Đề tài Chính sách điều hành tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam trong năm 2010

Trong các năm từ 1999 đến 2006, tỷ giá thực RER luôn lớn hơn 1 đơn v ị,

sau đó bắt đ ầu giảm dần. T ỷ giá thực thấp làm suy yếu v ị th ế cạnh tranh thương

mại c ủa Việt Nam, điều này thể hiện là tỷ lệ “xuất khẩu/nhập khẩu” của Việt

Nam từ năm 2007 đến năm 2009 luôn thấp hơn 1 đơn v ị (đường thẳng X/N luôn

nằm phía dưới 1 đơn v ị).

T ừ năm 1999 đến năm 2006, tỷ giá thực luôn lớn hơn 1 đơn v ị. V ề mặt lý

thuyết, tỷ giá thực tăng sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại, nhưng thực tế lại

không diễn ra như v ậy.

Trong giai đoạn 1999-2001, tỷ giá thực tăng giúp c ải thiện cán cân thương

mại v ới tỷ lệ X/N luôn nằm trên mức 1. Nguyên nhân làm cho tỷ giá thực tăng

trong thời gian này chủ yếu là do tỷ lệ lạm phát của Việt Nam (thể hiện ở chỉ số

giá tiêu dùng CPI) thấp hơn so v ới Mỹ, đ ồng thời tỷ giá cũng được điều chỉnh

tăng lên nhưng mức độ giảm giá trị của Việt Nam đ ồng v ẫn còn thấp hơn nhiều

so v ới một số nước trong khu v ực nên tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao hơn tốc

độ tăng trưởng xuất khẩu làm cho tăng dần mức thâm hụt trong cán cân thương

mại.

