MỤC LỤC
Trang
A. Mở bài.
B. Nội dung.
I. Hoàn cảnh ra đời và nội dung của NEP.
1. Hoàn cảnh ra đời.
2. Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới.
a. Chính sách về thuế lương thực.
b. Chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
c. Cơ cấu lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân.
d. Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm mới.
e. Ổn định tiền tệ củng cố nền tài chính Xô Viết.
II. Sự vận dụng chính sách kinh tế mới của VI. Lênin ở Việt Nam.
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam.
2. Vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam.
a. Áp dụng NEP trong giai đoạn 1960 - 1975.
b. Áp dụng NEP vào Việt Nam giai đoạn 1975 - 1986
c. Áp dụng NEP từ 1986 đến nay.
III. Một số thành tựu kinh tế đã đạt được trong công cuộc đổi mới.
1. Nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định.
2. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
3. Kiềm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát.
C. Kết luận.
Tài liệu tham khảo
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3571 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách kinh tế mới của Lênin, Sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của họ và có khi những thứ không phải là thừa mà là một phần những sản phẩm cần thiết cho sự sinh sống của họ, để cung cấp cho nhu cầu của quân đội và để nuôi sống công nhân.
Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì một chính sách đúng là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì. Chỉ có chính sách thuế lương thực mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản , chỉ có chính sách đó mới có thể tăng cường được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và đưa chủ nghĩa xã hội đến chỗ toàn thắng.
Việc thay chế độ trưng thu lương thực bằng chế độ thuế lương thực ổn định, việc cho nông dân quyền tự do lựa chọn hình thức sử dụng ruộng đất, kể cả rút ruộng đất ra khỏi công xã nông thôn, việc cho phép mặc dù còn có những hạn chế nhất định, thuế ruộng đất và thuế sức lao động – tất cả những cái đó đã tạo điều kiện để tăng cường tính tích luỹ kinh tế ở nông thôn, là đòn neo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế.
b. Chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào một nền nông nghiệp hàng hoá. ý nghĩa và tác dụng cần có thuế lương thực không thể phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp vì số nông sản thừa tăng lên một mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì có mất tác dụng kích thích.
Cơ chế kinh tế hàng hoá sẽ đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh doanh tổng hợp, nhờ đó các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp được khôi phục và phát triển.
Kinh tế hàng hoá là con đường để nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc. Sản xuất lương thực ngày càng mang tính chất hàng hoá thì nông dân lợi hơn, nên vừa mở rộng diện tích canh tác vừa thâm canh nhờ đầu tư thêm vốn và lao động. Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn. Để thực hiện được cơ chế hàng hoá trong nông nghiệp thì phải giải quyết 2 vấn đề:
- Lấy hàng công nghiệp ở đâu để trao đổi với nông dân?
- Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá bên trong nông nghiệp mới thực hiện được chính sách kinh tế mới nhưng sẽ kéo theo sự khôi phục và kích thích xu hướng tư bản chủ nghĩa.
Lênin đã có quan điểm về vấn đề này như sau:
+ Sự phát triển của trao đổi tư nhân của chủ nghĩa tư bản là một sự phát triển không tránh được. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng. Nhưng không được coi thường buông lỏng sự kiểm tra; kiểm soát sự phát triển ấy của xu hướng tư bản chủ nghĩa. Muốn vậy phải sử dụng hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin còn đề xuất là phải nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, là sự củng cố khu vực kinh tế nhà nước có hiệu quả.
c. Cơ cấu lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân.
Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Để thực hiện điều đó quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp cần theo các hướng sau:
- Khôi phục công nghiệp trên cơ sở kỹ thuật cũ. Đây là một tất yếu khách quan vì điều kiện rất khó khăn lúc bấy giờ.
- Phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cần đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu.
Đến cuối năm 1992, nhà nước chỉ sử dụng được 1/3 trong tổng số xí nghiệp đã quốc hữu hoá trước kia số xí nghiệp còn lại thì đóng cửa, tạm ngừng hay cho thuê, tô nhượng. Nhờ thực hiện sự cân đối như vậy nên đã đẩy nhanh việc khôi phục các xí nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Kết quả trong thời gian 1921 – 1924, tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh đã tăng hơn 2 lần, sớm phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế.
- Bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp: Trước hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, là những ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
- Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp.
Hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là những hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như hình thức tô nhượng trong công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng. Thực chất của các hình thức đó là những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia tưởng từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội.
d. Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm mới.
