Euromonitor International cho biết năm 2008 Nga là thị trường tiêu dùng lớn thứ 11 thế giới và chỉ đến năm 2020 có thể vượt lên xếp vị trí thứ 5. Theo các số liệu thống kê của Euromonitor, trong hai năm 2007 và 2008 chi tiêu của người tiêu dùng Nga tăng 10,9%; trung bình thu nhập sau thuế trên đầu người tăng 80% từ năm 2003 đến năm 2008 và đạt 6.522 đô la Mỹ vào năm 2008; mức lương chưa khấu trừ hàng tháng tăng 30% từ giữa quý II năm 2007 đến quý II năm 2008. Tạp chí TIME cũng dự báo tăng trưởng kinh tế của Nga trong 5 năm tới ở mức 15%. Dự báo thu nhập của người tiêu dùng Nga năm 2009 có thể tăng gấp 3,6 lần sẽ khiến Nga trở thành thị trường lớn có giá cả hấp dẫn nhất trên thế giới". Riêng về mặt hàng chè, Nga có xu hướng tăng nhu cầu tiêu dùng. Ngay từ những tháng đầu năm 2009, tại thị trường này, người dân đã có xu hướng chuyển từ các đồ uống khác sang tiêu dùng các sản phẩm từ chè như các loại chè truyền thống, chè uống liền, chè chế biến đặc biệt với mức tiêu thụ trung bình khoảng hơn 1 ki lô gam chè/người/năm.
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4175 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược xuất khẩu trà sang thị trường Nga của doanh nghiệp VIETTRA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh toán ứng trước, thuê mua (Leasing), ký phiếu.
* Các quy định của LB Nga về thủ tục nhập khẩu chè:
Quy định về nhãn mác, bao bì : Các lô hàng chè vận chuyển tới Nga phải được ghi nhãn mác bằng tiếng Nga, được đóng gói theo khối lượng thể tích hoặc trọng lượng bằng bìa các tông và hộp gỗ thưa, hoặc hàng rời chở container tuỳ theo hợp đồng ngoại thương giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu (chè đóng bao trọng lượng 60kg , chè đóng gói dưới 3 kg, chè phải đóng bằng màng mỏng trong chân không hoặc bằng túi giấy nếu với trọng lượng từ 50-250g)
Bao bì bên ngoài phải có mác của người gửi hàng, mác của cảng và cần được đánh số theo đúng phiếu đóng gói, tên hợp đồng ngoại thương cũng như phải được ghi trên bao bì bên ngoài lô hàng.
Bao bì sản phẩm chè (bao bì bên trong) phải có nhãn sinh thái, xuất xứ chè, chủng loại chè, dạng sản phẩm chè theo hệ thống tiêu chuẩn qui định của Uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia Nga.
Giấy chứng nhận tiêu chuẩn: bắt buộc các nhà xuất khẩu chè khi đưa hàng vào thị trường Nga phải có giấy chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, đủ tiêu chuẩn do Uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia qui định.Trong đó, giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm của chè do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp, giấy chứng nhận chè an toàn công nhận lô hàng chè đã tuân thủ những tiêu chuẩn an toàn của Nga có thể được cấp trước khi xuất khẩu tại công ty giám định SGS hoặc khi hàng tới Nga qua uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia Nga cấp. Các giấy chứng nhận này bắt buộc phải có khi làm thủ tục thông quan chè xuất khẩu vào Nga.
Môi trường văn hóa:
Chè là một loại đồ uống thông dụng nhất của người Nga với khoảng 98 % dân số Nga uống chè, chè đang ngày càng khẳng định vị trí là loại đồ uống được ưa chuộng nhất ở Nga với những tác dụng ưu việt như chữa bệnh, bồi bổ sức khoẻ…..Chè là loại đồ uống duy nhất được chính phủ Nga đưa vào danh mục các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, mặt hàng chiến lược ngang với muối, dầu ăn và được đưa vào dự trữ quốc gia đề phòng chiến tranh, thiên tai.
