MỤC LỤC
Trang
Phần A: Giới thiệu đề tài - 1 -
Phần B: Nội dung nghiên cứu - 2 -
I- Lý luận chung về: chính sách kinh tế mới (nep) của LÊNIN - 2 -
1- Cơ sở lí luận : - 2 -
a- Điều kiện ra đời của NEP - 2 -
b- Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới - 3 -
II- Vận dụng vào Việt Nam - 3 -
1- Tính tất yếu khách quan và khả năng quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản - 3 -
a- Tính tất yếu khách quan - 3 -
b- Khả năng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở VN - 4 -
2- Thực trạng của vấn đề và giải pháp: - 5 -
a- Về nông nghiệp : - 5 -
b- Về chịnh trị: - 6 -
c- Về khoa học công nghệ: - 7 -
d- Về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng: - 9 -
e- Về môi trường - 11 -
f- Về công bằng xã hội: - 11 -
Phần C: Kết luận - 13 -
Tài liệu tham khảo - 14 -
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có nước ta. Những quan điểm kinh tế của đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức vận dụng quan điểm của V.I.Lê nin trong chính sách kinh tế mới. Tất nhiên do thời gian và không gian xa nhau, trải qua những biến động khác nhau về bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở nước ta có sự biến đổi.
Thực chất, chính sách kinh tế mới NEP của Lê nin là giải pháp để đưa đất nước vượt qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy để góp phần hiểu rõ thêm chính sách kinh tế mới của Lê nin và sự vận dụng chính sách đó vào Việt Nam của đảng và nhà nước ta, em xin có vài phân tích về vấn đề này nhằm hiểu thêm về tính đúng đắn của nó.
Phần b: NộI DUNG NGHIÊN CứU
I- Lý luận chung về: chính sách kinh tế mới (nep) của LÊNIN
1- Cơ sở lí luận :
a- Điều kiện ra đời của NEP
Không bao lâu sau cách mạng tháng mười, việc thực hiện kế hoạch xây dựng CNXH của Lê Nin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Trong thời kỳ này, Lê Nin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng thời, xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ, xoá bỏ việc mua bán lương thực tự do trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước.
Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của nhà nước Xô viết. Nhờ nó mà quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được nhà nước Xô viết .
Sau khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Hậu quả của chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề, thêm vào đó chính sách chưng thu lưng thực thừa đã làm mất động lực đối với nông dân. Việc xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển. Vì vậy, khủng hoảng kinh tế chính trị diễn ra rất sâu sắc. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế mới của Lê nin được đề xướng để đáp ứng yêu cầu này nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng CNXH trong giai đoạn mới .
b- Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới
*)Thay thế chính sách chưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực. Theo chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức cố định trong nhiều năm. Mức thuế này căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất canh tác. Nói cách khác thuế nông nghiệp chính là địa tô mà người nông dân phải trả cho nhà nước. Số lương thực còn lại, người nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị trường .
*)Tổ chức thị trường thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp.
*)Sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức quá độ như khuyến khích phát triển sản xuất nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chuyển sang chế độ hoạch toán kinh tế. Đồng thời V.I.Lê Nin chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát triển.
II- VậN DụNG VàO VIệT NAM:
1- Tính tất yếu khách quan và khả năng quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản
a- Tính tất yếu khách quan
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac-Lê Nin mới chỉ dự đoán khả năng lên CNXH ở các nước lạc hậu, không qua giai đoạn lên tư bản chủ nghĩa và chỉ ra điều kiện chung để biến khả năng đó thành hiện thực. Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu vì những lý do sau đây:
Một là, đặc điểm thời đại ngày nay –thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Qúa trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương, duy ý trí, mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nhưng xu thế phát triển đi lên là phù hợp khách quan, hợp với quy luật của lịnh sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích người lao động, là hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB. Nó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự nghiệp phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người .
