MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 - NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN
ĐẠI HOÁ 3
I-/ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CNH - HĐH. 3
II-/ NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ. 5
1-/ NHỮN THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN. 5
1.1. Những thuận lợi. 5
1.2. Những khó khăn 7
2-/ NỘI DUNG CNH - HĐH. 9
2.1. Nội dung của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam. 9
2.2. Các giải pháp đối với chiến lược CNH - HĐH. 10
2.3. Mục tiêu của CNH - HĐH. 12
CHƯƠNG 2 - CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN
ĐẠI HOÁ 14
1-/ NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NSNN. 14
1.1. Khái niệm NSNN. 14
1.2. Đặc điểm của chi NSNN. 14
2-/ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHI NGÂN SÁCH. 14
2.1. Khái niệm. 14
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu, nội dung chi NSNN. 15
2.3. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước. 16
2.4. Những nguyên tắc tổ chức chi NSNN. 16
3-/ VAI TRÒ CỦA CHI NSNN ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CNH - HĐH. 17
3.1. Thực trạng của chi NSNN 17
2-/ VAI TRÒ CỦA CHI NSNN ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ĐẤT NƯỚC. 20
CHƯƠNG 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CHI NSNN
TRONG SỰ NGHIỆP CNH - HĐH 31
1-/ XOÁ BỎ TÌNH TRẠNG BAO CẤP TRONG CHI NSNN. 31
2-/ CƠ CẤU LẠI CHI NSNN, SỬ DỤNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH HỢP LÝ ĐÚNG HƯỚNG, CÓ TRỌNG ĐIỂM. 32
3-/ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CƠ CHẾ CẤP PHÁT VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH, TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN. 32
4-/ NÂNG CAO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. 33
5-/ TĂNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. 33
PHẦN KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2946 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chi ngân sách nhà nước và vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
Dự kiến GDP sẽ tăng từ 8 đến 10 lần so với năm 1990, nông nghiệp tuy vẫn tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội. Về đời sống vật chất và văn hoá: đảm bảo cho nhân dân có cuộc sống ấm no, nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi đi lại học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn minh khá cao, gia đình hạnh phúc, môi trường sinh thái trong lành.
Những tư tưởng chỉ đạo để thực hiện các nhiệm vụ tổng quát đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước là:
Thứ nhất, thực hiện đồng thời 3 mục tiêu - tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, chuẩn bị các tiền đề cho những bước phát triển cao hơn đến năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chất.
Thứ hai: thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh CNH - HĐH. Đổi mới cơ bản tổ chức và quản lý nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo.
Thứ ba, kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá xã hội.
Thứ tư: Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, của phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục vụ cho an ninh, quốc phòng.
Thứ năm, kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển, phát huy được lợi thế của mỗi vùng, chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng dần dần được khắc phục.
Đến năm 2000 phải đạt được các chỉ tiêu cụ thể: GDP bình quân đầu người tăng gấp hai lần năm 1990, nhịp độ tăng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 9 - 10% sản xuất nông lâm - ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,5 - 5%, công nghiệp 14 - 15%; dịch vụ 12 - 13%; xuất khẩu tăng 28%, tỷ lệ đầu tư/GDP khoảng 30%. Về cơ cấu kinh tế đến năm 2000 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34 - 35% trong GDP. Nông, lâm - ngư nghiệp chiếm khoảng 19 - 20%, dịch vụ chiếm khoảng 45 - 46%.
Chương 2
Chi ngân sách Nhà nước và vai trò của chi ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
1-/ Những lý luận chung về NSNN.
1.1. Khái niệm NSNN.
NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước - quỹ ngân sách để phục vụ cho việc thực hiện chức năng của Nhà nước. NSNN phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh do Nhà nước tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính quốc gia nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Hai quan niệm phổ biến hiện nay về NSNN cho rằng:
- NSNN là một bản dự toán thu chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 1 năm.
- Quan niệm khác cho rằng: NSNN là quỹ tiền tệ của Nhà nước, các quan niệm trên về NSNN đã phản ánh đầy đủ mặt cụ thể, mặt vật chất của NSNN, nhưng chưa thể hiện được nội dung kinh tế - xã hội của NSNN.