Một xứ lạnh nên người Nga không uống trà kiểu nhâm nhi như người châu Á. Tại Nga, truyền thống uống trà gắn liền với ấm Samovar. Đây là loại bình lớn được thiết kế rất đẹp đẽ, chứa hơn một lít nước sôi ở độ cao. Thời tiết lạnh lẽo gần như quanh năm, nên uống nóng với viên đường hoặc kẹo. Người Nga thường uống trà đen (hương vị gần giống như trà Lípton), trong những cái ly thật to (khoảng 100 – 200 ml) Trà đen thường uống với chanh( loại chanh màu vàng, to bằng nắm tay, không chua lắm và rất thơm).
Mùa đông Nga buốt giá, uống trà nóng gần như là một nhu cầu cấn thiết, vì với người Nga thì trà có tác dụng giữ ấm cơ thể nhất là tim. Bởi vậy trong mọi nhà tại Nga, hầu như trong chiếc bình đặc biệt Samovar luôn đầy nước trà.
Nga là một trong 10 nước tiêu dùng chè nhiều nhất thế giới và xếp vị trí thứ 3 về tiêu thụ chè lớn nhất thế giới. Tiêu dùng chè bình quân đầu người ở Nga đã tăng từ 0,56 kg/người –1994 lên 1,01 kg/ người –1997 và 1,1 kg/người từ sau năm 2000 tới nay.
Thị trường Nga ưa chuộng và nhập khẩu chè chủ yếu từ Ấn Độ, Srilanca, Trung Quốc,Việt Nam, Indonesia. Thị hiếu tiêu dùng chè của người Nga rất đa dạng. Hiện nay trên thế giới có khoảng 3000 loại nhãn hiệu chè khác nhau (chè xanh và chè chế biến).Trong đó người Nga tiêu dùng trên 1000 loại chè cá nhãn hiệu khác nhau. Chè đen là loại chè tiêu dùng phổ biến nhất và truyền thống ở Nga chiếm tới 90 % tổng lượng chè tiêu dùng.
Biểu đồ: Tiêu thụ chè, cà phê và tăng trưởng thực phẩm và đồ uống tốt cho sức khoẻ 2003 - 2008
Nguồn: Euromonitor International/số liệu thống kê của Nga
III. Phân tích SWOT:
Strengths:
Việt Trà có gần 20 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chè trong nước, đã tạo dựng được thị trường chè lớn mạnh trong nước với thị phần 28% chè cả nước.
Doanh nghiệp đã có một vùng nguyên liệu ở Bảo Lộc – Lâm Đồng cộng với các loại giống đặc sản được nhập từ Ấn Độ tạo ra một nguồn nguyên liệu ổn định với chất lượng tốt nhất. Do xác định ngay từ ban đầu chất lượng chè chính là khâu then chốt để khẳng định thương hiệu chè trên thị trường trong nước và quốc tế, doanh nghiệp tổ chức triển khai đồng loạt các giải pháp như: phát triển cây chè, tận dụng vùng nguyên liệu của dân, đồng thời cử cán bộ kỹ thuật phụ trách từng vùng nguyên liệu, hướng dẫn bà con cách trồng chăm sóc và thu hoạch chè đúng quy trình kỹ thuật. Bên cạnh đó, công ty luôn chú trọng đổi mới công nghệ chế biến, phát triển dịch vụ phục vụ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quản lý...tất cả chỉ nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng và uy tín thương hiệu chè.
Sản phẩm với chất lượng cao sản xuất trên dây chuyền hiện đại cùng với phương pháp ướp hương truyền thống bởi bàn tay của những người nghệ sĩ ướp trà với hàng chục năm gắn bó với nghề tạo nên nét đặc biệt nhất cho sản phẩm viettra.
Việt Trà đã tham gia đăng kí nhãn hiệu CheViet vào năm 2005. Đây là lợi thế cho Việt Trà khi nhãn hiệu CheViet (được đăng ký và bảo hộ trên 73 quốc gia và vùng lãnh thổ) ngày càng được nhà nước quan tâm xây dựng và đang trên đà phát triển.
Weaknesses:
Nga là thị trường đầu tiên mà công ty hướng đến xuất khẩu nên thực chất công ty chưa có kinh nghiệm trong việc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn mà ta không lường trước được: luật pháp Nga bởi nó luôn thay đổi cả về cách giải thích lẫn áp dụng, hay như một khi hợp đồng đã được ký, cũng không nên ngạc nhiên nếu các điều khoản trong hợp đồng không được đáp ứng. Việc người Nga sửa đổi hợp đồng xảy ra khá phổ biến. Do đó, doanh nghiệp cần thuê các chuyên gia thật sự am hiểu về thị trường Nga để tránh được những rủi ro về pháp lý cũng như có được những bước tiến đúng đắn vào thị trường.