pdf56 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2319 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách điều hành tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam trong năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan … Và tác giả cũng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc điều hành chính sách tỷ giá để cải thiện cán cân thương mại. 20 CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN CÁN CÂN THƢƠNG MẠI 2.1. Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam và những tác động đến xuất, nhập khẩu: Các quốc gia trên thế giới rất quan tâm đến việc quản lý, lựa chọn cơ chế hay chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp nhằm phát huy tính hiệu quả trong việc ổn định thị trường tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước đối với hàng hóa nước ngoài. Đối với Việt Nam, việc lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp cũng đã và đang là vấn đề được quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng có nhiều dấu hiệu chưa bền vững và tình hình lạm phát gia tăng. Trong thập niên 80: tỷ giá và lạm phát cao với sự đóng cửa với thị trường thế giới. Từ năm 1990-2006, cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam có nhiều thay đổi hơn trước, theo hướng linh hoạt, bám sát cung cầu thị trường, nhất là từ năm 1999 đến nay. - Năm 1991-1996: cố định tỷ giá với mức 1$=11.000VND - Năm 1996-1998:giảm giá dần đồng nội tệ do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 - Ngày 26/2/1999:Nhà nước chấm dứt tỷ giá chính thức và giảm biên độ tỷ giá xuống còn 0.1%. Và biên độ tỷ giá được nới rộng dần từ năm 1999 đến nay. Từ 26/2/1999-30/6/2002: áp dụng biên độ giao động 0,1%. Năm 1999, tỷ giá giữa đồng VN và USD khá ổn định, tỷ giá liên ngân hàng tăng 1%, tỷ giá trên thị trường tự do tăng 1,1% so với năm 1998. Năm 2000 tỷ giá giao dịch trên thị 21 trường liên ngân hàng tăng 3,45%, tỷ giá trên thị trường tự do tăng 3,18% so với năm 1999. Năm 2001 tỷ giá tăng 3,9% so với cuối năm 2000. Trong năm 2002 tỷ giá bình quân VND/USD trên thị trường liên ngân hàng tăng 1,97%, so với năm 2001. Năm 2003 tỷ giá tăng khoảng 1% so với năm 2002. Hình 2.1: Xu hướng biến động tỷ giá giai đoạn từ năm 1999-2002 Tỷ giá danh nghĩa VND/USD 13000 13500 14000 14500 15000 15500 16000 Q1 /19 99 Q2 /19 99 Q3 /19 99 Q4 /19 99 Q1 /20 00 Q2 /20 00 Q3 /20 00 Q4 /20 00 Q1 /20 01 Q2 /20 01 Q3 /20 01 Q4 /20 01 Q1 /20 02 Q2 /20 02 Q3 /20 02 Q4 /20 02 (Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) Tuy nhiên, giai đoạn này (1999 – 2002), mặc dù tỷ giá tăng nhưng mức độ giảm giá trị của Việt Nam đồng vẫn còn thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực nên tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu làm cho tăng dần mức thâm hụt trong cán cân thương mại. Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu vĩ mô giai đoạn 1999 – 2002 Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Lãi suất (%) 7,2 6,24 6,84 7,8 Dự trữ ngoại tệ kể cả vàng (tỷ USD) 2.711 3.030 3.387 3.692 Cán cân TKVL (%GDP) 2,6 2,1 1,5 -1,9 ( Nguồn: NHNN, IMF, Tổng cục thống kê) 22 Bên cạnh đó, sự ổn định của của đồng Việt Nam so với đồng đô la Mỹ, kết hợp với cơ chế lãi suất tự do ổn định, qua đó dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng từ 2.711 tỷ USD năm 1999 đến 3.692 tỷ USD năm 2002 (tăng 36,19%). Tình hình cán cân tài khoản vãng lai được cải thiện từ thâm hụt 3,9% năm 1998 sang thặng dư 2.6% năm 1999 và 2.1% năm 2000 đã tiếp tục cải thiện được cán cân thanh toán quốc tế. Ngày 1/7/2002, Ngân hàng Việt Nam công bố nới rộng biên độ lên 0.25% so với giá giao dịch bình quân trên thị trường bình quân liên ngân hàng. Đối với các ngoại tệ khác không phải là USD, các NHTM được quyền chủ động tự định tỷ giá giữa VND và ngoại tệ đó. Từ năm 2002-2006: biên độ 0.25% được cố định, tỷ giá năm 2003 tăng 3% so với năm 2002 và ổn định với việc đồng Việt Nam được định giá thấp đã cải thiện rõ rệt tình trạng thâm hụt cán cân thương mại từ -12,8% GDP năm 2003 xuống còn -8,8 %GDP năm 2006, góp phần cải thiện cán cân tài khoản vãng lai từ -4,9 % GDP năm 2003 xuống còn -0,3 % GDP năm 2006, đã tiếp tục cải thiện được cán cân thanh toán quốc tế, qua đó dự trữ ngoại tệ tiếp tục tăng. Đồng thời, sự ổn định của tỷ giá đã góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng, tốc độ tăng trưởng GDP ổn định. Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam từ 2003 đến 2006 Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 7,3 7,8 8,4 8,2 Lạm phát (%) 4,3 7,8 8,4 6,6 FDI (tỷ USD) 3,15 4,22 6,34 10,2 Cán cân thương mại (%GDP) -12,8 -12,1 -8,1 -8,8 Cán cân TK vãng lai (%GDP) -4,9 -3,4 -0,9 -0,3 Dự trữ ngoại tệ (tỷ USD) 5,6 6,3 8,5 11,5 23 ( Nguồn: NHNN, IMF, Tổng cục thống kê) Đầu năm 2007, có những biến động lớn trong điều hành tỷ giá của ngân hàng Nhà nước: Nới rộng biên độ tỷ giá: Ngày 02/01/2007, NHNN đã nới rộng biên độ tỷ giá ngoại tệ từ + 0,25% lên so với tỷ giá liên ngân hàng. Việc điều chỉnh này được cho là mở đường cho sự giảm giá của VND so với USD. Sự can thiệp vào chính sách tỷ giá của +0,5% NHNN: - Trong ngày 2 và 3 tháng 01 năm 2007, NHNN đã mua ngoại tệ của các NHTM với số lượng nhiều hơn nhằm giảm bớt tình trạng thừa USD trên thị trường.Ước tính trong 2 ngày, NHNN đã mua vào trên 140 triệu USD. - Tỷ giá VND/USD bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày giao dịch do Ngân hàng Nhà nước công bố có cao hơn một chút (nếu ngày 26.1.2006 là 16.090 thì ngày 2.1.2007 là 16.101, ngày 3.1 là 16.096, ngày 4.1 là 16.100); - Tỷ giá VND/USD do ngân hàng thương mại (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) bán ra vẫn cơ bản ổn định ở mức trên dưới 16.055 một chút và thấp hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (tương ứng ngày 26.12.2006 là 16.050, ngày 2.1.2007 là 16.051, ngày 3.1 là 16.055, ngày 4.1 là 16.055). - Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do cũng cơ bản ổn định và chỉ cao hơn không đáng kể so với tỷ giá do các ngân hàng thương mại bán ra và cũng thấp hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (ngày 2.1.2007 là 16.070, ngày 3.1 là 16.070, ngày 4.1 là 16.070). - Ngày 10.10.2007, giá bán ra đô la Mỹ của ngân hàng là 16.084 đồng, nhưng cũng ngày này tháng trước thì giá bán ra là 16.244 đồng. Diễn biến này nếu xem tỷ giá của Việt Nam là tự do biến động theo thị trường thì chúng ta gọi 24 là tiền đồng Việt Nam tăng giá (appreciation) 160 đồng, hay ngược lại đô la Mỹ giảm giá. Ngay từ đầu năm 2007, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ dao động, nhưng tỷ giá VND/USD vẫn giảm, ngay những tháng đầu năm, tỷ giá giảm 0,33%. Tỷ giá giao dịch ở các NHTM cũng như ở thị trường tự do đều thấp hơn tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước công bố. Khi kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định ở mức cao, tỷ giá giảm, đồng Việt Nam có xu hướng lên giá đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI) năm 2007 đạt mức kỷ lục 21,3 tỷ USD và 6 tháng đầu năm 2008 đạt mức 31,6 tỷ USD vượt xa mốc 21,3 tỷ USD của cả năm 2007. Dự trữ ngoại tệ 09 tháng đầu năm 2008 đạt 22,3 tỷ USD đạt hơn 20 tuần nhập khẩu. Nhưng cán cân thương mại và cán cân tài khoản vãng lai thâm hụt và mức lạm phát tương đối lớn là27,9 %. Ngày 24/12/2007 Ngân hàng Nhà nước quyết định mở rộng biên độ từ +/- 0.5% lên +/-0.75% nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường và tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn, tạo điều kiện cho dòng vốn ra và vào nhịp nhàng hơn. Theo NHNN, việc mở rộng biên độ lần này nằm trong chủ trương tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới. Tỷ giá có tính thị trường hơn, nhưng khi mà cung lớn hơn cầu thì điều đó đồng nghĩa với việc tỷ giá sẽ phải giảm. Sau gần 10 ngày kể từ khi NHNN chính thức nới rộng biên độ, tỷ giá đã mất hơn 30 VND/USD, tụt xuống dưới ngưỡng 16.000 VND/USD. Tóm lại, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2007, VND đã giảm giá danh nghĩa khoảng 14% so với USD do Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối 25 cảnh đồng USD đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn đang vào Việt Nam làm phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá. Từ tháng 10/2007 đến 