1.2. Đặc điểm của chi NSNN.
Hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước thể hiện bề ngoài của hoạt động NSNN rất đa dạng và phong phú được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế, xã hội. Tuy nhiên chúng có những đặc điểm chung như sau:
- Tính chất một sở hữu duy nhất.
- Tính chất pháp lý cao - thu chi do cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là Quốc hội quyết định.
- NSNN mang tính chất phân phối lại là chủ yếu.
- NSNN được chia thành nhiều quỹ nhỏ trước khi đưa vào sử dụng cho các mục đích cụ thể.
- Trong các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích mà ngân sách phản ánh thì lợi ích quốc gia, lợi ích tổng thể bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu chi phối các mặt lợi ích khác trong thu chi NSNN.
2-/ Những vấn đề chung về chi ngân sách.
2.1. Khái niệm.
Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách cho việc trang trải các chi phí của bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định - chi NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nẩy sinh trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
Chi NSNN là sự phối hợp giữa hai quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN.
Quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng là quá trình phân phối.
Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ ngân sách không trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Ví dụ, việc chi dùng quỹ NSNN cho đầu tư xây dựng cơ bản hoặc các chương trình kinh tế có mục tiêu.
Nội dung cơ cấu chi NSNN khác nhau phụ thuộc vào mỗi một chế độ xã hội, mỗi một giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên chúng có những đặc điểm chung như sau:
- Chi NSNN gắn chặt với bộ máy Nhà nước, và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị xã hội mà Nhà nước đảm đương trước mỗi quốc gia. Nhà nước với bộ máy càng lớn, đảm đương nhiều nhiệm vụ thì mức độ, phạm vi của chi NSNN càng lớn.
- Chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung mức độ các khoản chi NSNN là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
- Hiệu quả các khoản chi NSNN được xem xét trên tầm vĩ mô. Điều đó có nghĩa là phải xem xét một cách toàn diện trên cơ sở hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội mà các khoản chi NSNN đảm nhiệm.
- Các khoản chi của NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Đặc điểm này đã thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lãi dưới các khoản chi của NSNN. Điều này được quyết định bởi chức năng tổng hợp về kinh tế - xã hội của Nhà nước. Tính chất này giúp phân biệt các khoản chi của NSNN với các khoản tín dụng.
- Các khoản chi NSNN gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái và nói chung là phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu, nội dung chi NSNN.
- Chế độ xã hội, đây là nhân tố cơ bản quyết định đến nội dung cơ cấu chi NSNN cho chế độ xã hội quyết định đến bản chất và nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước. Nhà nước là chủ thể của NSNN, vì thế nội dung cơ cấu chi NSNN chịu sự ràng buộc của chế độ xã hội.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là nhân tố vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo khả năng và điều kiện cho việc hình thành nội dung cơ cấu chi ngân sách hợp lý trong từng thời kỳ.
- Khả năng tích lũy của nền kinh tế là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng chi đầu tư phát triển kinh tế của ngân sách, khả năng tích luỹ càng lớn thì khả năng chi đầu tư phát triển kinh tế càng lớn. Đương nhiên việc đầu tư của ngân sách cho đầu tư phát triển kinh tế tuỳ thuộc vào khả năng tập trung nguồn tích luỹ và NSNN và chính sách chi của NSNN trong từng giai đoạn lịch sử.
- Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong từng giai đoạn lịch sử.
- Sự biến động về tình hình giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái.
2.3. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước.
Cơ cấu chi NSNN được hiểu là hệ thống các khoản chi ngân sách bao gồm: các khoản chi và tỷ trọng của nó. Hệ thống chi NSNN rất đa dạng và phong phú và luôn luôn biến động theo tình hình kinh tế - xã hội, chính trị, có nhiều cách phân loại các khoản chi NSNN tuỳ theo các tiêu thức khác nhau. Phân loại ở đây có nghĩa là sắp xếp các khoản chi NSNN có cùng tính chất, cùng mục đích thành các loại chi. Nếu căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi, người ta chia ra các khoản chi bằng hai loại:
- Chi cho đầu tư phát triển sản xuất.
