MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
B- Phần nội dung 4
I. Những nét cơ bản về NEP 4
1. Tình hình lịch sử ra đời của NEP 4
1.1. Đặc điểm nước Nga trước cách mạng Tháng 10. 4
1.2. Nước nước Nga dưới triều đại của nhân dân – Nhà nước vô sản . 5
2. Chính sách “Kinh tế mới“ và sự áp dụng chính sách Kinh tế mới ở Nga 7
2.1. Chính sách thuế lương thực . 10
2.2. Chính sách nông nghiệp . 11
2.3. Phát triển sản xuất công nghiệp . 12
2.4. Củng cố liên minh giai cấp công nông, tăng cường trao đổi hàng hoá trong đất nước . 13
2.5. Về việc đối sử với tư bản còn sót lại . 14
2.6. Tài chính - tiền tệ. 16
2.7. Phát triển thương nghiệp. 16
2.8. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 17
3. Thành quả nước Nga đã đạt được khi áp dụng chính sách Kinh tế mới . 17
4. Sự kết thúc của chính sách Kinh tế mới. 18
II. Chính sách Kinh tế mới khi vận dụng vào Việt Nam 20
1. Hoàn cảnh Lịch sử của Việt Nam. 20
1.1. Lịch sử. 20
1.2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới. 20
1.3. Nền kinh tế Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới đến nay. 21
2. Những nguyên nhân có thể áp dụng vào Việt Nam. 23
2.1. Chế độ chính trị . 23
2.2. Kinh tế . 23
2.3. Xã hội . 24
3. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin với công cuộc đổi mới ở VN 24
3.1. Vận dụng quan hệ hàng -tiền trong đổi mới cơ chế quản lý ở cơ sở - kinh tế nhà nước. 26
3.2. Những điểm mới trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 29
4. Thành tựu và những mặt hạn chế sau những năm đầu đổi mới. 31
4.1. Những thành tựu bước đầu. 31
4.2. Khuyết điểm và yếu kém. 32
5. Những giải pháp nhằm áp dụng NEP có hiệu quả ở Việt Nam. 33
5.1. Xây dựng tư duy lý luận và quan điểm lý luận đúng đắn. 33
5.2. Vận dụng tư duy lý luận - chính trị vào hoạt động thực tiễn. 34
C. Kết luận. 36
1. Tổng hợp về chính sách kinh tế mới (NEP). 36
2. Bài học và kinh nghiệm. 36
Tài liệu tham khảo 38
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-Nin với công cuộc đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sống mới hiện đại văn minh, nơi tấp trung nhiều ngành công nghiệp lớn ; một nơi đại diện những giá trị văn hoá truyền thống quý báu, nơi mà kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công nghiệp, nơi còn tồn tại tư tưởng ” gia trưởng nửa da man, thậm chí là dã man “ (Lênin). Giao lưu hai vùng là biện cho cả hai cùng phát triển .
2.5. Về việc đối sử với tư bản còn sót lại .
Ngay từ khi Lênin đưa ra dự thảo của chính sách mới đã có sự phản đối của bọn tả khuynh, chúng gia sức chỉ trích chính sách mới là tạo điều kiện cho mầm mống của chủ nghĩa tư bản sống lại, chỉ trích Lênin là không có tinh thần cách mạng triệt để . Lí do chủ yếu cho những lời bình phẩm đó với chính sách là việc Lênin đề nghị cho tư bản thuê lại những cơ sở sản xuất nhỏ và trung bình .