04/04/2008, nhất là sau khi NHNN nới lỏng biên độ dao động tỷ giá từ 0,75% lên 1%, tỷ giá danh nghĩa USD/VND giảm khoảng 1,2% (VND lên giá), tỷ giá ngày 04/04/2008 là 1USD =15.960 VND. Kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2008 đạt 23,39 tỷ USD tăng 27,2% so với cùng kỳ năm 2007. Trong khi 5 tháng đầu năm 2008, nhập khẩu đạt 37,81 tỷ USD, tăng 67,0% so với cùng kỳ năm 2007. Như vậy, 5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (14 tỷ USD).Nửa đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu gia tăng đã khiến nhiều người dân và doanh nghiệp chuyển tài sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do có lúc đã lên đến mức 19.000 VND/USD, thậm chí 20.000VNĐ, trong khi đó giá USD trong các ngân hàng thương mại vẫn là trong khoảng 16.000 – 17.000 VND. Việc VNĐ được giao dịch trong biên độ hẹp đã làm mất tính thanh khoản của thị trường.Do đó nới rộng biên độ tỷ giá hối đoái là hoàn toàn phù hợp. Trong năm 2008 Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh biên độ tỷ giá, một thời gian ngắn chưa từng có trong lịch sử. Với mục đích điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt giúp cho các tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng thích nghi tốt hơn với những biến động của kinh tế thế giới. Trong nửa cuối của năm 2008, khi lạm phát đang có xu hướng giảm cùng với giá cả hàng hoá trên thế giới và dẫn đến giảm tình trạng đầu cơ tích trữ nguyên vật liệu và nhập siêu thì nền kinh tế Việt Nam lại phải đối mặt với một vấn đề hoàn toàn khác - nguy cơ suy giảm tăng trưởng kinh tế do tác động của suy thoái toàn cầu dẫn đến giảm xuất khẩu. Tuy nhiên, việc nới lỏng tiền tệ đã khởi động lại làn sóng tích trữ USD và tỷ giá trên thị trường tự do đã tăng trở lại, có lúc đạt mức 17.400 VND/USD. Do mức giảm lãi suất và điều chỉnh tỷ giá chưa đạt đến kỳ vọng của thị trường (xuất 26 phát từ việc VND bị mất giá mạnh trong những năm qua và nguồn cung ngoại tệ có nguy cơ bị giảm sút do suy thoái kinh tế toàn cầu), tâm lý chờ đợi vẫn phổ biến trên thị trường tiền tệ - tín dụng trong những tháng cuối năm. Nhu cầu nắm giữ USD vẫn cao và các doanh nghiệp vẫn chần chừ trong việc vay vốn cho đầu tư và sản xuất, kinh doanh. Trong khi đó các ngân hàng cũng chưa thật mặn mà với việc cho vay, bởi đầu tư vào trái phiếu có thể mang lại một khoản lợi nhuận lớn, nhanh chóng và ít rủi ro trong bối cảnh lãi suất được dự báo sẽ còn tiếp tục giảm. Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động xuất nhập khẩu, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối và những tác động gián tiếp. Hình 2.2: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 2007-2009 Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2007-2009 0.00 5000.00 10000.00 15000.00 20000.00 25000.00 30000.00 Q1 /20 07 Q2 /20 07 Q3 /20 07 Q4 /20 07 Q1 /20 08 Q2 /20 08 Q3 /20 08 Q4 /20 08 Q1 /20 09 Q2 /20 09 Q3 /20 09 Q4 /20 09 XK VN NK VN (Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD, tăng 28,8%. Hết tháng 12 năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD đạt con số kỷ lục từ trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của năm 2007. 27 Có doanh nghiệp nhập khẩu cho biết đầu tháng vay USD của ngân hàng để nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh nghiệp mua USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá giảm doanh nghiệp được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về 100.000 USD, nếu doanh nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ được chuyển ra VND với tỷ giá 16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời điểm tháng 1/2008 thì chỉ còn 15.599 đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26 triệu đồng. 24/3/2009 Ngân hàng Nhà nước đưa ra 1 biên độ mới là +/-5% Hình 2.3: Biến động tỷ giá từ năm 2006-2009 ( Nguồn:IMF – Quỹ tiền tệ quốc tế) Ngày 10/02/2010, Ngân hàng nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng từ mức 17.941 VND/USD lên mức 18.544 VND/USD, đồng thời án định lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1%. Các quyết định này là nhằm mục đích cân đối cung cầu ngoại tệ, tại 28 điều kiện kiểm soát cung tiền, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần ổn định nên kinh tế vĩ mô. Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ giá đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá phải theo hướng ngày càng linh hoạt hơn. NHNN đang thực thi lộ trình linh hoạt hóa tỷ giá kể từ năm 2004 qua nhiều bước. Trước hết là bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi suất (tháng 5-2004). Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi của các ngoại tệ mạnh, cho phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần chứng từ, chính thức áp dụng quyền chọn ngoại tệ (tháng 11-2004).Các ngân hàng thương mại tiến hành thí điểm quyền chọn USD và tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền chọn (tháng 6-2005). Bỏ biên độ giao dịch USD tiền mặt, cho thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận (tháng 7-2006). Những bước đi này có dụng ý để thị trường tự điều chỉnh tỷ giá chừng nào mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn (independent floating ).Rõ ràng trong điều hành chính sách tỷ giá, NHNN luôn coi trọng tính thị trường, đã cung ứng cho thị trường nhiều công cụ để xác lập tỷ giá cân bằng. 2.2. Phân tích ảnh hƣởng của biến động tỷ giá lên cán cân thƣơng mại Việt Nam. 2.2.1 Tác động của tỷ giá thƣơng mại song phƣơng lên cán cân thƣơng mại của Việt Nam: 2.2.1.1 Tỷ giá thƣơng mại song phƣơng (RER) Tỷ giá thực song phương là tỷ giá được xác định trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước và ở ngoài nước, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Trong thực tế để theo dõi và phân tích sự biến động của tỷ giá thực, người ta sử dụng công thức tỷ giá thực dạng chỉ số như sau: ERi = ei x (CPIi * / CPIi ) 29 Trong đó: ER là tỷ giá thực, e là chỉ số tỷ giá danh nghĩa, CPI * là chỉ số giá tiêu dùng ở nước ngoài, CPI là chí số giá tiêu dùng trong nước, i là số thứ tự kỳ tính toán. Tỷ giá thực có ý nghĩa quan trọng bời vì: a) Xét ở trạng thái tĩnh: - Nếu ER > 1, thì nội tệ được coi là định giá thực quá thấp và ngoại tệ được coi là định giá thực quá cao. Điều này có nghĩa là: i) nếu chuyển đổi mỗi đồng nội tệ ra ngoại tệ ta chỉ mua được ít hàng hóa hơn ở nước ngoài so với ở trong nước; và ii) nếu chuyển đổi mỗi đồng ngoại tệ ra đồng nội tệ ta sẽ mua được nhiều hàng hóa hơn ở trong nước so với ở nước ngoài. Do đó, khi tỷ giá thực lớn hơn 1 sẽ giúp cải thiện được cán cân thương mại. - Nếu ER < 1, thì nội tệ được coi là định giá thực quá cao và ngoại tệ được coi là định giá thực quá thấp. Khi tỷ giá thực nhỏ hơn 1 sẽ tác động làm cho cán cân thương mại trở nên xấu đi. - Nếu ER = 1, thì sức mua đối nội và sức mua đối ngoại của hai đồng tiền là như nhau, tức hai đồng tiền là ngang giá sức mua, do đó, tác động làm cho cán cân thương mại cân bằng. b) Xét ở trạng thái động: - Nếu tỷ giá thực tăng, có tác dụng kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân vãng lai. - Nếu tỷ giá thực giảm, có tác dụng kích thích tăng nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu, làm cho cán cân thương mại trở nên xấu hơn. - Nếu tỷ giá thực không đổi, thì trạng thái cán cân thương mại cân bằng. Vì giá cả hàng hóa ít thay đổi trong ngắn hạn, do đó phá giá, tức chỉ số e tăng làm cho tỷ giá thực tăng, tỷ giá thực tăng giúp cải thiện cán cân thương mại. Đây chính là một trong những nội dung quan trọng của chính sách tỷ giá được nhiều nước áp dụng thành công. 30 2.2.1.2 Tác động của tỷ giá thực song phƣơng lên cán cân thƣơng mại: Hình 2.4: Ảnh hưởng của RER lên cán cân thương mại Việt Nam Ảnh hưởng của RER lên cán cân thương mại Việt Nam 0.000 0.200 0.400 0.600 0.800 1.000 1.200 1.400 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 RER Tỷ lệ X/N (Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) Trong các năm từ 1999 đến 2006, tỷ giá thực RER luôn lớn hơn 1 đơn vị, sau đó bắt đầu giảm dần. Tỷ giá thực thấp làm suy yếu vị thế cạnh tranh thương mại của Việt Nam, điều này thể hiện là tỷ lệ “xuất khẩu/nhập khẩu” của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009 luôn thấp hơn 1 đơn vị (đường thẳng X/N luôn nằm