- Chi cho tiêu dùng.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực chi, người ta có thể chia các khoản chi theo các loại:
- Chi cho y tế.
- Chi cho giáo dục.
- Chi cho phúc lợi.
- Chi cho quản lý Nhà nước
- Chi đầu tư kinh tế.
Nếu căn cứ theo yếu tố có thể phân loại các khoản chi thành:
- Chi thường xuyên
- Chi đầu tư
- Chi trả khác.
Nếu căn cứ theo chức năng của Nhà nước thì các khoản chi NSNN được phân bằng hai loại:
- Chi nghiệp vụ
- Chi phát triển.
Mục đích phân loại này để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các chức năng của Nhà nước thông qua các khoản chi.
2.4. Những nguyên tắc tổ chức chi NSNN.
- Nguyên tắc thứ nhất: gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi.
- Nguyên tắc thứ hai: tiết kiệm, có hiệu quả.
- Nguyên tắc thứ ba: tập trung vốn có trọng điểm.
- Nguyên tắc thứ tư: thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Nguyên tắc thứ năm: Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp theo luật để bố trí các khoản chi thích hợp.
- Nguyên tắc thứ sáu: Kết hợp chặt chẽ chi NSNN với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ gía hối đoái để tạo nên sức mạnh tổng hợp tác động đến kinh tế vĩ mô.
3-/ Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH.
3.1. Thực trạng của chi NSNN
- Trong giai đoạn 1986 - 1995 chính sách phân phối NSNN đã có nhiều đổi mới tích cực, góp phần quan trọng vào những thắng lợi của nền kinh tế - xã hội.
- Chi ngân sách ngày càng tăng đã phục vụ có kết quả việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ cơ cấu chi đã từng bước thay đổi một cách hợp lý hơn, tình trạng bao cấp qua chi ngân sách được thu hẹp dần.
- NSNN coi trọng đầu tư cho phát triển, tiết kiệm chi tiêu dùng tăng chi tích luỹ cho đầu tư phát triển. Năm 1994 thặng dư thu chi thường xuyên của NSNN dành cho đầu tư đã đạt 3,4% so với GDP chiếm 55% tổng chi của NSNN cho đầu tư phát triển tăng gấp 3 lần so với năm 1990, 2 lần so với năm 1991. Trong năm 1999, chi đầu tư phát triển tăng 38,7% so với dự toán. Số tăng chi này chủ yếu là để thực hiện kích cầu thông qua việc bổ sung vốn cho các công trình cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp, nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, xây dựng giao thông ở các tỉnh miền núi, vùng cao, vùng sâu và củng cố nhiều khó khăn, cũng trong năm 1999, chi thường xuyên đạt 102,1% dự toán năm. Trong đó chú trọng tăng chi cho giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ như tinh thần nghị quyết TW 2, cắt giảm chi quản lý hành chính đồng thừi đảm bảo củng cố quốc phòng, an ninh đối ngoại.
- NSNN đã chú trọng đầu tư cho chiến lược con người trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, bảo đảm chi cho việc thực hiện các chính sách xã hội.
Đây là một trong những mục tiêu quan trọng đẩy mạnh CNH - HĐH. Quyết định sự thành công hay thất bại của CNH - HĐH.
- Cùng với việc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng, NSNN chú trọng chi cho việc duy tu, bảo dưỡng, nâng dần tính hiệu quả sử dụng của hệ thống hạ tầng.
- Đồng thời, đã đảm bảo kinh phí cho nhiệm vụ chiến lược bảo vệ tổ quốc, an ninh quốc gia.