Thứ hai, chưa tạo dựng được các mối liên hệ giữa công ty với thị trường xuất khẩu gây trở ngại cho việc tạo dựng hệ thống phân phối.
Về khả năng tài chính thì doanh nghiệp chỉ có thể đưa đi xuất khẩu và đầu tư ở Nga với quy mô vừa và thời gian thâm nhập cho phép doanh nghiệp đầu tư vào Nga là dưới 2 năm.
Nhân lực cũng là một vấn đề gây khó khăn. Phần lớn đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên về kỹ thuật hơn là lập kế hoạch kinh doanh, nghiên cứu thị trường, marketing.
Opportunities:
Thị trường Nga không chỉ là một thị trường cung cấp hàng nhập khẩu lớn mà còn là thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng lồ trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, khi sản xuất hàng tiêu dùng và lương thực, thực phẩm của Nga không đáp ứng nhu cầu trong nước về số lượng cũng như về chất lượng, thì đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam. Là thị trường rộng lớn cho doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời không quá khắc khe về tiêu chuẩn kĩ thuật. Thị trường Nga là một thị trường khá dễ tính, không đòi hỏi hàng hoá phải đảm bảo chất lượng cao như các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản…Vì vậy, thuận lợi cho doanh nghiệp bởi nó phù hợp với chủng loại, năng lực chế biến, bảo quản chè của doanh nghiệp hiện tại.
Trong những năm gần đây quan hệ thương mại song phương Việt Nam và Nga ngày càng được đẩy mạnh. Nếu như năm 2005, Việt Nam xuất khẩu vào Nga 250 triệu USD và nhập khẩu 820 triệu USD thì năm 2008 Việt Nam đã xuất khẩu sang Nga 672 triệu USD hàng hóa và nhập khẩu từ thị trường này 969,57 triệu USD. Đây cũng chính là cơ hội cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm thông qua các hội thảo hợp tác xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm...
Khủng hoảng kinh tế trên thực tế không hẳn là nguy cơ mà là cơ hội cho doanh nghiệp khi mà tiêu dùng các mặt hàng chè của người Nga có xu hướng chuyển dần sang các sản phẩm với giá trung bình. Tình trạng nền kinh tế giảm sút, mức thu nhập của người dân phần nào đó giảm xuống, buộc họ phải giảm mức chi tiêu, cụ thể là chuyển sang tiêu dùng những sản phẩm với giá thấp hơn nhưng chất lượng tốt. Do có được những thuận lợi từ nguồn nguyên liệu đạt chất lượng lại rẻ, chi phí sản xuất thấp hơn so với doanh nghiệp tại Nga, dẫn tới giá thành sản phẩm thấp hơn, phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng Nga hiện nay.
Threats:
Nga là thị trường đang mở cửa, điều kiện thông thoáng, nhưng cũng không ít rủi ro và tính cạnh tranh cao. Do đó, khi vào thị trường này buộc mọi đối tác phải chấp nhận cuộc cạnh tranh khá gay gắt cả về hàng hóa cũng như đầu tư. Hơn 75% thị trường chè Nga do 5 công ty kiểm soát: Orimi Trade, Company May, Unilever, Ahmad và Sapsan. Trong đó công ty Orimi Trade (có thương hiệu chè Greenfield, Tess, Prinsessa Candi, Prinsessa Nury, Prinsessa Gita, Prinsessa Yava) chiếm 28,9% thị trường.
Một trong những thương hiệu chè người tiêu dùng Nga ưa chuộng như Lipton, Ahmad và Greenfield. Đồng thời khi xuất khẩu sang thị trường này doanh nghiệp còn phải đối diện với các ông lớn xuất khẩu từ các nước như Ấn Độ, Scrilanca, Trung Quốc và cả những doanh nghiệp Việt Nam đã đi trước vào thị trường Nga.