Nghe thì có vẻ ngược đời nhưng hãy xem hoàn cảnh nền kinh tế lúc ấy, phát triển ngay một nền đại công nghiệp thì nhà nước không đủ khả năng . Từ khi giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, không thể nói công nhân Nga không đủ trình độ nhưng vẫn là không đủ, trình độ tổ chức sản xuất còn rất yếu kém chủ yếu là do không có kinh nghiệm, chính quyền hoàn toàn có thể lợi dụng trình độ của tư sản để phát triển sản xuất . Tuy vậy để có sự lợi dụng đó nhà nước, nhân dân cũng hải trả một cái giá “ chúng ta không phủ nhận là ta còn phải học bạn tư bản nhiều . Chúng ta hãy so sánh những kết quả thực hiện ở các tỉnh các khu vực, các quận, các xã, trong các địa phương này những tư bản tư nhân đã đạt được những kết quả ngần này . Họ đã được ước chừng bao nhiêu tiền lời . Đó là cống vật, là số tiền à chúng ta phải trả để tập sự .Có thể trả tiền để học nghề miễn là có kết quả“(Lênin). Khi đã có thể đủ khả năng ‘ ta sẽ không phải nộp một khoản ‘ cống vật ‘ nào nữa . Nói theo cách của Lênin là dùng chính kiến thức của tư sản để đào tận gốc những mầm mống còn sót lại của chủ nghĩa tư bản để rồi tiêu diệt nó . Việc cho thuê này ban đầu sẽ có lợi cho cả hai bên, tư sản sẵn lòng thoả thuận với chính quyền, họ quản lí xí nghiệp theo đường lối tư bản để ấy lợi nhuận, ngoài ra họ còn nhận được những nguồn nguyên liệu mà họ không thể kiếm bằng con đường nào khác, nếu có cũng vô cùng khó khăn . Chính quyền Xô viết cũng có lợi, đó là các lực lượng sản xuất phát triển, khối lượng sản phảm tăng ngay trong một thời gian ngắn nhất .
Nếu không cho tư bản thuế những cơ sở sản xuất thì nhà nước cũng không thể quản lí được tất cả các cơ sở trong nước . Thực tế tại những nơi do nhà nước quản lí mà không đủ vốn và kĩ thuật thì các đại doanh nghiệp kinh doanh kếm hiệu quả làm suy yếu kinh tế địa phương, nông dân không còn tin vào chính quyền nữa. Nếu đúng chừng mực và khôn khéo thì việc cho tư bản thuê là hợp lí và đời sống nhân dân được nâng lên một cách nhanh chóng .
Có người lại lo lắng rằng nếu làm như thế giai cấp tư bản có thể phát triển trở lại . Không, chúng ta không phải lo ngại điều ấy vì thực tế nhà nước đã nắm những phần cơ bản nhất của nền kinh tế . Đặc biệt Lênin đã nhắc đến một hình thái đặc biệt được coi là bước quá độ của các doanh nghiệp quốc doanh, một hình thái là bước qua độ từ công ty tư bản lên các nhà máy của chủ nghĩa xã hội : chủ nghĩa tư bản nhà nước . Chủ nghĩa mày có vài hình thức trong đó hình thức cho tư bản thuê nhà máy, cơ sở sản xuất như trên là là hình thức đơn giản nhất, rõ ràng nhất, rành mạch nhất, có hình thể chính xác nhất .
Ngoài ra, còn một hình thức khác mà chính quyền Xô viết cũng có thể áp dụng là nhà nước thuê nhà tư sản như một nhà buôn, nhà nước trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán các sản phẩm của nhà nước và mua các sản phẩm của người của các nhà sản xuất nhỏ. Như vậy là lại thừa nhận sự tồn tại của thương nhân .
2.6. Tài chính - tiền tệ.
Lập lại các ngân hàng nhà nước, các quỹ tín dụng, tập hợp các hợp tác xã tín dụng vẫn hoạt động lâu nay vào tổ chức chung . Một mặt phát hành tiền củng cố các quan hệ tiền tệ trong đất nước . xác định lại các hình thức tín dụng . Nhà nước nắm độc quyền ngân hàng .
Trong các năm 1922, 1923 quan hệ thị trường đã ổn định giá cả được kiểm soát .
2.7. Phát triển thương nghiệp.
Về cơ bản thì nhà nước vẫn nắm độc quyền về thương nghiệp, tuy nhiên do có những chính mới về trao đổi hàng hoá và cho phép tầng thương nhân bắt đầu hoạt động rộng hơn đáp ứng nhu cầu trao đổi của nhân dân .