Trong giai đoạn này, bội chi NSNN đã có xu hướng giảm dần qua từng thời kỳ 1986 - 1990: 7,7% so với GDP; 1991 - 1995: 4,3% so với GDP. Theo con số mới nhất, bội chi NSNN vào năm 1999 được kiềm chế trong kiểm soát và có tác động tích cực đối với quá trình kích thích tăng trưởng, chống thiểu phát, nâng cao sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế. Bội chi NSNN năm 1999 là 4,9%, cao hơn mức bội chi năm 1998 (3,6% GDP) và mức Quốc hội cho phép hồi đầu năm (3,5% GDP). Đặc biệt, đây là năm thứ 8 chúng ta không phát hành thêm tiền mà vay trong nước thông qua phát hành tín phiếu kho bạc và vay ưu đãi nước ngoài (ODA) để bù đắp bội chi, và toàn bộ phần bù đắp bội chi dành cho đầu tư phát triển, nhờ vậy đã góp phần quan trọng vào giảm lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Như vậy, bội chi NSNN được kiềm chế trong tầm kiểm soát và có tác động tích cực đối với quá trình kích thích tăng trưởgn, chống thiểu phát, nâng cao sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế.
- Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá IX nước CHXHCNVN đã thông qua luật NSNN. Đây là văn bản pháp lý cao nhất về quản lý ở Việt Nam. Theo tinh thần của luật NSNN, việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả các khoản chi NSNN là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thuộc NSNN. Công tác kiểm soát, thanh toán chi trả các khoản chi ngân sách của KBNN là công đoạn cuối cùng để hoàn thành quy trình kiểm soát chi NSNN. Đây là khâu chủ yếu có tầm quan trọng đặc biệt, giúp cho tiền vốn chi ra của NSNN được sử dụng vào mục đích đã định một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất. Nhờ những quy định chặt chẽ này, việc điều hành NSNN trở nên có hiệu quả hơn và chi mua sắm, sửa chữa của các đơn vị đã được quản lý một cách chặt chẽ bằng cơ chế đấu thầu (đối với hợp đồng có giá trị > 100 triệu. Đối với các khoản chi thường xuyên khác thì thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải tự chịu trách nhiệm, KBNN chỉ kiểm tra thanh toán theo bảng kê chứng từ, chính vì vậy đã tạo ra tính chủ động cho đơn vị thụ hưởng ngân sách, tạo sự thông thoáng trong việc quản lý chi thường xuyên của đơn vị.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chi ngân sách còn những tồn tại và hạn chế sau:
- Quản lý NSNN thiếu tập trung, thống nhất: nhiều nguồn lực tài chính không được động viên vào NSNN còn phân tán chia cắt, sử dụng hết sức lãng phí, kém hiệu quả đặc biệt là tài nguyên, khoáng sản, đất đai, nhà cửa và các loại bất động sản khác bị mất mát, tổn thất rất lớn, một bộ phận không nhỏ đã biến thành tài sản phường hội của một nhóm người và cá nhân.
- Mặc dù tốc độ thu ngân sách tăng nhanh, liên tục song tình hình chi ngân sách vẫn luôn căng thẳng, vì tiềm lực của ngân sách vẫn còn rất hạn chế nhưng phải chịu sức ép tăng chi của cả chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. ở đây cần phải nói thêm rằng, giai đoạn trước khi có luật NSNN (từ năm 1990 đến 1996), việc cấp phát ngân sách bằng lệnh chi tiền của cơ quan tài chính còn khá phổ biến ở các cấp ngân sách, đặc biệt là ngân sách cấp tỉnh, huyện. Trong trường hợp này, tiền của NSNN được chuyển thẳng vào tài khản tiền gửi của đơn vị dự toán, tồn quỹ ngân sách bị giảm trong khi đơn vị chưa sử dụng ngay số tiền đó. Điều đó một mặt gây căng thẳng giả tạo cho NSNN, mặt khác cơ quan tài chính, kho bạc Nhà nước rất khó khăn trong việc kiểm tra giám sát quá trình chi tiêu của đơn vị.
- Việc quản lý NSNN vẫn còn nhiều yếu kém, nhiều khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Định mức chi không đúng hoặc không rõ ràng, việc cấp phát ngân sách còn qua nhiều khâu, nhiều cấp, thủ tục phiền hà, nhiều sơ hở gây thất thoát lớn cho NSNN, chưa có cơ chế quy định việc kiểm tra kiểm soát trước, trong và sau khi thực hiện chi, việc quyết toán ngân sách thực chất chỉ là quyết toán số cấp phát, chưa phải là quyết toán số thực chi ngân sách, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách không được quy định rõ ràng, nên dần đến tình trạng tuỳ tiện, chi sai mục đích vi phạm kỷ luật tài chính. Cơ quan tài chính, KBNN thiếu cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản.
