có nhiều biến động thất thường song vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của Chính phủ. Lạm phát năm 1997: 3,7%; năm 1998: 3,5%; năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,1%; năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng đã giảm 0,6%; năm 2001 chỉ số tiêu dùng chỉ tăng ở mức 5,2% so với năm 2000.
b. Tình hình tài chính và hoạt động ngân hàng.
Tình hình hoạt động tài chính và hoạt động ngân hàng được đánh giá là khá trầm lắng và tẻ nhạt. Thâm hụt ngân sách tiếp tục tăng, năm 1997 là 3,5%; năm 1998 là 3,6%; năm 1999 là 5,5%. Trong khi đó, số các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ ngày càng nhiều, đặc biệt là năm 1997 là 35%. Nợ nước ngoài của Việt nam hiện đang ở mức cao, năm 1997 số dư nợ đã lên tới hơn 10 tỷ USD. Tuy trong hai năm trở lại đây, tình hình có vẻ khả quan hơn. Tuy hệ thống ngân hàng đã có những bước cải tổ khá mạnh mẽ kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á năm 1997, nhưng tình trạng nợ quá hạn tại các NHTM vẫn là một điều đáng lo ngại. Không chỉ có vậy, hàng xuất khẩu của Việt nam liên tục chịu sức ép về giá trên thị trường quốc tế. Đồng VND cũng ở trong tình trạng tương tự do sự phá giá mạnh của các đồng tiền trong khu vực.
Bối cảnh thực tế như vậy đã tác động lớn đến sự ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Diễn biến tình hình đòi hỏi chính phủ phải có những quyết sách kịp thời để hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực và nguy cơ suy thoái toàn cầu, duy trì tốc độ tăng trưởng như mục tiêu đã đề ra.
2. Cơ chế điều hành tỷ giá của Việt nam từ 1997 đến nay
2.1 Chính sách tỷ giá
Trước diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, Việt nam đã kịp thời có những giải pháp về tiền tệ và tỷ giá nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của nó. Chính phủ chủ trương: “ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước nhằm góp phần củng cố sức mua của VND, duy trì tỷ giá hối đoái tương đối ổn định, phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường tài chính và chính sách xuất khẩu của Nhà nước ...”.
NHNN thực hiện chức năng là người giao dịch cuối cùng để tăng cường hiệu lực các quyết định điều tiết thị trường. Nhưng sự can thiệp này cũng chỉ ở mức độ cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý ngoại hối cũng được điều chỉnh, cụ thể là trong năm 1998, NHNN đã tăng cường khả năng kiểm soát luồng ngoại tệ.
Ngày 12/ 9/ 1998 chính phủ ban hành quyết định số 173/ 1998 QĐ/ TTg về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức. Đây được coi là giải pháp tình thế để giảm bớt căng thẳng giữa cung và cầu ngoại tệ.
Ngày 30/ 8/ 1999 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 18/ 1999 QĐ/ TTg theo đó người cư trú là tổ chức phải bán ngay tối thiểu 50% số ngoại tệ thu được từ các nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ thay vì 80% như trước đây. Mặt khác để tăng cường hoà nhập quốc tế, Chính phủ đã ban hành cơ chế quản lý ngoại hối mới thay cho cơ chế quản lý ngoại hối cũ, thể hiện ở nghị định 63/ NĐ-CP (17/ 8/ 1998). để tăng cường vai trò quản lý ngoại hối của nhà nước.
Ngày 25/2/1999 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 46 về việc “công bố tỷ giá hối đoái của VND với các ngoại tệ” và quyết định 65 về việc “quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ”.
Như vậy, từ tháng 2/ 1999 Việt Nam đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái MARS ( Market Average Rate System - hệ thống tỷ giá bình quân thị trường). Theo hệ thống này thì thay vì thông báo tỷ giá chính thức (USD/ VND) với biên độ dao động 7%, NHNN thông báo tỷ giá liên ngân hàng trung bình của ngày hôm trước và các giao dịch ngoại hối được phép giao động trong biên độ 0,1%. Với việc ban hành hai quyết định trên, NHNN tiếp tục hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái, phù hợp với các mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế. Điều này cũng cho thấy xu hướng tự do hóa rõ rệt hơn trong điều hành tỷ giá hối đoái có sự điều tiết của Nhà nước.
2.2. Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
Từ năm 1997 đến nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN đã trở nên “linh hoạt và sôi động hơn” giai đoạn trước. NHNN đã nhiều lần điều chỉnh tỷ giá chính thức và biên độ giao dịch kinh doanh ngoại tệ của các NHTM. Năm 1998, NHNN tiếp tục việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng chính sách quy định trần lãi suất cho vay đối với VND và USD. Trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất huy động phù hợp với cung cầu vốn tín dụng đồng thời xoá bỏ quy định chênh lệch lãi suất huy động bình quân 0,35%/ tháng như năm 1996, 1997. Như vậy, chính sách lãi suất đã được thực hiện trong “mối tương quan hài hoà” với chính sách tỷ giá. Có thể nói sự phối hợp này là khá thành công trong việc hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính nước nhà.
