Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc; đồng thời, cũng tạo ra khả năng và điều kiện để các nước tham gia vào phân công hợp tác quốc tế. Đặc điểm đó của thời đại cho phép các nước chậm phát triển mở rộng các quan hệ kinh tế với nước ngoài để tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý, đào tạo cán bộ, công nhân. thông qua việc đa phương hoá các quan hệ, và đa dạng hoá các hình thức hoạt động kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Có thể nói, biết khai thác và sử dụng khéo léo các nguồn lực bên ngoài để huy động tối đa mọi nguồn lực và lợi thế bên trong sẽ tạo ra các tiền đề cần thiết cũng như các điều kiện có liên quan để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song, vấn đề hết sức quan trọng là phải vừa tranh thủ, vừa sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vì các nguồn lực này có nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sự hấp thụ bên trong. Do đó, tự lực tự cường, chuẩn bị tốt các điều kiện về mọi mặt ở trong nước là yêu cầu cơ bản để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2590 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chi ngân sách nhà nước và vai trò của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển kinh tế - xã hội. Đây là tiền đề chính trị bên trong cho công nghiệp hoá.
- Môi trường quốc và xu hướng phát triển mới của thế giới cũng tạo ra tiền đề bên ngoài thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Trước hết, đó là môi trường hoà bình với xu hướng hoà hoãn và hợp tác quốc tế cho phép ta mở rộng quan hệ bạn bè và hợp tác với nhiều nước, nhằm tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ đa phương của quốc tế. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo điều kiện và thời cơ cho những nước kém phát triển, trong đó có Việt Nam có thể sử dụng khoa học, công nghệ mới, nguồn vốn của các nước giàu vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng cách tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự lớn mạnh của các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ, sự thức tỉnh của nhân loại về một thế giới mới cũng là hoàn cảnh thuận lợi cho các nước kém phát triển đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế. Vài chục năm qua, một số nước đã biết vận dụng hoàn cảnh và tiền đề quốc tế đẩy nhanh quá trình này trong thời gian ngắn, từ một nước lạc hậu kém phát triển trở thành nước công nghiệp.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã khẳng định: "những thành tựu quan trọng đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới"1, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những tiền đề ấy bao gồm một loạt nhân tố cả về thế và lực, cả về chất và tinh thần, về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, trong nước và nước ngoài.
2. Tích luỹ vốn
Tích luỹ vốn là điều kiện có tầm quan trọng nhất.
Có hai nguồn khả năng để tích luỹ vốn
Một là, tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.
Hai là, tích luỹ vốn dựa vào sự viện trợ và đi vay nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ.
Trong hai nguồn đó, nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, xét về lâu dài, là nguồn chủ yếu. Song, nguồn vốn từ bên ngoài cũng rất quan trọng, nhất là trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất: nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, hợp lý hoá sản xuất, xoá bỏ cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý cũ, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
ở nước ta hiện nay, để tăng năng suất lao động xã hội, tạo ra nguồn vốn cho tích luỹ, trước hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu; đẩy mạnh một số ngành công nghiệp khai thác; phát huy năng lực của công nghiệp hiện có và xây dựng mới những cơ sở cần thiết, trực tiếp phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã hoạch định; tích cực thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống xa hoa, lãng phí, triệt để thực hành tiết kiệm sản xuất và tiêu dùng. Cùng với việc tạo ra vốn, vấn đề quan trọng là phải có phương thức huy động, sử dụng và quản lý tối ưu, đem lại hiệu quả cao, làm cho tích luỹ trở thành tích luỹ kép.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công nhân đủ về số lượng và chất lượng bảo đảm cho việc tổ chức, triển khai và thực hiện thành công những chủ trương, biện pháp xây dựng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu đội ngũ này phải đồng bộ, bao gồm cán bộ khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật... Những cán bộ và công nhân này phải giỏi về chuyên môn, trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, tận tuỵ phấn đấu góp phần cho dân giàu nước mạnh.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân phải tiến hành với tốc độ và quy mô thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp hoá. Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ, công nhân, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên và tình hình kinh tế - xã hội
Đây là một trong những căn cứ rất quan trọng để hoạch định chiến lược, chủ trương, biện pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, công nghiệp và các ngành của nền kinh tế quốc dân. Do đó, công tác điều tra cơ bản, nắm vững tài nguyên và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước vẫn phải đi trước nhiều bước, phải đạt chất lượng cao, bảo đảm chính xác, cụ thể, kịp thời... để hoạch định đúng và triển khai tốt sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.