Căn cứ vào thị trường hiện có và tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh thị trường và bằng những biện pháp kinh tế thường xuyên có cân nhắc và được xây dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc điều tiết thị trường và lưu thông tiền tệ.
Như vậy từ năm 1921, quan điểm đổi mới lĩnh vực lưu thông hoàn toàn khác với quan điểm trong thời kỳ trước là quan điểm đòi xoá bỏ thương nghiệp và lưu thông hàng hoá.
Quan điểm mới của NEP đối với lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu chuyển nền kinh tế từ trạng thái hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường, từ phân phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Do đó nội thương trở thành cái mắt xích đặc biệt cần nắm vững trong dây chuyền quản lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế.
Mục đích cao nhất của chính sách kinh tế mới ở bước ngoặc cách mạng là thiết lập liên minh kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có giữa hàng chục triệu nông tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để cho nông nghiệp và công nghiệp có thể tái sản xuất được. Hơn nữa, không có hoạt động thương nghiệp thì không thể sử dụng các hình thức quá độ trong sản xuất và lưu thông.
e. ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô - viết.
Công tác tài chính được thực hiện theo các biện pháp như: Kiểm kê và kiểm soát có tác dụng tính toán nhu cầu thực tế về tài chính của xí nghiệp; Kiểm soát việc chi tiêu, hạn chế các chi phí sản xuất và chi phí cho bộ máy. Nhà nước chủ trương tổ chức tài chính quốc gia, điều tiết giá cả nhằm thiết lập quan hệ kinh tế mới giữa thành thị và nông thôn.
Chính sách tài chính quốc gia thống nhất dựa trên quan điểm tập trung tài chính, tập trung lực lượng của quốc gia cho cuộc cải cách vì lợi ích của người lao động.
Quan điểm về tập trung tài chính của Lênin không mâu thuẫn với yêu cầu phát huy quyền chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của các tổ chức Xô Viết địa phương.
Nhà nước tiến hành đổi đơn vị tiền tệ.
Lần thứ nhất vào đầu năm 1922, với tỷ lệ 1 rúp mới năm 1922 bằng 10 nghìn rúp cũ. Đến lần thứ hai vào năm 1923 là 1 rúp bằng 100 rúp năm 1922. Qua hai lần đổi tiền đã nâng đồng rúp lên 1 triệu lần đồng thời mở rộng phát hành tín phiếu. Bên cạnh việc đổi tiền tháng 10/1922 nhà nước phát hành giấy bạc ngân hàng, gọi là đồng “checvônet” được bảo đảm không dưới 25% bằng vàng và bằng ngoại tệ.
Đồng “checvonét” nhanh chóng được chấp nhận và có vị trí vững chắc trong lưu thông, bởi vì một mặt nó được bảo đảm bằng vàng mặt khác nó còn có vật tư và hàng hoá của các tổ chức kinh tế quốc doanh bảo đảm giá trị. Nhờ đó, nó trở thành một đồng tiền mạnh, đủ đẩy vàng và ngoại tệ ra khỏi lưu thông. Nó trở thành cơ sở tiền tệ ổn định làm thước đo giá trị cho việc thực hiện hạch toán kinh tế, xác định giá thành giá cả cho việc thanh toán giữa các tổ chức kinh tế với nhau.
II/ Sự vận dụng chính sách kinh tế mới của VI.Lênin ở Việt Nam.
1.Thực trạng kinh tế Việt Nam.
Sau khi dành được độc lập (1945) nước ta phải đương đầu với một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp yếu kém. Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm diễn ra khắp nơi. Nhân dân chết đói (2 triệu năm 1945), ruộng đất bị bỏ hoang. Nền tài chính non yếu, Nhà nước ta chưa có đồng tiền riêng. Cộng với chế độ quan liêu bao cấp hách dịch cửa quyền ( trong những năm 70- 80), đã làm cho nền kinh tế nước ta trong mỗi thời kỳ có những khó khăn riêng đòi hỏi phải có sự thay đổi, cải tiến vận dụng các chính sách kinh tế đã được ứng dụng thành công ở các nước XHCN đi trước.