Các hợp tác xã thương nghiệp ở nông thôn và thành thị tồn tại dưới dạng các hợp tác xã cung tiêu và hợp tác xã tín dụng. các hợp tác xã này đóng vai trò quan trọng tron lưu thông hàng hoá, phân phối sản phẩm . Các hợp tác xã cung tiêu thì mua các hàng hoá mà nông dân bán, các hàng hoá là sản phẩm công nghiệp và bán lại ho nông dân ở những nơi cần, ngoài ra các hợp tác xã này còn phát triển đảm bảo nhu cầu về dịch vụ kĩ thuật nôn nghiệp, sơ chế sản phẩm,...Còn các hợp tác xã tín dụng nhận tiền gửi tiết kiện và cho vay, qua đó những nông dân nghèo có cơ hội tăng gia sản xuất .
Tuy nhiên từ khi có chính sách thuế lương thực thì trong xã hội tồn tại một lượng lương thực thừa, và vấn đề đặt ra là tiêu thụ số lương thực thừa đó . Trong luận cương ban đầu của Lênin thì vấn đề này sẽ được giải quýet bằng cách trao đổi hàng hoá trực tiếp giữa nông nghiệp với công nghiệp, với thợ thủ công, và cá sản phẩm của các ngành khác . Mở ra các kênh tiêu thụ của nhà nước đến từng địa phương . Tuy nhiên khi thực hiện, hệ thống này quá yếu kém và không đáp ứng nhu cầu trao đổi của nông dân .
Để đáp ứng nhu cầu của mình, nhân dân tìm đến thị trường tự do . Và từ đó thị trường này ngày càng phát triển . Theo Lênin, htị trưòng này là không có lợi cho qua trình xây dựng đất nước theo mục tiêu đề ra, nhưng Lênin cũng thừa nhận và đồng ý thực hiện nó vì nó phù hợp với nền sản xuất nhỏ . Chính phủ cho phép tự do quan hệ buôn bán hàng hoá trên thị trường , từ đó từng bước xây dựng một kinh tế thị trường vận động theo quy luật thị trường , tự do giá cả , nhưng cũng có sự can thiệp của nhà nước .
Chính sách thương nghiệp, thị trường, quan hệ hàng hoá tiền tệ tỏ ra là phương tiện hữu hiệu xoá bỏ sự căng thẳng về chính trị thông qua giải quyết các vấn đề của nền kinh tê . Chính sách này được thực hiện trong chính sách Kinh tế mới gốp phần ngăn chặn đầu cơ lúa mì, ổn định thị trường, xoá bỏ độc quyền .
2.8. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Sản xuất nhỏ có đặc trưng là sản phảm sản xuất ra với số lượng ít, chất lượng thấp , không đồng đều , và hầu hết được tiêu thụ ngay trong nội bộ các ngành hay các địa phương . Nền kinh tế tự nhiên không thể đảm bảo nền tảng về kinh tế vững chắc cho xây dựng chủ nghĩa xã hội . Vì vậy việc thiết lấp các quan hệ trao đổi hàng hoá là rất cần thiết, xây dựng nền kinh tế hàng hoá , trong giai đoạn quá độ là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là rất cần thiết . Một nền kinh tế như vậy kích thích sản xuất phát triển , kích thích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất vừa làm cho kinh tế đất nước ổn định , các mặt hàng được cung cấp đầy đủ , mặt khác lại tận dụng được tất cả các nguồn lực của các thành phần khác nhau trong nền kinh tế . Tất cả các giai cấp tầng lớp , các giai cấp đều tham gia vào xây dựng đất nước .