Hai là, đối với nước ta mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng XHCN là cơ sở cho việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa .Mục tiêu của con đường XHCN là hoà bình độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, chống áp bức bóc lột, bình đẳng, phồn thịnh và văn minh .
b- Khả năng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở VN
Đặc điểm nổi bật nhất trong thời đại ngày nay là cách mạng kỹ thuật gắn với cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển hết sức mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ phát triển kinh tế của cả nước. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Kỹ thuật và công nghệ cho phép cải tạo điều kiện phát triển con người, chuyển từ lao động thể lực sang lao động trí óc. Cách mạng khoa học kỹthuật làm thay đổi cơ cấu các ngành như công nghiệp nguyên tử, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp điện tử, công nghiệp vũ trụ, công nghiệp khai thác đại dương, sự phát triển của máy tính điện tử, người máy, kỹ thuật vi điện tử, vi sinh học ....Tất cả điều đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, nâng cao trình độ xã hội hoá và chi phối sự biến đổi cơ bản về quan hệ sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện đó cho phép và buộc chúng ta tự tận dụng, khai thác, sử dụng tất cả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước, các tổ chức phi chính phủ về vốn, công nghệ, quản lý ....tạo điều kiện sớm đổi mới cơ sở kỹ thuật, cơ cấu kinh tế phân công lao động, tạo thêm việc làm, chuyên môn hoá sản xuất. Vấn đề đặt ra là tranh thủ thời cơ, mở rộng và tận dụng tốt sự giúp đỡ và hợp tác có hiệu quả bằng nhiều hình thức trong các ngành, các lĩnh vực .
Nguồn lao động dồi dào, truyền thống lao động cần cù, thông minh của dân tộc ta, tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thận lợi, tiềm lực ban đầu về cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nhân lành nghề, kết cấu hạ tầng.... là những yếu tố hết sức quan trọng để mở rộng sự hợp tác,tạo điều kiện cho các nước ngoài đầu tư và là thế mạnh cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Để khai thác, phát huy thế mạnh đó, đòi hỏi phải có đường lối chính sách đúng đắn
Cuối cùng, với sự vận dụng chính sách kinh tế mới của Lê nin, kết quả bước đầu của sự nghiệp đổi mới từ đại hội đảng lần thứ VI đến nay đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn.
2- Thực trạng của vấn đề và giải pháp:
a- Về nông nghiệp :
Kết quả nghiêm cứu , triển khai và đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất không tương ứng với tiềm năng và rất khác biệt ở hai miền Nam, Bắc. Tuy chỉ chiếm 1/4 về số lượng và gần 1/3 về lực lượng lao động so với miền bắc , song các cơ quan nghiêm cứu giống lúa ở nam bộ ,từ năm 1991-1995, đã tạo ra 70% số giống lúa được công nhận mở rộng trong sản xuất và gần 80% số giống lúa được phép khu vực hoá. Như vậy vấn đề nổi cộm rút ra từ thực trạng trên là hệ thống nghiêm cứu ứng dụng vào sản xuất ở các địa phương.
Nếu khoa học công nghệ đóng vai trò động lực , là đầu tầu thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước thì đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ chính là lực lượng vận hành nguồn động lực đó.Sự lớn mạnh của lực lượng này đặc biệt quan trọng trong bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, hơn nữa trong quá trình tiếp cận và bắt nhịp với nền kinh tế tri thức đang gần
Thực tế cho thấy , hầu hết các vùng nông thôn , nhất là miền núi, đang rất thiếu cán bộ khoa học công nghệ, người ta tính rằng để vùng đồng bằng Sông Cửu Long đạt được con số lý tưởng về mật độ kỹ sư trên diện tích canh tác như nông trường Sông Hậu (1kỹ sư/40ha và 1thạc sỹ/1100ha) thì trường đại học Cần Thơ (mỗi năm đào tạo 640 sinh viên) phải mất 141 niên khoá .Còn nếu ở mức 1 kỹ sư /xã thì trường này cũng mất ít nhất hai niên khoá để đào tạo mới lấp được khoảng trống mênh mông đó . Rõ ràng tình trạng mỏng về lực lượng , thiếu hụt về đội ngũ kế cận, không có cơ chế hợp lý để sử dụng cán bộ khoa học công nghệ đặt ra bức xúc trong khu vực nông nghiệp , nông thôn.Đó thực sự là một thách thức , bởi vì không thể nói đến công gnhiệp hoá , hiện đại hoá đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ , thời đại sinh thái hoá mà thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi
Tiếp đến là vấn đề về thị trường khoa học , công nghệ ở nông thôn . Trong bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp nông thôn sang sản xuất hàng hoá nhu cầu về khoa học công nghệ ở khu vực này trong thời gian gần đây là một đề tài khá lớn. Để phát triển sản xuất trong điều kiện nền kinh tế thị trường , người lao động không những bước đầu tự giác chấp nhận mà còn chủ động đòi hỏi tiến bộ khoa học công nghệ.