Qua mỗi giai đoạn, nền kinh tế nước ta có những khó khăn riêng. Chiến tranh chống Mỹ làm cho chúng ta không có điều kiện để đầu tư phát triển kinh tế. Hoà bình lập lại (1975) thì có các chính sách hành chính chưa phù hợp. Nhiều cơ quan nhà nước nhũng nhiễu dân chúng, quan liêu, xa rời nhân dân. Các chính sách kinh tế chỉ tồn tại trên giấy tờ với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ thâm hụt vào vốn. Do không thừa nhận các quy luật kinh tế vốn có nên nền kinh tế nước ta trước đổi mới (1986) rất trì trệ, yếu kém. Đó là một nền kinh tế công nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa theo kịp quan hệ sản xuất. Là một nước nông nghiệp nhưng chúng ta phải nhập lương thực, đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn. Do đó việc áp dụng chính sách kinh tế mới đã thành công ở nước Nga nước có một số đặc điểm giống Việt Nam là điều hết sức cần thiết.
2. Vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam.
a. áp dụng NEP trong giai đoạn 1960 – 1975.
* Trong giai đoạn này nước ta tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (miền Bắc).
Công cuộc cải tạo cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó mẫu chốt là cải tiến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sức sản xuất phát triển. ở miền Bắc nước ta, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa bao gồm cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân, cải tạo nông nghiệp, cải tạo thủ công nghiệp và cải tạo tiểu thương, trong đó cải tạo nông nghiệp là khâu chính vì nông nghiệp chiếm bộ phận rất quan trọng, nông dân lao động là một lực lượng sản xuất to lớn.
Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chúng ta dùng con đường hợp tác hoá nông nghiệp kết hợp cải tạo quan hệ sản xuất với cải tiến kỹ thuật và giáo dục tư tưởng, đi từ tổ đội công đến hợp tác xã bậc thấp và hợp tác xã sản xuất bậc cao, từ hợp tác xã nông nghiệp quy mô nhỏ đến hợp tác xã quy mô lớn để biến nông dân cá thể thành nông dân tập thể. Trong việc cải tạo công thương tư bản tư nhân, căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta, chúng ta chủ trương cải tạo hoà bình công thương nghiệp tư bản tư nhân theo chủ nghĩa xã hội: dùng chính sách sử dụng, hạn chế và cải tạo, chính sách chuộc lại và trả dần đối với tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thông qua các hình thức gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác; kết hợp các biện pháp kinh tế, hành chính giáo dục.
Con đường hợp tác hoá thủ công nghiệp của ta là thông qua các hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã cung tiêu sản xuất và hợp tác xã sản xuất, kết hợp chặt chẽ việc cải tạo quan hệ, sản xuất với việc cải tiến sức sản xuất. Còn đối với thương nghiệp nhỏ, chúng ta chủ trương dùng các hình thức hợp tác như tổ hợp tác mua bán, tổ hợp tác vừa mua bán vừa sản xuất, cửa hàng hợp tác… và chuyển dần bộ phận lớn những người buôn bán nhỏ sang sản xuất. Đến cuối năm 1960 Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã căn bản được hoàn thành: 85,5% số hệ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp theo hình thức thấp và quy mô nhỏ (33 ha ruộng đất và 68 hộ một HTX) gần 100% số hộ tư sản thuộc diện cải tạo đã được cải tạo; 87,9% thợ thủ công đi vào con đường làm ăn tập thể; 45,6% số tiểu thương vào HTX, chuyển được 11.000 người sang sản xuất và một số ít người được tuyển vào làm nhân viên mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán.
Thắng lợi trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa lịch sử to lớn: quan hệ sản xuât xã hội chủ nghĩa được xác lập một cách phổ biến (nhưng chủ yếu mới thay đổi được quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất); chế độ người bóc lột người đã căn bản bị xoá bỏ, lực lượng sản xuất đã được giải phóng và đang trên đà phát triển. Giai cấp nông dân tập thể được hình thành, khối công nông liên minh được củng cố, chuyên chính vô sản được tăng cường.
Tuy nhiên, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã có những biểu hiện chủ quan nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; một số nơi gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất vừa được chia.
* Thực hiện một bước công nghiệp hoá XHCN.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Chủ trương công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội Đảng lần thứ Iii đề ra như: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại”
Để thực hiện chủ trương trên, nhà nước đã dành 48% số vốn đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng công nghiệp, trong đó tới 78% dành cho công nghiệp nặng. Với số vốn đó ta đã xây dựng được một số công trình lớn của kế hoạch này: khu ngang thép Thái Nguyên, nhà máy điện uông bí, hoá chất Việt Trì, Supe phot phát Lâm Thao.