Chi NSNN cơ quan tài chính ra lệnh cấp phát, KBNN thực hiện việc xuất quỹ ngân sách theo lệnh của cơ quan tài chính, đơn vị thụ hưởng thực hiện chi tiêu. Cơ quan tài chính căn cứ nhu cầu chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách để bố trí theo các khoản chi, có phân chia chi tiết theo một số mục chi nhưng chỉ là hình thức, việc điều chỉnh giữa các mục chi do các đơn vị tự động thực hiện dẫn đến tình trạng kiểm soát chi tiêu qua kho bạc Nhà nước rất hạn chế, đặc biệt đối với việc mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên của các đơn vị dự toán. Thời kỳ này (1990 - 1996) cơ chế đấu thầu chưa được triển khai thực hiện nên tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát kinh phí NSNN còn khá phổ biến.
- Tính năng động, sáng tạo của địa phương trong việc tăng thu tiết kiệm các khoản chi chưa được phát huy. Điều này xuất phát từ nhược điểm của phân cấp ngân sách hiện nay, việc phân định nhiệm vụ thu, chi cho ngân sách địa phương không rõ ràng và thường xuyên thay đổi qua các năm.
- Bội chi ngân sách tuy đã giảm, nhưng vẫn còn lớn, việc bù đắp bội chi thực hiện bằng vay trong nước và vay (ODA). Nhưng các khoản vay ngoài nước không được quản lý chặt chẽ, hiệu quả sử dụng kém, khoản vay dân chủ yếu là vay ngắn hạn dưới một năm với lãi suất cao (cứ hơn sau 3 năm thì khoản vay này tăng gấp đôi). Hiện đang là một gánh nặng phải trả đối với NSNN. Đối với các khoản vay ngoài nước thì khó khăn lớn nhất là mức rút vốn thấp và chậm. Các khoản vay dân và vay nước ngoài thấp dần đều phải cắt giảm một phần chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài sẽ là nguy cơ đe doạ trực tiếp đối với khả năng tăng trưởng kinh tế và đặc biệt là đối với sự nghiệp CNH - HĐH sẽ bị ảnh hưởng.
- Tuy nhiên trong tất cả các giai đoạn, tỷ trọng chi tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số chi của NSNN. Tỷ trọng chi tiêu dùng có xu hướng tăng trong từng giai đoạn và tỷ trọng chi tích luỹ có xu hướng giảm đi tương xứng, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1 - Bảng cơ cấu và tỷ trọng chi NSNN
Giai đoạn
Tổng số chi NSNN
Trong đó
Chi tích lũy (%)
Chi tiêu dùng (%)
1956 - 1960
100
54,4
45,6
1961 - 1965
100
56,3
43,7
1966 - 1970
100
46,9
53,1
1971 - 1975
100
40,8
59,2
1976 - 1980
100
39,2
60,8
1981 - 1985
100
31,2
68,8
1986 - 1990
100
33,7
66,3
Nếu tính tổng hợp tất cả các giai đoạn thì chi tích luỹ có tỷ trọng là 43,2%, chi tiêu dùng chiếm 56,8%. Nếu xét cụ thể từng giai đoạn 1956 - 1960 và 1961 - 1965 tỷ trọng chi tích lũy đạt trên 50%, chi tiêu dùng đạt dưới 50%. Từ năm 1966 - 1970 tỷ trọng chi tích luỹ đã giảm mạnh và tỷ trọng chi tiêu dùng tăng lên gần 70%. Đặc biệt trong năm 1990 tỷ trọng chi tích luỹ hạ xuống rất thấp được thể hiện bảng 1.