b- Về chịnh trị:
Nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của đảng ta trong thời kỳ này là xây dựng và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi thành phần mọi tầng lớp nhân dân trong nước và người VN sinh sống ở nước ngoài đồng tâm nhất trí,nỗ lực phấn đấu góp phần đẩy tới một bước CNH-HĐH đất nước. Muốn vậy phải xây dựng đảng thật trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh chính trị thật vững vàng , tầm nhìn sâu rộng ,tổ chức chặt chẽ , nghiêm minh, năng lực lãnh đạo giỏi, đề ra và thực hiện những đường lối, chính sáchđúng đắn, giữ vững ổn định chính trị xã hội, tranh thủ thời cơ đẩy mạnh phát triển kinh tế , đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách , trở thành một nước công nghiệp tromg vòng ba thập kỷ tới.Cán bộ đảng viên phải có giác ngộ sâu sắc về lý tưởng, vừa có kiến thức và năng lực chuyên môn, gương mẫu, sáng tạo, cần kiệm trong lao động , sản xuất và trong sinh hoạt, biết tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách của đảng và nhà nước.
Cần tập trung nghiêm cứu xác định đúng vai trò, chức năng nhiệm vụ của nhà nước trong cơ chế mới. Trên cơ sở đó chấn chỉnh, đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy gọn nhẹ, trong sạch, cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tận tuỵ với công việc, làm việc có hiệu lực và hiệu quả. Kiên quýêt bài trừ nạn tham nhũng, thói xa hoá , lãng phí tệ quan liêu, ức hiếp dân, tình trạng thiết lập kỷ luật , kỷ cương đang gây ra thất thoát nghiêm trọng, làm xói mòn lòng tin nhân dân, làm suy yếu khối thống nhất ý chí và hành động của nhân dân .
Phải coi vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và công tác công đoàn là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn đảng toàn dân trong thời kỳ phát triển mới,bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị , cótrình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, mới có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân trí thức, tập hợp và đoàn kết các thành phần khác, phấn đấu cho thành công của sự nghiệp CNH-HĐH.
c- Về khoa học công nghệ:
Hiện đại hoá đất nước theo định hướng trên đây về thực chất là quá trình đầu tư theo chiều sâu để phát triển công nghệ nhằm làm thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Ngay trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá, phải coi nguồn nhân lực là yếu tố quýêt định. Phải coi con người là mục đích chứ không phải là phương tiện, không hy sinh con người cho sự nghiệp hiện đại hoá đất nước , trong các khấu hao phải tính đến khấu hao con người. Theo tinh thần đó, giáo dục khoa học và công nghệ có vai trò và vị trí cực kỳ quan trọng. Sự xuống cấp của hệ thống giáo dục trong thời gian qua kể từ khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trườngthể hiện sự hiểu biết kém cỏi của chúng ta về những thách thức của thời đại, nếu không có những biện pháp đặc biệt để khắc phục thì nó sẽ trở thành hiểm hoạ thật sự đối với tương lai của đất nước, tiền đồ của dân tộc.
Cùng với giáo dục, khoa học cũng là động lực của quá trình hiện đại hoá đất nước, không chỉ tạo ra tri thức mới để thúc đẩy sự phát triển mà còn có nhiệm vụ đặt nóvào vị trí nền tảng của những giá trị văn hoá và đạo đức, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Công nghệ gắn bó hữu cơ với giáo dục và khoa học, là đòn mẩy mạnh mẽ nhất đưa các thành tựu khoa học và giáo dục vào cuộc sống. Từ lâu công nghệ đã được công nhận là yếu tố cực kỳ quan trọng trong xây dựng tiềm lực kinh tế và thúc đẩy sự tăng trưởng, là cơ sở để sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của quốc gia, góp phần chủ yếu tạo nên năng xuất lao động cao.
Vì nhiều nguyên nhân, VN đã tụt hậu so với các nước trong khu vực trên nhiều phương diện kinh tế, mà thực chất là tụt hậu về khoảng cách công nghệ.Do năng lực đổi mới công nghệ của đất nước còn nhiều hạn chế, để phát huy lợi thế của đất nước đi sau trong một thế giới mà tốc độ phát triển công nghệ mới ngày càng gia tăng, con đường tối ưu để hiện đại hoá đất nước là chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình đổi mới và chuyển giao công nghệ. Kế hoạch của nước ta đến năm 2000 là phải tập trung mọi nỗ lực đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào thông qua các luồng chủ yếu như : đầu tư trực tiếp với 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh , đặc biệt chú ý đến đội ngũ chuyên gia công nghệ VN ở nước ngoài. Quá trình này cần được đẩy nhanh hơn nữa, cụ thể và thiết thực hơn, bởi công nghệ nói chung là sản phẩm thương mại ,một loại hàng hoá đặc biệt nhiều khi có tiền vị tất đã mua được. Cho nên không thể hy vọng tìm kiếm các công nghệ cần thiết để hiện đại hoá đất nước theo lối tự phát mà phải tính toán chu đáo công nghệ gì cần mua, cái gì có thể tự làm lấy và phải có đầu tư vốn, có chính sách tương ứng để tạo ra năng lực công nghệ môi sinh theo 4 cấp độ : khả năng thực hành, khả năng lĩnh hội, khả năng thích ứng và khả năng sáng tạo.