Các phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội đã diễn ta rầm rộ và sôi nổi ở khắp các ngành, các địa phương như “thi đua một người làm việc bằng hai”, “gió đại phong”, phong trào “ba tốt” trong thương nghiệp.
Do đó trong giai đoạn này giá trị sản lượng công nghiệp và nông nghiệp đều có bước tăng trưởng vưọt bậc, chi viện cho tiền tuyến.
b. áp dụng NEP vào Việt Nam giai đoạn 1975 –1986.
Trước hết là vấn đền củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở miền Bắc. Do có sự khủng hoảng của mô hình tập thể hoá nông nghiệp trong giai đoạn 1976 –1980 nên tháng 1-1981 Ban bí thư trung ương đã ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm va người lao động.
Sự ra đời của chỉ thị 100 rất phù hợp với thực tiễn khách quan, bởi vì vào cuối những năm 70 nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng gặp nhiều khó khăn gay gắt: năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi giảm; sản xuất không đủ tiêu dùng; thu nhập và đời sống của xã viên bị bấp bênh và giảm sút; trên 70% số hợp tác xã nông nghiệp thuộc loại trung bình và yếu kém; nhiều hợp tác xã nằm trong tình trạng bị tan rã; nông dân bỏ ruộng đồng; không thiết tha gắn bó với hợp tác xã. Trước tình hình đó, ở một số địa phương, có hợp tác xã đã phải khoán “chui” đối với hộ gia đình dưới các hình thức khác nhau.
Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động là một hình thức quản lý tiến bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta – chủ yếu còn là thủ công và là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tíh chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Chỉ thị 100 đã có tác dụng gắn chặt trách nhiệm và lợi ích của người lao động với sản xuất phẩm cuối cùng. Còn hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã phát huy được tốt hơn khả năng lao động, tạo ra những khí thế lao động sôi nổi, tận dụng được điều kiện về vốn và vật tư, chú trọng các biện pháp thâm canh, tăng năng suất, tăng thu nhập, giải quyết tốt việc kết hợp ba lợi ích; cho nên chỉ thị đó nói chung đã là một động lực đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp.
Đồng thời với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ở miền Bắc, Đảng và nhà nước còn tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam.
Sau giải phóng 1975, quan hệ sở hữu ruộng đất đã biến đổi sâu sắc, đại bộ phận ruộng đất đã về tay nông dân, quan hệ sản xuất phong kiến không còn là trở lực lớn trên con đường tiến lên của xã hội miền Nam. Do đó, ở đây chúng ta không cần tiến hành cải cách ruộng đất như ở miền Bắc mà chủ yếu là việc xoá bỏ những tàn dư thực dân và phong kiến về ruộng đất. Sau đó tiến hành công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam được tiến hành.
Một vấn đề quan trọng trong quá trình tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam là hợp tác hoá đi đôi với thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá. Đó là điều khác với miền Bắc – hợp tác hoá di trước cơ giới hoá.
Trong thời kỳ này Đảng và nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phát triển công nghiệp, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn được tiếp tục đẩy mạnh. Nội dung chính của vấn đề nông nghiệp coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp với nông nghiệp và công nghiệp trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý.
c. áp dụng NEP từ 1986 đến nay. Một số giải pháp.
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặc quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi mới đó là một cuộc cách mạng, mỗi bước đi của nó là một sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận nền tảng cho sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ này, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN chính sách kinh tế mới và những tư tưởng cơ bản của Lênin đã được chúng ta nhìn nhận lại với hoàn cảnh lịch sử cụ thể cuả mình.
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất yếu kém thì chưa thể xây dựng quan hệ sản xuất XHCN lớn ngay được. Chính vì vậy cần phải có một thời gian quá độ để xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất tiên tiến, lực lượng sản xuất tiến bộ. Và chính sách kinh tế là một cơ sở lý luận là công cụ thực hiện quá độ có vai trò rất quan trọng đã được Đảng ta vận dụng.