Thứ hai là ở khâu thanh toán. Hiện khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp Nga còn hạn chế, chưa đủ khả năng thanh toán theo thông lệ quốc tế, do đó thường yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam thanh toán theo hình thức trả chậm 6 tháng đến 1 năm. Ngược lại, khi xuất khẩu hàng sang Việt Nam, doanh nghiệp Nga yêu cầu đặt tiền trước. Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng trong tình trạng thiếu vốn nên yêu cầu thanh toán sau khi nhận hàng. Do đó, đây là một cản trở khá lớn trong buôn bán giữa hai nước trong thời gian qua.
Phí mở tín dụng thư (L/C) tại các ngân hàng phía Nga cao hơn nhiều so với các nước khác nên hầu hết các doanh nghiệp Nga không muốn mở L/C để bảo lãnh thanh toán mà chọn những phương thức thanh toán khác để giảm chi phí, cách này tiềm ẩn rủi ro cho phía bán hàng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu cặn kẽ về đối tác, tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau để bắt tay làm ăn là hết sức cần thiết.
Vận tải cũng là một cản trở trong quan hệ thương mại hai nước. Đội tàu từ thời Liên Xô cũ đã hoàn toàn tan rã, hiện nay phương tiện vận chuyển chủ yếu là container, tuy nhiên chi phí khá cao. Hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Nga, do phải vận chuyển qua các cảng Châu Âu rồi mới vòng lại Nga, hoặc tới cảng Vladivostock rồi đi theo tuyến đường xuyên Nga từ Đông sang Tây nên chi phí vận chuyển lớn hơn so với hàng vận chuyển từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Ấn Độ. Từ đó tạo áp lực tăng giá hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào thị trường Nga làm giảm khả năng cạnh tranh cho hàng nhập khẩu của Việt Nam.
IV. Sơ bộ chiến lược thâm nhập thị trường:
Chiến lược sản phẩm:
Sản phẩm trà Trà đen được ướp với 100% hương liệu tự nhiên gồm có hương sen, hương lài và hương hoa hồng. Các quy trình chế biến, công nghệ sản xuất, thời gian sấy ủ sao hương đều được sản xuất trên dây chuyền hiện đại được giám sát theo dõi trên từng công đoạn. Cùng với phương pháp ướp truyền thống mang lại cho sản phẩm những nét đặc trưng riêng.
80% những búp trà loại một tôm hai lá và phải hái nhanh, nhẹ nhàng, không để búp bị nhàu nát. Loại trà ngon là sau khi sao phải còn lại một lượng nước nhất định từ 5-7%. Trà hái xong không ướp hương ngay mà phải để trong chum đất, trên ủ lá chuối, để từ 2-3 năm nhằm làm giảm độ chát và để cánh trà phồng lên hút được nhiều hương.
Hoa sen phải hái trước lúc bình minh. Bông sen còn đẫm sương được tách lấy phần hạt gạo rồi rải đều, cứ một lớp trà một lớp gạo sen, một cân trà ướp hương sen cần có 800-1000 bông sen. Sau cùng phủ một lớp giấy bản. Ướp như vậy liên tục 5-6 lần, mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi mới ướp tiếp. Vì thế một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà.
Sản phẩm trà lài tuy có đơn giản hơn trà sen một chút nhưng cũng không kém phần công phu, đòi hỏi khâu ướp phải tỉ mỉ trong từng công đoạn. Để có một cân trà ướp hương lài hoàn hảo phải cần đến một cân hoa lài. Trà để ướp lài nhất định phải là trà sạch mọc tự nhiên, không bón hóa chất, cánh đều to để có thể thấm được nhiều hương. Hoa lài được sử dụng là lài quế, tuy hoa đơn, cánh mỏng, bông nhỏ nhưng rất thơm. Cứ một lớp trà lại rắc một lớp hoa lài, rồi lại một lớp trà, một lớp hoa ướp. Trong khoảng 18 đến 24 tiếng, chè đã ngậm hết hương hoa khiến cánh từ màu trắng đục chuyển sang trong suốt, lúc này mới đem trà sàng để loại bỏ hoa lài. Trà được cho vào một chiếc túi chống ẩm để giữ cả hương lài lẫn hương trà, rồi đem sấy cho đến khi trà khô, hương lài quyện vào trà thì bỏ ra và coi như xong một lần ướp. Công đoạn bao gồm bốn lần như vậy.