5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng công nghệ mới
Công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và công nghệ cần được xúc tiến mạnh mẽ nhằm vạch ra phương hướng chính xác cho việc tìm tòi, lựa chọn và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Khoa học bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ thuật và công nghệ..., phải bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của cá cấp lãnh đạo, quản lý, là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Trong việc phát triển nghiên cứu khoa học - công nghệ hiện nay, cần chú trọng nghiên cứu ứng dụng những công nghệ thích hợp với điều kiện của nước ta, đồng thời nghiên cứu ứng dụng có trọng điểm một số công nghệ hiện đại, hình thành những ngành mới với công nghệ cao như công nghiệp dầu khí, hoá dầu, điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, công nghệ gia công chế biến tiên tiến.
6. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Tiến hành quá trình công nghiệp hoá ở các nước kinh tế kém phát triển là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, gian khổ, xét về mặt tạo ra các tiền đề cũng như mặt triển khai nó trong thực tế.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc; đồng thời, cũng tạo ra khả năng và điều kiện để các nước tham gia vào phân công hợp tác quốc tế. Đặc điểm đó của thời đại cho phép các nước chậm phát triển mở rộng các quan hệ kinh tế với nước ngoài để tranh thủ vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý, đào tạo cán bộ, công nhân... thông qua việc đa phương hoá các quan hệ, và đa dạng hoá các hình thức hoạt động kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Có thể nói, biết khai thác và sử dụng khéo léo các nguồn lực bên ngoài để huy động tối đa mọi nguồn lực và lợi thế bên trong sẽ tạo ra các tiền đề cần thiết cũng như các điều kiện có liên quan để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song, vấn đề hết sức quan trọng là phải vừa tranh thủ, vừa sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vì các nguồn lực này có nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sự hấp thụ bên trong. Do đó, tự lực tự cường, chuẩn bị tốt các điều kiện về mọi mặt ở trong nước là yêu cầu cơ bản để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
Phần II
Chi ngân sách nhà nước và vai trò của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
I. Chi ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước
1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung kinh tế của chi ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội mà nhà nước đảm nhận theo những nguyên tắc nhất định.
Chi ngân sách nhà nước là sự phối hợp giữa hai quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước.
Quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nước để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ ngân sách nhà nước không trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Ví dụ việc chi dùng quỹ ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản, hoặc các chương trình kinh tế có mục tiêu.
Việc phân biệt hai quá trình này trong chi tiêu ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong quản lý ngân sách nhà nước.
Mỗi một chế độ xã hội, mỗi một giai đoạn lịch sử, chi ngân sách nhà nước có những nội dung cơ cấu khác nhau, song chúng có những đặc điểm chung. Có thể khái quát những đặc điểm chung đó trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Chi ngân sách nhà nước gắn chặt với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trước mỗi quốc gia. Nhà nước với bộ máy càng lớn, đảm đương nhiều nhiệm vụ thì mức độ, phạm vi chi của ngân sách nhà nước càng lớn.
- Cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi của ngân sách nhà nước. Bởi vì cơ quan đó quyết định các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, cơ quan đó thể hiện ý chí, nguyện vọng của một dân tộc. Nhận thức đầy đủ đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc điều hành các khoản chi của ngân sách nhà nước, tránh sự phân tán quyền lực trong điều hành ngân sách nhà nước.
- Thông thường các khoản chi của ngân sách nhà nước được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô. Điều đó có nghĩa rằng hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước phải được xem xét toàn diện dựa vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội mà các khoản chi ngân sách đảm nhiệm. Do đó, khả năng dùng các chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước gặp phải khó khăn và không toàn diện.