Trong hơn hai năm qua, kể từ khi luật đầu tư và pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam được ban hành, quá trình chuyển giao công nghệ theo một nghĩa nào đó cũng diễn ra ở nước ta nhưng hầu hết các luồng chuyển giao công nghệ mới chỉ dừng ở mức chuyển dịch kỹ thuật và có rất ít trương hợp quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra đúng nghĩa với khái niệm này.Có nhiều nguyên nhân song theo em, trở ngại chính trên con đường chuyển giao công nghệ nước ngoài vào nước ta là môi trường thể chế còn tù mù giữa cũ và mới. Trong môi trường thể chế như vậy, lợi nhuận không sinh ra từ năng suất, chất lượng nhờ đổi mới công nghệ và cải tiến quản lý, mà chủ yếu từ mua rẻ, bán đắt , trốn lậu thuế, lừa đảo. Môi trường đó xô đẩy con người chạy theo lợi ích trước mắt và lối sống tiêu xài lãng phí, không khuyến khích đầu tư dài hạn và do đó không thể khuyến khích chuyển giao công nghệ.
d- Về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng:
Nước ta chậm đề ra chiến lược năng lượng toàn diện và lâu dài, phù hợp với đặc điểm của VN. Thực tế cho thấy, chúng ta chỉ mới tập trung đầu tư cho thuỷ điện lớn và dầu khí, than coi nhẹ các dạng năng lượng khác. Thuỷ điện lớn cần nhiều vốn , thi công lâu và khó khăn về kỹ thuật, trong khi thuỷ điện vừa và nhỏ vốn đầu tư ít, thi công nhanh, kỹ thuật không phức tạp, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cũng như thiết bị ta đều có trong nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, ta có hơn 400 vị trí thuận lợi cho việc xây dựng các trạm thuỷ điện với công suất 100kđến 20000k. Nếu tính đến việc xây dựng cả những trạm thuỷ điện công suất dưới 100k , số lượng sẽ cao lên gấp nhiều. Các trạm thuỷ điện này rất cần cho việc chạy máy bơm nước, máy xay xát, chế biến nông sản thực phẩm và thắp sáng ở nông thôn và miền núi.
Khai thác than và dầu khí là cần thiết, ta có thể khai thác trong quy mô lớn và sử dụng trực tiếp dễ dàng,nhưng nó đòi hỏi nhiều vốn, thời gian và chúng không thể tái tạo được , mà tiềm năng của ta về than và dầu mỏ cũng rất hạn chế, điều kiện khai thác ở VN lại có nhiều khó khăn, nơi khai thác lại ở rất xa nơi tiêu thụ, than và dầu mỏ lại gây ô nhiễm môi trường nặng , không những thế trình độ khoa học công nghệ của nước ta lại rất lạc hậu gây khó khăn rất lớn cho việc khai thác. Do vậy, nên ta không thể coi nhẹ việc khai thác và tận dụng các dạng năng lượng khác như: ánh sáng mặt trời, địa nhiệt khí sinh học, gió,biển....được tái tạo thường xuyên và được sử dụng ở nhiều nơi, không gây ô nhiễm môi trường và rất thích hợp với việc sản xuất phân tán, quy mô nhỏ ở VN.
Tổn thất và lãng phí trong khai thác và sử dụng năng lượng còn rất phổ biến và nghiêm trọng như tình trạng khai thác than bất hợp pháp và bừa bãi của một số “cai đầu dài” và một số tư nhân, một số ngành địa phương đã gây lang phí lớn về tài nguyên và gây khó khăn cho việc khai thác mỏ sau này.