2.3 Diễn biến tỷ giá từ năm 1997 đến nay
a. Diễn biến tỷ giá 1997 – 1999
Tỷ giá bình quân qua các năm (USD/ VND):
1997
1998
1999
11.050
12.000
13.470
Từ năm 1997 đến năm 2000, tỷ giá USD/ VND có nhiều biến động, đặc biệt là vào cuối năm 1997 nhưng vẫn nằm trong khả năng kiểm soát của NHNN. Đầu năm 1997, giá USD có giảm do lượng kiều hối tăng lên. Sau đó lại nhích dần lên và đến cuối năm 1997, tỷ giá USD/ VND tăng nhanh, đặc biệt là tỷ giá trên thị trường tự do, lên tới trên 13.000 VND/ USD.
Nhưng đến đầu năm 1998, tỷ giá này hạ dần do lượng kiều hối khá lớn vào Việt Nam và ở mức trung bình 12.000 USD/ VND trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tuy nhiên mức chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá chính thức vẫn còn khá lớn.
Trong hai năm 1999 và 2000 tỷ giá đã tăng mạnh, điều đó phản ánh đúng với quan hệ cung cầu thị trường. Nhưng một nhân tố có ảnh hưởng mãnh mẽ trong giai đoạn nay là tâm lý người dân vẫn chuộng USD hơn là VND.
b. Tác động của chính sách tỷ giá đến hoạt động ngoại thương
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, hoạt động ngoại thương, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong thời gian này gặp rất nhiều khó khăn:
* Hoạt động xuất nhập khẩu năm 1997:
- Xuất khẩu:
Tổng kim ngạch xuất khẩu không cao như dự kiến, chỉ đạt 8.955 triệu USD. Một phần do giá quốc tế của các mặt hàng xuất khẩu đều giảm, mặt khác do hàng hoá xuất khẩu của ta thiếu sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Nhập khẩu:
Năm 1997, nhập khẩu giảm so với năm 1996, tỷ lệ nhập siêu cũng giảm theo. Hoạt động kiểm soát nhập khẩu đã được triển khai một cách tích cực. Hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chững lại. Một số doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phải ngừng hoạt động do khả năng xuất khẩu giảm hoặc do chi phí đầu vào tăng vì giá hàng nhập khẩu đang cao lên trông thấy.
* Hoạt động xuất nhập khẩu năm1998:
- Xuất khẩu:
Hoạt động xuất khẩu đã chững lại trong năm1998 đạt 9.361 triệu USD so với kế hoạch ban đầu là 11 tỷ USD. Điều này là do khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị thị trường quốc tế bị giảm sút mạnh mẽ. Tác nhân chính làm cho xuất khẩu của Việt Nam năm 1998 chững lại là:
+ Sức mua của các bạn hàng chủ chốt trong khu vực Châu á giảm mạnh.
+ Khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam yếu đi do đồng tiền của các nước trong khu vực mất giá. Điều đáng lưu tâm là hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta lại trùng lắp với các nước có đồng tiền bị mất giá.
+ Nhu cầu tiêu thụ giảm của Châu á đã làm cho giá thế giới của một số mặt hàng giảm khá mạnh, trong đó có nhiều hàng thuộc diện “ anh cả đỏ “ trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam.
- Nhập khẩu:
Hoạt động xuất khẩu năm 1998 có nhiều điểm khác biệt so với các năm trước.Tỷ lệ nhập siêu giảm rõ rệt. Kim ngạch nhập khẩu năm 1998 giảm ở mức 10.160 triệu USD. Biện pháp nâng tỷ giá USD/ VND lên so với năm 1997 đã góp phần quan trọng trong việc hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu. Nhưng trong bối cảnh đồng tiền các nước trong khu vực mất giá mạnh, hoạt động nhập khẩu của Việt nam cũng bị ảnh hưởng nhiều.
Nhìn chung trong năm 1998, mặc dù chính phủ đã có nhiều cố gắng để thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu nhưng kết quả vẫn còn khá khiêm tốn. Việc hai lần điều chỉnh tỷ giá chính thức của NHNN đã góp phần tạo thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu, song theo đánh giá chung thì biện pháp này vẫn chưa đủ. Đồng VND vẫn cao tương đối so với đồng USD và nhiều đồng tiền chủ chốt khác. Tỷ giá chính thức do NHNN công bố hiện cũng chưa thực sát hợp với tình hình thị trường và còn mang tính hành chính, cứng nhắc.
* Hoạt động xuất khẩu – nhập khẩu năm 1999:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0963.doc