- Các khoản chi của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Tính không hoàn trả trực tiếp thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới các khoản chi của ngân sách nhà nước. Điều này được quyết định bởi những chức năng tổng hợp về kinh tế, xã hội của nhà nước. Từ tính chất này nó phân biệt các khoản chi ngân sách nhà nước với các khoản tín dụng.
- Các khoản chi của ngân sách nhà nước được gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, và nói chung là phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ.
Nhận thức rõ mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc kết hợp chặt chẽ giữa chính sách ngân sách với chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập trong quá trình thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô (tăng trưởng, công ăn việc làm, ổn định giá cả, cân bằng cán cân thanh toán).
Để đánh giá tính tích cực, tiến bộ của ngân sách của một nước người ta thường xem xét đến cơ cấu nội dung thu chi của nó.
Nội dung, cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước là sự phản ánh những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử.
Nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước đối với mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử chịu sự chi phối của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội.
- Chế độ xã hội là nhân tố cơ bản ảnh hưởng quyết định đến nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước. Chế độ xã hội quyết định đến bản chất và nhiệm vụ kinh tế - xã hội của nhà nước. Nhà nước là chủ thể của chi ngân sách nhà nước, vì thế lẽ đương nhiên nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước chịu sự ràng buộc của chế độ xã hội. Nhìn vào nội dung cơ cấu chi của ngân sách nhà nước trên một khía cạnh nào đó có thể cho ta một ý niệm rõ nét về bản chất của xã hội đó.
- Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất vừa tạo khả năng và điều kiện cho việc hình thành nội dung cơ cấu chi một cách hợp lý, vừa đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.
- Nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước là khả năng tích luỹ của nền kinh tế. Khả năng tích luỹ càng lớn thì khả năng chi đầu tư phát triển kinh tế càng lớn. Đương nhiên việc đầu tư của ngân sách cho đầu tư phát triển kinh tế tuỳ thuộc ở khả năng tập trung nguồn tích luỹ vào ngân sách nhà nước và chính sách chi của ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử.
- Nhân tố thứ tư ảnh hưởng đến nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước là mô hình tổ chức bộ máy của nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, xã hội mà nhà nước đảm nhận trong từng giai đoạn lịch sử.
Ngoài những nhân tố kể trên, có thể nói nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn nhất định chịu ảnh hưởng rất nhiều của các nhân tố: Biến động kinh tế, chính trị, xã hội và của các nhân tố cụ thể như: Giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái v.v...
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí nội dung và cơ cấu khoản chi của ngân sách nhà nước một cách khách quan, phù hợp với yêu cầu của tình hình kinh tế, chính trị trong từng giai đoạn lịch sử.
Cơ cấu chi ngân sách nhà nước được hiểu là hệ thống các khoản chi ngân sách bao gồm các khoản chi và tỷ trọng của nó. Hệ thống chi ngân sách nhà nước rất đa dạng phong phú và luôn luôn biến động theo tình hình kinh tế, xã hội và chính trị. Nhằm phân tích, đánh giá quản lý và định hướng các khoản chi, người ta tiến hành phân loại chi ngân sách nhà nước theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại các khoản chi ngân sách là việc sắp xếp các khoản chi ngân sách nhà nước có cùng tính chất, cùng mục đích thành các loại chi. Có nhiều tiêu thức để phân loại các khoản chi ngân sách nhà nước theo những mục tiêu quản lý nhất định. ở đây chỉ nêu một số tiêu thức chủ yếu.
Nếu căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi, người ta có thể phân chia các khoản chi thành hai loại:
- Chi cho đầu tư phát triển sản xuất.
- Chi cho tiêu dùng.
Chi đầu tư phát triển sản xuất là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở sản xuất vật chất và làm tăng sản phẩm quốc nội (GDP). Các khoản chi này có tác dụng góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng. Trên ý nghĩa đó người ta gọi các khoản chi này là khoản chi tích luỹ.