Trà hoa hồng được làm từ những búp hồng thật nhỏ được phơi khô
Sản phẩm được theo dõi giám sát từ lúc nguyên liệu nhập kho cho đến khi sản phẩm được đưa ra thị trường. Nguyên liệu được mua tại Thị xã Bảo Lộc (Lâm Đồng) trên một vùng tập trung, đảm bảo mức dư lượng thuốc trừ sâu trong trà không vượt quá mức cho phép, chú trọng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm .Các thành phẩm đưa ra thị trường đều được cân đo trực tiếp kiểm tra số lượng, trọng lượng đầy đủ và có dấu niêm phong KCS. Kho bảo quản hàng đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, không ẩm ướt. Mẫu mã, bao bì, vỏ hộp màu đúng với mẫu đã đăng kí, có giấy kiểm tra chất lượng, ngày sản xuất hạn sử dụng. Nhãn hiệu hàng hoá ghi rõ nội dung tên hàng, chất phụ gia, nhà sản xuất, địa chỉ, nước xuất khẩu, trọng lượng, phương pháp bảo quản, chú ý khi sử dụng.
Thị trường Nga đang rất chuộng các loại trà đóng gói giá tuy cao nhưng có hương vị phù hợp và tiện dụng nên người người Nga ưa dùng. Tiêu thụ trà gói ở Nga năm 1999-2000 tăng 10-12%, năm 2002 tăng tới 52% và trà gói trong những năm tới sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng tiêu thụ trà ở Nga. Do đó ngay từ đầu doanh nghiệp quyết định đưa vào thị trường dòng sản phẩm đóng hộp với kích cỡ 100g và 250g.
Chiến lược giá:
2.1 Các Yếu Tố Ảnh Hưởng:
Muốn xác định chiến lược giá thì trước hết phải tìm hiểu các nhân tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc định giá:
* Mức thu nhập của người dân:
Euromonitor International cho biết năm 2008 Nga là thị trường tiêu dùng lớn thứ 11 thế giới và chỉ đến năm 2020 có thể vượt lên xếp vị trí thứ 5. Theo các số liệu thống kê của Euromonitor, trong hai năm 2007 và 2008 chi tiêu của người tiêu dùng Nga tăng 10,9%; trung bình thu nhập sau thuế trên đầu người tăng 80% từ năm 2003 đến năm 2008 và đạt 6.522 đô la Mỹ vào năm 2008; mức lương chưa khấu trừ hàng tháng tăng 30% từ giữa quý II năm 2007 đến quý II năm 2008. Tạp chí TIME cũng dự báo tăng trưởng kinh tế của Nga trong 5 năm tới ở mức 15%. Dự báo thu nhập của người tiêu dùng Nga năm 2009 có thể tăng gấp 3,6 lần sẽ khiến Nga trở thành thị trường lớn có giá cả hấp dẫn nhất trên thế giới". Riêng về mặt hàng chè, Nga có xu hướng tăng nhu cầu tiêu dùng. Ngay từ những tháng đầu năm 2009, tại thị trường này, người dân đã có xu hướng chuyển từ các đồ uống khác sang tiêu dùng các sản phẩm từ chè như các loại chè truyền thống, chè uống liền, chè chế biến đặc biệt với mức tiêu thụ trung bình khoảng hơn 1 ki lô gam chè/người/năm.