3. Thành quả nước Nga đã đạt được khi áp dụng chính sách Kinh tế mới .
Như ta đã biết, chính sách Kinh tế mới ra đời trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước Nga, kinh tế suy sụp,xã hội có nhiều bất hoà lộn xộn thậm chí có những cuộc nổi loạn của nông dân xảy ra. Chính sách này được áp dụng trong khoảng thời gian từ năm 1921 đến năm 1926 bắt đầu với việc thực hiện chính sách thuế lương thực và sau đó là một loạt các sắc lệnh khác về phát triển nông nghiệp, công nghiệp, ... Chính sách Kinh tế mới đã thu được rất nhiều thành quả đáng nói . Từu năm 1923 các hộ nông dân đều tăng diện tích gieo trồng, số lương gia súc, việc cung cấp ngũ cốc cho các thành phố được tăng lên sau 3 năm từ 1923 đến 1925 sản lượng ngũ óc tăng đáng kể : củ cải tăng 7,9 triệu tấn, số gia súc tăng 16.3 triệu con, tổng sản phẩm nông nghiệp tăng 12%, chăn nuôi tăng 21%(Chính sách kinh tế mới qua lăng kính thời đại hiện nay ). Các cuộc bạo loạn chấm dứt ngay sau khi thi hành chính sách Kinh tế mới . Nạn cướp bóc hoành hành truớc đây giảm hẳn .
Sự thay đổi tâm trạng của nông dân có nghĩa là thay đổi, phục hồi lại sự liên minh giai cấp vô sản và nông dân . Hình thức kinh tê hình thành một cách tự nhiên tỏ ra phù hợp với với nền kinh tế tiểu nông, cùng với việc dùng các kích thích kinh tế và xoá bỏ chính sách điều khiển quá mức của nhà nước vào nền kinh tế có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển chung của nhà nước cách nạng vô sản, nâng cao mức sống, phát triển nền kinh tế Xã hôi chủ nghĩa .
Những kết quả to lớn cũng có thể thấy trong ngành công nghiệp và trong thương nghiệp . Trong công nghiệp, các xí nghiệp do nhà nước quản lí nhờ đựơc tập trung đầu tư nhiều hơn nên không con hoặc ít thấy tình trạng các xí nghiệp làm ăn thua lỗ trở thành ăn bám chính phủ, các xí nghiệp được chủ động làm ăn hơn, độc lập hơn trong các quyết định sản xuất, linh hoạt hơn do không phải chịu sự chi phối của các mệnh lệnh qua cụ thể của trên đưa xuống . Với các xí nghiệp được tư nhân, tư bản thuê dưới sự kiểm soát giới hạn của nhà nước cũng đóng gốp vai trò không nhỏ trong việc đáp ứng các nhu cầu của xã hội .
Về thương nghiệp, hệ thông thương nghiệp cả của nhà nước và thị trường đều hoạt động có hiệu quả . Đặc biệt là hệ thống thị trường hàng hoá - tiền tệ là lí tưởng cho xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn qua độ .
4. Sự kết thúc của chính sách Kinh tế mới.
Nói chung Lênin khẳng định viẹc pá dụng chính sáh Kinh tế mới là trong một thời kì lâu dài . Tốc độ chậm ơn có thể đảm bảo cho nền kinh tê vững chắc hơn . Lênin đặc biệt phản đối tư tưởng trở lại áp dụng các chính sách thời cộng sản thời chiến .
Khi Stalin lên nắm giữ chức tổng bí thư đảng cộng sản Nga thì tình thế lại hoàn toàn khác hẳn . Phương pháp của Stalin trong phát triển kinh tế không phải đặt các mối quan hệ kinh tế lên hàng đầu mà thay vào đó là các quan hệ hành chính, đồng thời chủ trương tập trung phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng với tốc độ nhanh chóng bất chấp sự trì trệ của sản xuất nông nghiệp biểu hiện là : trái với công nghiệp sản lượng tăng rất nhanh, trong nông nghiệp sản lượng tăng nhậm chạp .