Đại hội Đảng VI đã chỉ rõ nguyên nhân của những sai lầm nôn nóng, chủ quan duy ý chí của chủ trương ‘tiến nhanh tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội trong những năm trước đổi mới ở nước ta. Khi đó, với mục đích đúng đắn là nhanh chóng nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp; song biện pháp và bước đi lại quá vội vàng, chúng ta đã quá vội tiến hành hợp tác hoá và xây dựng các hợp tác xã bậc cao, bất chấp quy luật phát triển khách quan của nó và cũng chưa tính đến một cách đầy đủ hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của nước ta và do vậy kết quả mang lại đã không được như ý muốn. Chúng ta đã thiếu quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp và có lẽ phần nào đã không đánh giá đúng một luận điểm quan trọng của VI. Lênin trong chính sách kinh tế mới – luận điểm về tính không khả thi của việc chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng cách ban bố những sắc lệnh từ trên xuống. Hậu quả của việc làm đó không chỉ ở chỗ, sản xuất nông nghiệp không phát triển mà còn ở chỗ sản xuất nông nghiệp không phát triển, mà còn ở chỗ, niềm tin của người nông dân vào con đường làm ăn tập thể phần nào bị giảm sút do lợi ích kinh tế của hệ không được đáp ứng đời sống của họ ít được cải thiện. Trong lĩnh vực công nghiệp và lĩnh vực sản xuất khác, tình hình cũng diễn ra một cách tương tự như vậy.
Thực tiễn cho thấy rằng, không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương, biện pháp dựa trên tư duy kinh tế cũ, mang đầy tính bị động và đối phó với tình hình. Bởi vậy, đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là bước chuyển có ý nghĩa cách mạng, đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường phát triển rút ngắn với hình thức quá độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước XHCN trước đây cho thấy rõ, chính sách kinh tế mới là mẫu mực về giải pháp tình thế và đối với nước ta. Chính sách kinh tế mới còn là đường lối mang tính chiến lược là cái đem lại cho chúng ta cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy, những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới nói chung, quan niệm của ông về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nướ, thi hành chế độ hợp tác xã, cho phép tự do buôn bán, tự do trao đổi hàng hoá, kinh doanh tư nhân trên cơ sở điều tiết nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nói riêng vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa lớn lao của nó trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định là phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàng cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII một lẫn nữa khẳng định đường lối đổi mới mà chúng ta đã thực hiện trong 10 năm qua và cụ thể hoá đường lối đó, Đảng đã chỉ rõ định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc cây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp háo hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ đổi mới tư duy mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, chúng ta ngày càng ý thức rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của chính sách kinh tế mới trong giai đoạn thực hiện bước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội tiểu nông với chính sách kinh tế mới chúng ta đac nhận ra rằng nguyên nhân chủ yếu của những sai lầm đã mắc phải trong việc lãnh đạo và quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới là đã xa rời những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới ở một mức độ nhất định nào đó. Rằng đó là những sai lầm do chủ quan, duy ý chí, bất chấp và coi thường quy luật khách quan. Nhưng sai lầm đó hoàn toàn có thế tránh được, có thể sửa chữa được một khi nắm vững những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới.
Trong bối cảnh hiện nay việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yêú khách quan.
Vận dụng mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mà một trong những nhiệm vụ cụ thể trước mắt là giải quyết một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và nông dân trong bối cảnh của nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn coàn là sản xuất nhỏ, lạc hậu, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp nhằm củng cố liên minh kinh tế công nông đã được hình thành từ lâu trong tiến trình phát triển cách mạng ở nước ta, tạo điều kiện để nâng cao dần mức sống và chất lượng sống cho quần chúng nhân dân.
Vận dụng chính sách kinh tế mới đòi hỏi phải sử dụng đúng đắn quy luật giá trị, quan hệ hàng tiền, tạo hành lang pháp lý, tự do buôn bán và kinh doanh tư nhân trên cơ sở thiếp lập sự điều tiết của nhà nước ở mức độ hợp lý. Thêm vào đó, về mặt phương pháp lãnh đạo và quản lý kinh tế, chúng ta cần dứt khoát từ bỏ phương pháp lãnh đạo và quản lý theo lối mệnh lệnh hành chính, từ bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp để chuyển sang phương pháp hạch toán kinh tế là chủ yếu, lấy hiệu quả kinh tế làm chính, trên cơ sở kết hợp giải quyết một cách có căn cứ lý luận và thực tiễn những vấn đề cấp bách với những vấn đề mang tính chiến lược lâu dài.
Khẳng định quan điểm vận dụng một cách sáng tạo và phát triển hơn nữa những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới nhằmg mục đích sáng tạo ra nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trong gian đa dạng, phù hợp với bối cảnh của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã tiến hành thảo luận dân chủ nghiêm túc trên cơ sở khái quát lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đi đến quyết định thực hiện chủ trương.
* Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng tạo điều kiện kinh tế pháp lý thu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60825.doc