Công tác vận hành lưới điện truyền tải chưa tốt, hiện tượng cháy biến thế, đứt dây vỡ sứ....xảy ra còn nhiều, gây mất điện ở nhiều khu vực.Tổn thất điện năng lớn, có nơi lên đến 40%-50%, đặc biệt là nạn ăn cắp điện xảy ra khá phổ biếnvà nghiêm trọng, chỉ mới được khắc phục rất ít.
Thực hiện những mục tiêu trên đây trên cơ sở từng bước hiện đại hoá ngành năng lượng, và bằng các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, cần xây dựng chiến lược năng lượng toàn diện và lâu dài, phù hợp với đặc điểm và nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Hai là, xây dựng qui hoạch dài hạn và kế hoạch trung hạn, ngắn hạn để thực hiện chiến lược năng lượng.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong việc thăm dò, khai thác, chế biến các tài nguyên năng lượng.
Bốn là, nghiên cứu để có chính sách mềm dẻo về nhập khẩu và xuất khẩu dầu mỏ, than, khí đốt. Việc tiếp tục xuất khẩu dầu thô, than (và sau này, cả khí đốt) là cần thiết nhưng cần nâng cao chất lượng than xuất khẩu và nhanh chóng xây dựng nhà máy lọc dầu và hoá dầu để không phải xuất dầu thô, mà xuất dầu đã lọc và các sản phẩm đi theo chúng nếu trong nước dùng không hết.
Năm là, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ngang tầm nhiệm vụ, duy trì và phát triển lực lượng công nhân kỹ thuật năng lượng giỏi tay nghề, có sức khoẻ và đời sống ngày càng được cải thiện. Có kế hoạch nâng cao chất lượng đào tạo các kỹ sư địa chất, mỏ, dầu khí, điện...., đẩy mạnh công tác sau đại học để nhanh chóng hình thành một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý tíên kịp trình độ thế giới, một đội ngũ chuyên gia đủ sức giải quyết các vấn đề phức tạp về khoa học kỹ thuật và quản lý trong ngành năng lượng.
Sáu là, phát động một phong trào quần chúng sâu rộng lôi cuốn tất cả các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế và toàn dân, toàn quân tham gia thực hiện chiến lược và quy hoạch, kế hoạch về năng lượng, đóng góp trí tuệ, công sức và tiền vốn nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra cho từng thời kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền, nhằm khai thác toàn diện và có hiệu quả mọi dạng năng lượng, sử dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ tốt tài nguyên môi trường:
e- Về môi trường
Trong quá trình tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài, cần chú ý khía cạnh nhân văn kèm theo xã hội, khuyến khích công nghệ không ô nhiễm, tạo việc làm mà không hại sức khoẻ con người, quan tâm đến điều kiện lao động của phụ nữ, trẻ em, chú ý chia sẻ thành quả của quá trình phát triển cho nông thôn miền núi. Chính sách tiết kiệm tài nguyên bảo vệ môi trường phải được quán triệt trong việc lựa chọn cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, nhằm giảm thiểu chi phí năng lượng, chi phí vật liệu trên một đơn vị thu nhập quốc dân. Các ngành công nghệ cao cùng cần được áp dụng để điều tra thăm dò phát hiện các nguồn tài nguyên mới, khôi phục các môi trường đã bị ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái.
f- Về công bằng xã hội:
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự kết hợp hai mặt đó vấp phải những khó khăn không dễ vượt qua. Một mặt, chủ nghĩa bao cấp vừa bình quân, vừa đặc quyền còn để lại nhiều di chứng, không những trong đời sống vật chất mà cả trong ý thức con người. Mặt khác, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường,bên cạnh những yếu tố tích cực còn chứa không ít yếu tố độc quyền, lũng đoạn, vô chính phủ, tự phát, làm cho kinh tế thị trường tuy có kích thích tính năng động của con người trong hoạt động kinh tế, nhưng cũng tạo nên một tâm lý xã hội của lối sống hãnh tiến, chạy theo đồng tiền một cách mù quáng và vô sỉ: “tiền là tiên là phật, là sức bật tuổi trẻ” “...tiền là tất cả....”
Chúng ta cần có kinh tế thị trường như một môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, nhưng đó phải là một nền kinh tế thị trường văn minh, với những hoạt động sinh lợi thật sự và được pháp luật kiểm soát chặt chẽ, có lợi cho quốc kế dân sinh. Hơn nữa, bản thân kinh tế thị trường không tự động bảo đảm cho công bằng xã hội. Phải có những điều tiết của xã hội thông qua nhà nước để phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng bảo đảm công bằng xã hội ở mức cần thiết tối thiểu.ở nước ta, những sự điều tiết như vậy do nhiều nguyên nhân chưa đủ mạnh.