Biểu đồ 1 Chi cho tiêu dùng và thu nhập sau thuế trên đầu người từ 2005 - 2010 (đơn vị: đô la Mỹ/đầu người)
Nguồn: Euromonitor/OECD/Eurostat
* Tỷ lệ lạm phát:
Lạm phát tăng cao hơn dự đoán của chính phủ. Đồng rúp mất giá nhiều so với đồng đô la Mỹ và Euro. Nếu ban đầu, dự kiến tỉ lệ lạm phát cả năm tăng khoảng 13%, thì giờ đây, các chuyên gia kinh tế đã đưa dự liệu 13-14%. Lạm phát không đi liền với tăng thu nhập, mà ngược lại, thu nhập của người lao động bị hụt đi. Lương danh nghĩa trung bình của người lao động trong tháng bị giảm tới 25%. Cùng với việc đồng lương bị giảm, số người thất nghiệp tăng lên, đặc biệt trong các ngành công nghiệp. Riêng năm 2009, lượng người thất nghiệp có thể lên tới 2,2 triệu. Kinh tế Nga năm 2009 tiếp tục dự báo có thể tăng trưởng âm so với năm 2008. Sản xuất công nghiệp âm 7,4%, trị giá đầu tư âm 14%. Dự đoán này trong kịch bản giá dầu ở mức 41USD/thùng. Không loại trừ, nếu giá dầu tiếp tục xuống, thì GDP còn bị giảm hơn nữa . Tỉ lệ lạm phát cả năm ở mức 13-14%. (Nguồn: Chi nhánh Thương Vụ Việt Nam tại Viễn Đông, LB Nga)
* Các loại thuế:
Nga áp dụng cả thuế nhập khẩu phần trăm và thuế phi phần trăm đối với chè nhập khẩu. Tuy nhiên, Chính phủ đang có những điều chỉnh mức thuế nhập khẩu theo hướng đơn giản hóa cơ cấu thuế và giảm mức thuế tối thiểu. Mức qui định đối với các sản phẩm chè có xuất xứ từ Việt Nam như sau:
- Trước ngày 4/1996: Thuế suất cơ sở đối với chè đen, chè xanh ( hàng rời hay hàng đóng gói dưới 3 kg) là 20%, mức thuế ưu đãi bằng 50% mức cơ sở. Thuế VAT là 18%.
- Giai đoạn 5/1996 đến 12/2000: thuế suất cơ sở chè đen, chè xanh là 20%, ưu đãi bằng 75% mức cơ sở, VAT 18%.
- Giai đoạn từ 1/1/2001 tới nay: thuế suất cơ sở là 10%, ưu đãi 75% và VAT 18%
Ngoài ra, biểu giá chè tại Nga còn chịu tác động của 5 yếu tố sau:
- Biến động giá chè trên thị trường thế giới do tính thời vụ và do hiện tượng đầu cơ.
- Sự tăng trưởng nhu cầu nhanh (10-12%) và xu hướng tiêu dùng trà gói, chè chất lượng cao tăng nhanh là yếu tố hàng đầu tác động đến sự tăng giá chè tại Nga, nhất là chè gói, chè chất lượng cao dẫn đến phân hóa nhu cầu và sự biến thiên giá chè: giá chè gói, chè chất lượng cao đắt gấp 2 lần chè rời và chè bình dân.
- Dự trữ Quốc gia của Nga về mặt hàng chè.
- Hiện tượng đầu cơ tích trữ chè của một số thành phần cũng gây nên sự méo mó về cung cầu và giá chè.
- Những hạn chế đến từ phương thức thanh toán của các doanh nghiệp nhập khẩu chè của Nga, không cạnh tranh so với một số nước nhập khẩu mạnh khác.
Trong giai đoạn 2009-2010, nhập khẩu chè đen của Nga sẽ tăng từ 223.600 tấn lên 315.200 tấn, mức tăng trung bình hàng năm là 3%. Tuy nhiên, mức tiêu thụ chè đen (loại chè chiếm gần 80% mức tiêu thụ hàng năm) sẽ trong xu hướng suy giảm. Tỷ lệ chè xanh, chè hoa quả, chè làm từ các loại cây thảo mộc sẽ có xu hướng gia tăng.