phía dưới 1 đơn vị). Từ năm 1999 đến năm 2006, tỷ giá thực luôn lớn hơn 1 đơn vị. Về mặt lý thuyết, tỷ giá thực tăng sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại, nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Trong giai đoạn 1999-2001, tỷ giá thực tăng giúp cải thiện cán cân thương mại với tỷ lệ X/N luôn nằm trên mức 1. Nguyên nhân làm cho tỷ giá thực tăng trong thời gian này chủ yếu là do tỷ lệ lạm phát của Việt Nam (thể hiện ở chỉ số giá tiêu dùng CPI) thấp hơn so với Mỹ, đồng thời tỷ giá cũng được điều chỉnh tăng lên nhưng mức độ giảm giá trị của Việt Nam đồng vẫn còn thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực nên tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao hơn tốc 31 độ tăng trưởng xuất khẩu làm cho tăng dần mức thâm hụt trong cán cân thương mại. Sang những năm 2001-2007, mặc dù tỷ giá thực vẫn xấp xỉ nằm trên mức 1, nhưng cán cân thương mại của nền kinh tế vẫn bị thâm hụt. Bởi vì do các nguyên nhân sau: - Sản lượng xuất khẩu dầu thô và than đá tăng trưởng không ổn định, khối lượng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001- 2006, sau đó giảm dần. Sở dĩ có sự tụt giảm đó là do các mỏ dầu cạn kiệt trong việc thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển. - Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản thì chịu nhiều tác động của thị trường thế giới những năm 2001-2003, do ảnh hưởng của kinh tế thế giới sụt giảm. Kim ngạch xuất khẩu tăng rất chậm trong giai đoạn này. - Giá trị gia tăng xuất khẩu của nhóm hàng chế biến này chưa cao. - Trong giai đoạn này, tình trạng nhập siêu xảy ra liên tục. Ngoại trừ năm 2005, nhập siêu giảm nhẹ, các năm còn lại nhập siêu liên tục. Theo đánh giá của Bộ Công Thương, nhập siêu tăng mạnh trước hết do nhu cầu nhập khẩu để phục vụ sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế. Nhưng đáng lo ngại là một số ngành xuất khẩu mũi nhọn như dệt may, da giày và mới đây là thủy sản, điều…, muốn tăng xuất khẩu buộc phải tăng nhập khẩu nguyên, phụ liệu. Trong khi, VN hoàn toàn có khả năng để sản xuất, nhưng đáng tiếc nền công nghiệp phụ trợ chưa đáp ứng được. - Về sâu xa, nhập siêu tăng cao cũng có nguyên nhân là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn tốc độ nhập khẩu. Trong khi nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất và đầu tư phát triển tăng cao thì khối lượng và giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực lại có xu hướng giảm, các nhóm hàng công nghiệp chế tạo được kỳ vọng lại chưa có sự tăng trưởng bức phá. Điều này thể hiện một thực tế là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. 32 Hình 2.5: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 1999-2006 Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 - 2006 0.00 2000.00 4000.00 6000.00 8000.00 10000.00 12000.00 14000.00 Q1 /19 99 Q3 /19 99 Q1 /20 00 Q3 /20 00 Q1 /20 01 Q3 /20 01 Q1 /20 02 Q3 /20 02 Q1 /20 03 Q3 /20 03 Q1 /20 04 Q3 /20 04 Q1 /20 05 Q3 /20 05 Q1 /20 06 Q3 /20 06 XK VN NK VN (Nguồn: Nhóm tác giả, Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB) Năm 2007 đến năm 2009, tỷ giá thực giảm liên tục dưới trị số 1 đơn vị, đạt giá trị thấp nhất là 0.803 vào năm 2009. Tỷ giá thực thấp và giảm liên tục làm cho tỷ lệ xuất khẩu/nhập khẩu cũng giảm mạnh trong thời gian này. Nguyên nhân làm cho tỷ giá thực thấp trong thời gian này chủ yếu là do tỷ lệ lạm phát của Việt Nam cao, biên độ giao động tỷ giá liên tục tăng và đạt trần +/- 5% vào ngày 24/03/2009. Mặt khác, do biến động của nền kinh tế thế giới dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. - Năm 2007, xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, cao su, gạo… đều có mức tăng trưởng không cao. Lượng hàng xuất khẩu tăng khá, nhưng chưa có nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, có khả năng bù đắp phần thiếu hụt khi giá và lượng dầu thô xuất khẩu giảm. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là thủy sản và thực phẩm chưa thực sự ổn định, vẫn còn nhiều lô hàng bị trả lại. - Hết tháng 12 năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD đạt con số kỷ lục từ trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của năm 2007. 