2-/ Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
NSNN phải động viên hợp lý ở mức cao nhất các nguồn lực của nền kinh tế - xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa động viên tạo ra nguồn lực mạnh để Nhà nước có điều kiện thực hiện những nhiệm vụ chiến lực, với việc bảo đảm tích tụ vốn trong doanh nghiệp, dân cư để họ có thể mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tạo tích luỹ ngày một lớn cho đất nước. Trong những năm trước mắt, NSNN phải bảo đảm tốc độ tăng chi cho đầu tư phát triển cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, thu trong nước không những đảm bảo cho chi thường xuyên và trả nợ mà còn phải giành một phần cho chi phí đầu tư và phát triển chi của NSNN cho đầu tư phát triển cơ bản giành cho hạ tầng kinh tế: một phần Chính phủ có thể dùng để đầu tư cho một số công trình có ý nghĩa quan trọng dưới hình thức cho vay ưu đãi, hoặc để góp vốn cổ phần vào các doanh nghiệp. Chi của NSNN giành phần thích đáng cho lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục..., các chương trình mục tiêu quốc gia đảm bảo kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện chiến lược con người, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh và quản lý Nhà nước.
Chúng ta sẽ đi sâu phân tích về chi đầu tư và chi thường xuyên.
a, Chi đầu tư phát triển để thực hiện những nội dung CNH - HĐH.
Để nền kinh tế có thể phát triển ổn định và vững chắc, và để đẩy mạnh CNH - HĐH, chi NSNN cho đầu tư phát triển phải đạt mức bình quân khoảng 8% GDP (gần tăng 1/3 đầu tư của toàn xã hội) trong đó, 4 - 5% là nguồn thặng dư thu - chi thường xuyên (tích luỹ từ NSNN); 3 - 4% là nguồn ODA và vay dân. Những năm trước mắt, ngân sách tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng khắc phục một bước tình trạng lạc hậu, yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, ưu tiên đầu tư chiến lược phát triển con người (giáo dục, y tế...) và các chính sách xã hội khác. Đồng thời với đầu tư từ NSNN cần thực hiện các chính sách huy động các nguồn lực từ dân, từ các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước. Thực hiện tốt chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm. Bố trí NSNN theo nguyên tắc thắt chặt chi tiêu thường xuyên giành chi cho đầu tư phát triển.
Một điều chắc chắn rằng việc phân phối và sử dụng vốn NSNN cho đầu tư và phát triển là không thể thiếu. Hơn nữa trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH thì việc chi NSNN cho đầu tư phát triển lại càng trở nên quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH.
Không ai phủ nhận vai trò to lớn của khoản chi đầu tư từ NSNN đối với nền kinh tế. Đặc biệt ở các nước đang phát triển, vai trò của Nhà nước trong việc cấp vốn đầu tư ban đầu để hoàn thiện cơ sở kinh tế hạ tầng, hình thành các ngành công nghiệp. Then chốt, là hết sức to lớn để mở đường và định hướng phát triển cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Nhất là đối với sự nghiệp CNH - HĐH, mặc dù vậy không phải khoản đầu tư nào của Nhà nước cũng góp phần kích thích hoặc làm tăng nhịp độ tăng trưởng tư tưởng chủ quan, nóng vội thường là nguyên nhân của những quyết định sai lầm và lãng phí. Thực tế cũng ghi nhận một hiện tượng mang tính chất “quốc tế” ở các nước đang phát triển là nền kinh tế kém phát triển, vốn đầu tư của Nhà nước càng bị phân tán và càng bị hướng vào những lĩnh vực thiếu vốn.
Trong mấy năm gần đây, đã xuất hiện ngày càng nhiều các ý kiến cho rằng Nhà nước chỉ nên dùng nguồn kinh phí của ngân sách để cấp phát cho các nhu cầu tiêu dùng thuộc chức năng của mình, không nên bao cấp tràn lan, và nhất là không nên để cho các nhà đầu tư tư nhân và các thành phần kinh tế khác thực hiện, về mặt nguyên tắc, quan điểm này có thể hợp lý nhưng nếu nhìn lại thực trạng kinh tế Việt Nam và khả năng nguồn vốn thì nhiều vấn đề còn phải xem xét lại. Nếu theo quan điểm này thì e rằng Việt Nam sẽ khó thực hiện CNH - HĐH.