2.2 Định hướng chiến lược giá:
* Tại Nga:
Xuất khẩu chè mang nhiều đặc điểm của mặt hàng nông sản, giá chè xuất khẩu vào các thời kì khác nhau trong năm sẽ khác nhau do việc sản xuất chè mang tính thời vụ phụ thuộc vào thời tiết nên chất lượng chè thay đổi. Nhằm khắc phục tình trạng này, doanh nghiệp đưa ra chính sách giá ổn định để tạo niềm tin ở thị trường xuất khẩu. Với mức thu nhập của người dân vào hàng trung bình khá của thế giới và dù ngành hàng sản phẩm chè cao cấp đang dần được ưa chuộng thì doanh nghiệp vẫn hướng tới dòng sản phẩm có giá bình dân, phù hợp với phần đông dân số Nga – nơi mà mặt chè được xếp vào danh mục hàng tiêu dùng thiết yếu. Trên thực tế, giá chè của Việt Nam nói chung vẫn chiếm ưu thế về sức cạnh tranh( chỉ bằng khoảng 60-80% giá chè có chất lượng tương tự ở Nga), phát huy điều đó sẽ tạo tiền đề tốt cho việc thâm nhập và trụ vững ở thị trường. Tất nhiên vẫn phải lưu ý tới những hạn mức để phù hợp với các quy định quốc tế cũng như của Nga, đặc biệt là quy định chống bán phá giá và chính sách cạnh tranh. Chính vì vậy, chính sách bán phá giá chớp nhoáng sẽ mang lại nhiều rủi ro khi áp dụng, đồng thời không cần thiết khi hiện tại sự cạnh giá đã sẵn có. Mặt khác, doanh nghiệp cũng không thể định giá cao cho sản phẩm mới, nhắm vào phân khúc thị trường tương đối nhạy cảm về giá, nhằm thu lợi nhuận cao theo chính sách hớt váng sữa, bởi doanh nghiệp không phải là chủ thể đầu tiên thâm nhập thị trường, thị trường chè Nga dưới bàn tay “ vô hình” của 5 Công ty lớn, thâu tóm hầu hết thị phần thì rất khó có “ sữa để hớt váng” nữa. Xét một cách toàn diện, chính sách định giá thâm nhập vẫn phù hợp hơn cả, nhất là trong bối cảnh khi tình hình lạm phát của Nga gia tăng, mức thu nhập của người dân có xu hướng thuyên giảm như hiện nay. Với chính sách này, tin tưởng việc áp dụng sẽ mang lại hiệu ứng khả quan, gia tăng nhu cầu đối với sản phẩm, tạo được một chổ đứng trong thị trường.
* Tương quan giá trong nước và xuất khẩu sang Nga:
Nga và Việt Nam tuy có mối quan hệ giao hảo từ lâu đời nhưng về vị trí địa lí lại cách xa nhau, điều này ảnh hưởng tới chi phí vận chuyển hàng hóa giữa hai bên. Cộng với sự áp đặt mức thuế cao đối với mặt hàng chè và khả năng sẵn sàng chấp nhận của khách hàng Nga nên giá sản phẩm chè tại hai thị trường là khác nhau, cụ thể là tại Nga mức giá cao hơn. Chính sách giá phân biệt được áp dụng là hoàn toàn có cơ sở:
- Khu vực thị trường Việt Nam và Nga là tương đối tách biệt ( địa lí, cơ chế thị trường, khung quản lí..), công cụ Arbitrage không thể vô hiệu hóa được chính sách này.
- Độ co giãn của cầu đối với giá khác nhau ở khu vực Việt Nam và Nga và cầu sản phẩm chè của Nga tương đối ít co giãn theo mức giá.
Chiến lược phân phối:
Để có được những bước tiến trong quá trình thâm nhập và tạo dựng thương hiệu của mình trên thị trường Nga, điều quan trọng nhất là cần phải có một hệ thống kênh phân phối thật hiệu quả. Chính vì vậy ngay từ bước chuẩn bị ban đầu, chúng ta cần phải thu thập và đánh giá các thông tin cũng như những nhận định về thị trường Nga về những thông tin mà chúng ta đã có trước đó. Chẳng hạn như nhận định về cơ sở hạ tầng (giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước…) có tạo được thuận lợi hay khó khăn gì khi chúng ta đầu tư ở đó; những rào cản trong việc phân phối sản phẩm của chúng ta đến tay người tiêu dùng; đồng thời cần phải xác định và đưa ra kế hoạch về kênh phân phối sản phẩm mình sao cho hiệu quả và chi phí mức hợp lý nhất.