33 - Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đạt 90,06 tỷ USD, giảm 20,05% so với cùng kỳ năm trước (113,3 tỷ USD), trong đó xuất khẩu là 41,60 tỷ USD, giảm 14,6%; nhập khẩu là 48,47 tỷ USD, giảm 25%. Cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 6,86 tỷ USD, bằng 16,5% kim ngạch xuất khẩu. Tóm lại, cho dù mối quan hệ giữa tỷ giá thực song phương với cán cân thương mại không hoàn toàn khăng khít với nhau, nhưng những gì phân tích ở trên và đã được chỉ ra trên đồ thị cho thấy rằng tỷ giá thực có tác động nhanh và mạnh đến trạng thái cán cân thương mại. 2.2.2Tác động của tỷ giá thƣơng mại đa phƣơng lên cán cân thƣơng mại Việt Nam 2.2.2.1 Tỷ giá thƣơng mại đa phƣơng (REER) Tỷ giá danh nghĩa đa biên (NEER) Tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ gọi là tỷ giá song phương. Đối với mỗi sự thay đổi song phương, ta đều biết được chính xác đồng tiền nào lên giá và đồng tiền nào giảm giá. Vấn đề phức tạp đặt ra là, tại một thời điểm nhất định, một đồng tiền có thể lên giá với đồng tiền này, nhưng lại giảm giá với đồng tiền kia, vậy làm thế nào để biết được một đồng tiền là lên giá hay giảm giá đối với tất cả các đồng tiền còn lại? Để giải quyết vấn đề này, trong thực tế người ta dùng khái niệm tỷ giá danh nghĩa đa biên (NEER). NEER phản ánh sự thay đổi giá trị của một đồng tiền đối với tất cả các đồng tiền còn lại (hay một rổ các đồng tiền đặt trưng) và được biểu diễn dưới dạng chỉ số; do đó, phương pháp NEER cũng tương tự như phương pháp xác định chỉ số giá tiêu dùng CPI. Hiện nay, có tới 150 tỷ giá song phương, do đó, nếu ta bao gồm tất cả các tỷ giá song phương để tình tỷ giá đa biên thì rất phức tạp và không cần thiết. Chính vì thế, trong thực tế, khi tính NEER người ta tiến hành theo một số bước như sau: Bƣớc 1: Chọn một số các đồng tiền đặc trưng đã vào trong rổ. Đồng tiền đặc trưng là đồng tiền của nước có quan hệ thương mại chủ yếu; ví dụ đối với 34 Việt Nam có thể là USD, EUR, CNY, JPY... Tùy theo mục đích và mức độ chính xác cần thiết có thể mở rộng hay thu hẹp các đồng tiền trong rổ. Bƣớc 2: Căn cứ vào tỷ trọng thương mại với từng nước để phân bổ tỷ trọng cho từng tỷ giá song phương của các đồng tiền trong rổ theo nguyên tắc tỷ trọng thương mại càng lớn thì tỷ trọng song phương cũng càng lớn. Bƣớc 3: Tính NEER tương tự như tính CPI như sau:   n 1J jiji weNEER . Trong đó: NEER là tỷ giá danh nghĩa đa biên, e là chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương, w là tỷ trọng của tỷ giá song phương, j là số thứ tự của các tỷ giá song phương, i là kỳ thanh toán. Cách tính cụ thể xem trường hợp của Việt Nam. Tỷ giá thực đa biên (REER) Vì NEER là số trung bình của các chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương, cho nên NEER cũng thuộc loại tỷ giá danh nghĩa, tức là không đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa giữa nội tệ với các đồng tiền còn lại, do đó, khi NEER thay đổi không nhất thiết phải tác động đến cán cân thương mại. Chính vì vậy, để biết được tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền còn lại ta phải dùng đến khái niệm tỷ giá thực đa biên (REER). REER được xác định trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đa biên được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước và ở tất cả các nước còn lại, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền còn lại. Để tính được REER ta tiến hành một số bước sau: Bƣớc 1: Tính tỷ giá NEER Bƣớc 2: Tính chỉ số lạm phát của tất cả các đồng tiền trong rổ theo tỷ trọng GDP của mỗi nước. Bƣớc 3: Tính REER theo công thức VN i w i ii CPI CPI NEERREER  35 Trong đó, CPIi w là chỉ số giá tiêu dùng trung bình của các đối tác thương mại với Việt Nam qua các thời kỳ, CPI VN là chỉ số giá tiêu dùng của nội tệ, i là kỳ tính toán. Về ý nghĩa của REER tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu cũng tương tự như tỷ giá thực song p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfChính sách điều hành tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại của việt nam trong năm 2010.pdf
Tài liệu liên quan