Chi cho tiêu dùng là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai mà có dùng cho tiêu dùng hiện tại đối với từng cá thể, từng bộ phận.
Việc phân loại này có ưu điểm là tạo điều kiện cho việc phân tích, đánh giá kết quả chi ngân sách nhà nước với quá trình phân phối GDP. Tuy nhiên việc phân loại này có hai nhược điểm:
Một là, không thể hiện mối quan hệ giữa chi tài chính của nhà nước và việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước, từ đó tìm ra phương án phân phối phù hợp với từng thời kỳ.
Hai là, một số khoản chi không xác định rõ tính chất để xếp vào chi tích lỹ hay chi tiêu dùng, ví dụ các khoản chi cho giáo dục, y tế, chi dự trữ, bù lỗ, bù giá...
Nếu căn cứ vào lĩnh vực chi, người ta có thể chia các khoản chi theo các loại:
- Chi cho y tế;
- Chi cho giáo dục; - Chi cho phúc lợi;
- Chi quản lý Nhà nước;
- Chi đầu tư kinh tế.
Cách phân chia này có tác dụng phân tích, đánh giá các mặt hoạt động của nhà nước. Thông qua tỷ trọng của các loại chi, căn cứ vào thực trạng của từng lĩnh vực có thể đánh giá tính đúng đắn của việc bỏ vốn từ ngân sách nhà nước.
Nêu căn cứ theo yếu tố có thể phân loại các khoản chi thành:
- Chi thường xuyên;
- Chi đầu tư;
- Chi trả khác.
Cách phân loại này là theo thông lệ quốc tế. Các khoản chi thường xuyên là khoản chi cho tiêu dùng hiện tại gồm tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng của các tổ chức sự nghiệp. Các khoản chi này ở mỗi nước có thể bao gồm các khoản chi chủ yếu sau đây: Chi lương và tiền công, chi mua sắm hàng hoá và dịch vụ; chi chuyển giao thường xuyên.
Các khoản chi đầu tư là các khoản chi cho tiêu dùng trong tương lai. Các khoản chi này có tác dụng làm tăng cơ sở vật chất của quốc gia và góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế. Thông thường các khoản chi này bao gồm: Chi trả tiền thuê bất động sản, tài sản tài chính; đầu tư cơ bản; chuyển giao vốn đầu tư;
Các khoản chi khác có tính chất là các khoản chi tín dụng Nhà nước bao gồm cho vay, trả nợ gốc.
Nếu căn cứ theo chức năng của Nhà nước thì các khoản chi của ngân sách nhà nước có thể phân thành hai loại:
- Chi nghiệp vụ; - Chi phát triển.
Các khoản chi nghiệp vụ thường bao gồm các khoản chi lương, tiền công; trả nợ; hỗ trợ và chuyển giao; hưu trí và thâm niên; cung cấp và dịch vụ; trợ cấp và trợ giá; chi khác.
Các khoản chi phát triển bao gồm chi dịch vụ kinh tế; chi an ninh, quốc phòng; chi các dịch vụ xã hội; chi quản lý hành chính.
Mục đích phân loại này để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các chức năng của nhà nước thông qua việc thực hiện các khoản chi.
2. Những nguyên tắc tổ chức chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay ở nước ta thu trong nước chỉ đủ chi cho tiêu dùng, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước đang đặt ra rất lớn đối với các khoản chi của ngân sách nhà nước. Trong bối cảnh đó, nếu việc bố trí các khoản chi ngân sách một cách tuỳ tiện, ngẫu hứng, thiếu sự phân tích hoàn cảnh cụ thể sẽ có ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, việc tổ chức các khoản chi ngân sách nhà nước phải dựa trên những nguyên tắc nhất định. Thực ra, trong việc tổ chức các khoản chi ngân sách nhà nước không có nguyên tắc chung cho ngân sách của mọi quốc gia, của mọi thời kỳ. Trong bối cảnh tình hình ngân sách của ta hiện nay và những vấn đề bức xúc của phát triển kinh tế, xã hội, việc tổ chức các khoản chi Ngân sách nhà nước cần tuân thủ theo các nguyên tắc chủ yếu sau đây:
Nguyên tắc thứ nhất: Gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi.