Trong phần phân tích về CNH - HĐH ta biết rằng: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đặt ra yêu cầu tăng cường hơn nữa nhịp độ gia tăng của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo đói, cần phải đẩy mạnh CNH - HĐH. Để đạt được yêu cầu này, dứt khoát phải có vốn đầu tư. Theo tính toán của các nhà kinh tế, thì trong giai đoạn đầu, một nền kinh tế còn yếu kém, muốn vươn lên, phải có nhịp độ gia tăng vốn đầu tư cao hơn nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Người ta cũng tính được rằng muốn giữ tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức 6%/năm (mức tối thiểu để thoát khỏi cảnh nghèo đói) thì một nước có thu nhập thấp phải có vốn đầu tư hàng năm lớn hơn 15% GDP (với ICOR = 2,5%) và 22,5% (với ICOR = 3,75%) trong đó ICOR là tỷ lệ gia tăng vốn so với tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm xã hội.
Một vấn đề đặt ra là vốn lấy ở đâu ? Về mặt lý thuyết thì tổng số vốn cho nền kinh tế (vốn đầu tư được hình thành từ 2 nguồn: nguồn trong nước VTN và nguồn nước ngoài VNN).
VĐT = VTN + VNN
Vốn trong nước lại có thể hình thành từ vốn đầu tư của Nhà nước (VCF) và tiết kiệm của dân cư (VDC) bao gồm: tiết kiệm của các doanh nghiệp (phần lợi nhuận để tái đầu tư và khấu hao) tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình, còn vốn nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư (VTT) và vốn vay hoặc viện trợ (VVT). Vậy tổng hợp khả năng huy động vốn ta có các nguồn sau.
VĐT = (VCF + VDC) + (VTT + VVT)
Tất cả các nguồn vốn trên sẽ được tập trung vào hai khu vực đầu tư. Đầu tư của Nhà nước và đầu tư của tư nhân. Đầu tư của Nhà nước được lấy từ nguồn tiết kiệm của Nhà nước, vay dân, vay và viện trợ nước ngoài, đầu tư của tư nhân lấy từ nguồn vốn tự có của các nhà đầu tư trong nước, vốn đầu tư thông qua huy động cổ phần, liên doanh. Tuy nhiên trong 2 khu vực đó thì đầu tư Nhà nước vẫn giữ vai trò quyết định trong nhiều mặt đối với công trình đầu tư quan trọng và cần thiết để tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và các công trình cần nhiều vốn nhưng hiệu quả kinh tế thấp và thời gian thu hồi vốn dài, không thu hút được các nhà đầu tư tư nhân (trong và ngoài nước) như các công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các công trình nhằm cung cấp dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng (điện, nước).
Chúng ta sẽ làm sáng tỏ hơn khi phân tích cụ thể về các khoản chi đầu tư.
+ Trước hết là vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong sự nghiệp CNH - HĐH thì nhu cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng đã thực sự trở nên cấp bách, vì hệ thống này hiện nay đã ở trong tình trạng xuống cấp nặng nề, không những không đáp ứng nhu cầu giao lưu hàng hoá ở trong nước mà còn quá lạc hậu so với nhu cầu chung của thế giới. Để cải tạo, nâng cấp xây dựng mới các công trình thuộc hệ thống này (kể cả các công trình giao thông, bưu điện...) cần thiết phải có lượng vốn rất lớn.
Về cơ sở hạ tầng, chi NSNN phải đảm bảo vốn để thực hiện các dự án sau:
Trong 10 - 20 năm tới việc hiện đại hoá bưu chính viễn thông phải đi trước một bước, đảm bảo sự giao lưu thông suốt giữa các trung tâm kinh tế, các thành phố và các vùng kinh tế trong cả nước với các quốc gia khác trên thế gioiứ.
Trong thời gian tới phải tập trung nâng cấp sân bay quốc tế: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, đạt trình độ quốc tế; nâng cấp các sân bay thuộc các thành phố khu công nghiệp, khu du lịch liên doanh, hợp tác với các hãng hàng không quốc tế, mở thêm các đường bay, mua sắm thêm các phương tiện, thiết bị phục vụ cho ngành hàng không.
Cải tạo mở rộng hệ thống đường biển, đường sông, cải tạo mở rộng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62030.doc