Khi xét đến yếu tố giao thông vận tải, có thể thấy hệ thống giao thông vận tải của Nga tương đối phát triển với các hệ thống đường ống dẫn khí, đường cao tốc và tàu thủy hết sức tiện lợi. ngoài ra, Nga còn có hệ thống Cảng và hải cảng như; Arkhangel'sk, Astrakhan, Kaliningrad, Kazan Khabarovsk, Moscow, Murmansk, Nakhodka, Nevelsk, Novorossisk Petropavlovsk, Kamchatskiy, Saint Petersburg, Rostov, Sochi, Tuapse, Vladivostok, Volgograd, Vostochnyy, Vyborg…Riêng thủ đô Matxcova được coi là một trong những thành phố có hệ thống giao thông đô thị tốt nhất hiện nay trên thế giới. Hệ thống đường bộ bao gồm đường vòng tròn trong và đường vòng tròn lớn, cắt qua nó là các đường phố, đại lộ. Hệ thống đường metro thì chí có một đường vòng tròn trong và các tuyến chạy qua. Tuy nhiên vẫn có thể nói hệ thống tàu điện ngầm Metro được đánh giá là tuyệt vời với khoảng 11 tuyến đường sắt có tổng chiều dài 292km và hơn 170 nhà ga, phục vụ hơn 9 triệu lượt khách mỗi ngày.Tại một điểm bất kỳ trên tuyến metro người ta có thể tiếp cận đến một điểm khác mà không cần phải nhô lên mặt đất.Đặc biệt tại khu trung tâm có tới 3 hệ thống đường metro cắt nhau, tức là tính từ trên xuống có 3 hệ thống đường hầm metro. Ngoài ra còn các hệ thống đường tàu điện, xe điện, tàu lửa. Số lần ùn tắc giao thông trong một năm tại thành phố Moskva nhỏ hơn số lượng ùn tắc giao thông trong một ngày tại một phường của thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, có 4 sân bay quốc tế chính phục vụ Matxcova là:Sheremetyevo-2, Domodedovo, Bykovo, Vnukovo. Trong đó chỉ riêng sân bay Sheremetyevo-2 và Domodedovo đã phục vụ hàng năm khoảng hơn 25 triệu lượt khách quốc tế đến nơi này. Chính vì vậy đây là điều kiện thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa trong thủ đô khi ta đặt đại lý phân phối chính tại đây, vì như vậy sẽ dễ dàng bao quát hết địa bàn toàn toàn thành phố.
Ngoài ra, chúng ta cần phải phân tích hệ thống kênh phân phối. Có thể thấy rằng Matxcova rất thuận tiện cho việc đặt trụ sở hoạt động chính của công ty trong việc phân phối sản phẩm trà đen ( dân số đông, hệ thống giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng thuận lợi..), tuy nhiên chúng ta cần phải lưu ý đến khó khăn trong quá trình cấp giấy phép kinh doanh cũng như đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để thâm nhập vào thành phố này. Bởi vì theo thống kê của các chuyên gia ngân hàng thế giới trong thời gian gần đây thì ở Matxcơva nhà doanh nghiệp phải chạy vòng quanh 54 cơ quan để có thể thành lập được doanh nghiệp của mình. Thậm chí xét về buôn bán quốc tế việc làm thủ tục xuất, nhập khẩu mất 36 ngày chậm hơn nhiều so với ở các thành phố khác như Kazan, Petrozavodsk, Rostov trên sông Đông Tomsk.
Trong lý thuyết Marketing cũng như những lý thuyết về hoạch định chiến lược trong phân phối, chúng ta vẫn được khuyến cáo nên xem xét các kênh phân phối sao cho phù hợp nhất tùy vào từng thị trường cũng như từng loại sản phẩm có thể thấy chúng ta khi quyết định xuất khẩu trà đen sang thị trường Nga và đặt trụ sở chính cũng như tập trung chiến lược phân phối chính tại Matxcova. Trong quá trình xem xét, chúng ta có thể dựa vào 2 chiến lược chính tập trung vào 2 hướng. Thứ nhất, theo hướng truyền thống, đó là thành lập một đại lý phân phối chính với sự cố vấn của chuyên gia Marketing và Nghiên cứu thị trường, với nhân viên phần lớn là người bản xứ ( như vậy họ có thể hiểu được phong cách, tác phong của người dân, khuyến khích bán hàng hiệu quả hơn thông qua những chính sách khuyến khích bán hàng với chiết khấu và hoa hồng cho nhà phân phối). Chính đại lý phân phối này sẽ trực tiếp đưa ra kế hoạch phân phối của mình cũng như việc quản lý trực tiếp nhân viên bán hàng thông qua những chương trình chung do Phòng Kế hoạch và đầu tư Trà Việt (Viet tra) trực tiếp đưa ra. Đồng thời nếu việc kinh doanh cần thiết mở rộng và được phía công ty chính chấp nhận thì đại lý này sẽ trực tiếp nắm quyền kiểm tra, giám sát, khuyến khích các hoạt động bán hàng của các đại lý cấp thấp hơn. Riêng Đại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chiến lược xuất khẩu trà sang thị trường Nga của doanh nghiệp VIETTRA.doc