Nguyên tắc này đòi hỏi mức độ chi chung và cơ cấu các khoản chi phải dựa vào khả năng tăng trưởng GDP của đất nước. Trong bối cảnh hiện nay nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách - một nguyên nhân dẫn đến khả năng bùng nổ lạm phát, gây mất ổn định cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Nguyên tắc thứ hai: Bảo đảm yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
Các khoản chi ngân sách nhà nước nói chung có đặc điểm là bao cấp và thời gian hoàn trả rất dài, khó xác định được mức độ hoàn trả; khối lượng chi thường lớn.
Hơn nữa trong thực tế, trải qua một thời gian dài với quan điểm chi với bất cứ giá nào đã gây nên tình trạng lãng phí, kém hiệu quả trong việc sử dụng các khoản chi của ngân sách nhà nước đặc biệt là các khoản chi cho xây dựng cơ bản.
Đó chính là lý do cần phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong các khoản chi của ngân sách nhà nước. Để đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi ngân sách nhà nước cần phải dựa trên các định mức chi tích cực có căn cứ khoa học và thực tiễn, tổ chức các khoản chi theo các chương trình có mục tiêu. Bởi vì các chương trình có mục tiêu bao giờ cũng được tính toán, cân nhắc cẩn thận và thường có địa chỉ triển khai cụ thể.
Nguyên tắc thứ ba: Tuân thủ nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm trong việc bố trí các khoản chi của ngân sách nhà nước nhất là các khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi quyết định các khoản chi ngân sách nhà nước cho một lĩnh vực nhất định cần phải cân nhắc khả năng huy động các ng uồn vốn khác để giảm nhẹ các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
Nguyên tắc thứ tư: Tập trung có trọng điểm.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân bố nguồn vốn ngân sách nhà nước, phải căn cứ vào các chương trình có trọng điểm của nhà nước, vì việc thực hiện thắng lợi các chương trình này có tác dụng phản ứng dây chuyền thúc đẩy cho các ngành, các lĩnh vực phát triển. Có thực hiện đúng nguyên tắc này mới đảm bảo tính mục đích và khả năng tiết kiệm của các khoản chi ngân sách.
Nguyên tắc thứ năm: Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp theo luật pháp để bố trí các khoản chi cho thích hợp. áp dụng nguyên tắc này tránh việc bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm tra giám sát, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các cấp.
Nguyên tắc thứ sáu: Kết hợp chặt chẽ các khoản chi ngân sách nhà nước với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tạo nên công cụ tổng hợp cùng tác động đến các vấn đề của kinh tế vĩ mô.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi bố trí một khoản chi của ngân sách nhà nước phải phân tích diễn biến của khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái trong các chu kỳ kinh doanh làm sao tạo nên một tổng lực để giải quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô.
Tóm lại, chi ngân sách là công cụ quan trọng không chỉ đáp ứng các khoản chi phí của nhà nước mà có ảnh hưởng to lớn điều tiết vĩ mô của nhà nước. Do đó, khi bố trí các khoản chi của ngân sách nhà nước cần có sự cân nhắc nghiên cứu cẩn thận dựa trên những nguyên tắc nhất định.
3. Vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
Chi NSNN có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia. Chi NSNN là một mặt của sự hoạt động của NSNN, bởi vậy nó gắn chặt với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chi NSNN là điều kiện quyết định đến việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Một khi xã hội còn đấu tranh giai cấp thì sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước là một tất yếu lịch sử. Sự tồn tại và phát triển của nhà nước tất yếu sẽ làm phát sinh các khoản chi phí để duy trì bộ máy nhà nước hoạt động cũng như để nhà nước có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ vốn có của mình. Các khoản chi phí đó nhà nước chỉ có thể lấy ra từ NSNN bởi không có các khoản chi từ nguồn NSNN thì nhà nước không thể tồn tại và phát triển được với tư cách là bộ máy quản lý mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia.