Không thể đồng ý với quan niệm cho rằng nếu coi trọng công bằng xã hội thì khó lòng tập trung các nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Đứng về ngắn hạn thì như vậy, nhưng nếu xét theo triển vọng lâu dài thì quan niệm này rất có hại. Hãy lấy một ví dụ: vấn đề đầu tư. Tất nhiên, trước mắt cần tập trung phần lớn các nguồn lực rót vào giáo dục, y tế, trợ cấp xã hội. Nhưng, nếu ngày nay không đầu tư thích đáng cho những lĩnh vực này thì liệu trong vòng 10 – 15 năm nữa, chúng ta có thể đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng cho sự phát triển kinh tế không? Hay lúc đó, nhân lực dồi dào của nước ta sẽ trở thành một gánh nặng, vì thế học vấn, thiếu trình độ nghề nghiệp, và không đủ sức khoẻ. Đó là chưa nói với thực trạng đó, đất nước sẽ không thể phát triển nhanh, mạnh, đủ sức tham gia sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nước trong khu vực và trên thế giới trong một sự hòa mang tính năng động mạnh mẽ, nhưng cũng đầy thách thức đối với nước nào hụt hơi trong cuộc chạy đua đường dài.
Theo tư duy kinh tế mới, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội cũng là trực tiếp đầu tư cho kinh tế, nhất là xét theo triển vọng dài hạn. Đầu tư cho cấu trúc hạ tầng không thể chỉ bó hẹp vào những cấu trúc hạ tầng kinh tế mà phải mở rộng ra những cấu trúc hạ tầng xã hội mà cốt lõi của nó không có gì khác hơn là con người phải có được công bằng xã hội
Phần c: kết luận
Với chính sách kinh tế mới của V.I.Lê nin cùng những nỗ lực của đảng và nhân dân ta, sự nghiệp xây dựng một xã hội văn minh giầu đẹp ở nước ta đã có những bước phát triển rõ rệt.
Việc đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước trước hết xuất phát từ mục tiêu, con đường đi tới chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhân dân ta lựa chọn. Việc thiết kế thi công và thực hiện thành công mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ nhưng nhất định phải làm. Nó đòi hỏi toàn đảng toàn dân ta đồng tâm hiệp lực, có đường đi nước bước rõ ràng, có ý chí và bản lĩnh vững vàng để sẵng sàng tạo lập, nắm bắt và vận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước vượt lên “sánh vaivới các cường quốc năm châu” như Bác Hồ đã nói “công nghiệp hoá hiện đại hoá là mơ ước ngàn đời của ông cha ta, là sự giao phó của lịch sử VN hàng ngàn năm văn hiến và hiển hách chiến công cho thế hệ hôm nay tiếp nối thực hiện bằng được”, đây cũng là khát vọng của nhân dân ta hiện nay, mong muốn đất nước ta có tiềm lực to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc,tự do cho toàn dân, xã hội công bằng văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc , hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Thành công trong quá trình đổi mới ở VN những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của những bước đầu tiên và hứa hẹn nhiều tiềm năng cho phát triển. Tuy nhiên, vì là một nước có điểm xuất phát thấp, vẫn còn là nước nghèo và môi trường sinh thái cũng ở ngưỡng suy thoái, VN nhất thiết phải theo đuổi chiến lược : tăng trưởng nhanh về kinh tế kết hợp với bền vững xã hội, bảo vệ môi sinh, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Bên cạnh thận lợi về vị trí địa lý ,một phần về tài nguyên thiên hiên thì nguồn lực con người VN là yếu tố quan trọng nhất cho phát triển. Nếu có một chiến lược dài hạn đúng đắn cùng những chính sách, biện pháp hữu hiệu thì chính nguồn lực này sẽ đưa VN bắt kịp nhịp điệu phát triển của vùng Châu á - Thái Bình Dương, và sẽ trở thành một nước công nghiệp mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc tiên tiến ở vùng này vào những năm 2002.
Với chính sách kinh tế mới của Lê nin chắc chắn nước ta sẽ vững bước vượt qua thời kỳ quá độ và tiến vào thiên niên kỷ mới với một nền kinh tế phồn thịnh !!!
TàI LIệU THAM KHảO
1. Các mác- Anghen toàn tập
2. Sách triết học Mác-Lê nin tập I-II
3. Đảng cộng sản VN- văn kiện hội nghị lần thứ V ban chấp hành t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35801.doc