Chi NSNN là công cụ (cơ sở hạ tầng) đáp ứng nhu cầu vốn để phát triển CNH - HĐH quan trọng thực hiện vai trò kinh tế của nhà nước. Có thể nói, trong nền kinh tế thị trường sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là một đòi hỏi khách quan, nền kinh tế thị trường tuy có những cơ chế tự điều chỉnh song bản thân những cơ chế đó không có khả năng khắc phục những khuyết điểm vốn có của nó như vấn đề công bằng xã hội, vấn đề ổn định chu kỳ kinh doanh... Để khắc phục những vấn đề đó đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước, bởi chỉ có nhà nước với quyền lực và các công cụ quản lý của mình mới đủ khả năng giải quyết những vấn đề đó. Ngày nay các nhà kinh tế cho rằng, chức năng can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế đã nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế bởi nhà nước là "người" duy nhất có khả năng thực hiện một cách hoàn hảo các vấn đề về sơ cở hạ tầng, vốn, khoa học, công nghệ\kỹ thuật... Đối với Việt Nam, là một nước có cơ sở vật chất nghèo nàn, trên con đường CNH - HĐH đất nước của mình thì chi NSNN càng trở nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi muốn CNH - HĐH chúng ta cần phải có lực lượng sản xuất với trình độ cao, khoa học công nghệ tiên tiến... tất cả các điều này đều đòi hỏi chúng ta phải có sự đầu tư thích đáng. Song trong bối cảnh hiện nay của chúng ta, thu trong nước chỉ đủ chi cho tiêu dùng, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước đang đặt ra rất lớn thì vấn đề vốn trở thành một vấn đề cốt lõi đáng được quan tâm.
Chúng ta đều biết, bất kỳ một nước chậm phát triển nào muốn đạt được một trình độ cao, không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì đều cần phải CNH, HĐH nền kinh tế. Đối với nước ta, việc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH lên một bước đang trở thành nhiệm vụ chiến lược quan trọng hiện nay. Thực hiện nhiệm vụ trên đòi hỏi phải có vốn, song vốn lấy từ đâu, quản lý và sử dụng như thế nào cho có hiệu quả đang là những câu hỏi được đặt ra như một vấn đề cấp bách, cần giải quyết đối với việc quản lý nhà nước về loại vốn này khá phong phú. Vấn đề là làm thế nào để huy động được nó từ trong các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân trong xã hội để tập trung tạo thành nguồn vốn lớn. Do nhu cầu về vốn cho CNH - HĐH ở nước ta ngày càng lớn và đòi hỏi cấp bách nên trước hết cần phải giải quyết bằng nguồn vốn trong nước. Cần xác định rằng, nguồn vốn nước ngoài chỉ đóng vai trò quan trọng còn vai trò quyết định là thuộc về nguồn vốn trong nước. Kinh nghiệm để lại từ một số nước châu á cho thấy, thời gian đầu CNH họ phải huy động khoảng 50% đến 80% số vốn cần thiết là ở trong nước và phải duy trì như vậy liên tục trong nhiều năm với nước đầu tiên là trên 30% GDP (tổng sản phẩm trong nước), nhờ vậy mà các quốc gia đó mới trở thành được những "con rồng", "con hổ" như ngày nay. Còn đối với Việt Nam trong những năm trước mắt, để có mức tăng trưởng hàng năm không dưới 8%, cần phải nhanh chóng đưa tổng số vốn đầu tư hàng năm lên trên mức 20% trong vài năm tới.
Nhu cầu vốn đầu tư toàn XH để phát triển kinh tế đến năm 2000 của nước ta rất lớn. Để đạt được mục tiêu thu nhập quốc dân tính trên đầu người năm 2000 tăng gấp 2 đến 2,5 lần so với năm 1990, thì đòi hỏi trong 10 năm (1991-2000) tổng số vốn cần thiết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62031.doc