Stalin yêu cầu tập thể hoá nhanh chóng cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp . Sau thời kì kủng hoảng 1927 Stalin có những chính sách về tịch thu lúa mì của phú nông nếu bị phát hiện là có đầu cơ tích trữ lương thực, chia một phần cho người phát hiện . áp dụng các hình thức xử phạt nặng đối với tội tàng trữ lúa mì . Điều này làm cho nông dân sợ, dẽ dàng thu mua lúa mì, nhưng lại chính là bỏ qua lời kêu gọi liên minh giai cấp của Lênin.
Cứ như vậy chính sách Kinh tế mới dần mất đi những đặc điểm cơ bản đến khi nó hoàn tàn bị xoá bỏ và chìm vào quên lãng . Chỉ đến khi Liên Xô sau này lâm vào tình trạng suy thaói nghiêm trọng do thực hiện quá lâu các chính sách nhằm tăng tốc độ phát triển của nền kinh tế một cách qua nhanh chóng, tuy có thời gian Liên Xô đã trở thành quốc gia có nền kinh tế thứ nhất Châu Âu thứ nhì thế giới, nhưng lại chịu tác hại qua lớn của những cuộc khủng hoảng mà không thể khắc phục được . Khi đó người ta mới nghiên cứu lại những giá trị còn đầy tính thời sự ngay cả với ngày nay thì mọi việc đã là quá muộn . Sự tan rã của Liên Xô chính là minh chứng cho sự nóng nảy chủ quan xa rời những lí luận cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin . Đây là bài học quý giá cho bất cứ nước nào đang tiến trên con đường Xã hội chủ nghĩa .
Chính sách Kinh tế mới ra đời và được áp dụng ở nước Nga không được lâu dài vì vậy ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế chưa được khám phá hết , ngững hiệu quả lâu dài của nó hầu như chưa được nhận định rõ ràng . Tuy nhiên với những gì mà chính sách này đã thực hiện được ở nước Nga đã chứng tỏ sức mạnh của nó đối với việc phục hồi kinh tế trước mắt và xây dựng chế độ mới , chế độ Xã hội chủ nghĩa sau này .
Lênin xây dựng chính sách này cho tình hình cụ thể ở nước Nga , tuy nhiên chính sách Kinh tế mới hoàn toàn có thể áp dụng ở các nước khác nếu kết hợp với phương pháp lịch sử cụ thể của chủ nghĩa Mác – Lênin . Điều đó có nghĩa là yêu cầu để một nước nào khác áp dụng chính sách Kinh tế mới đó là đảng cầm quyền ở nước đố phải biết vận dụng sáng tạo nó vào tình hình kinh tế chính trị của nước mình sao cho phù hợp nhất , có hiệu quả nhất . Nói cách khác chính sách Kinh tế mới có tính chất quốc tế .
II. Chính sách Kinh tế mới khi vận dụng vào Việt Nam
1. Hoàn cảnh Lịch sử của Việt Nam.
1.1. Lịch sử.
Việt Nam là nước nằm ở Đông nam Châu á, là quốc gia có truyền thống lâu đời về dựng nước và giữ nước . Với 4000 lịch sử, Việt Nam đã trãi qua những giai đoạn lịch sử đầy hào hùng chống quân xâm lược . Từ thời trung cổ là những cuộc xâm lấn liên tiếp của phong kiến phương bắc, sau này là hai đế quốc lớn phương Tây: Pháp và Mĩ .
Trong tất cả các cuộc chiến dân tộc Việt Nam luôn tỏ ra mình là dân tộc anh hùng, sáng tạo luôn biết tiếp nhận cái mới . Nhất là sau khi chủ nghĩa Mác xuất hiện và được Đảng cộng sản Việt Nam truyền bá vào giai cấp công nhân nói riêng và toàn bộ nhân dân nói chung thì một trang sử mới đã mở ra với đất nước chúng ta . Giai cấp công nhân với vũ khí lí luận là chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo toàn bộ nhân dân Viẹt Nam đấu tranh cho đọc lập của dân tộc . Chiến thắng đầu tiên và cũng là mốc son chói lọi trong lịch sử chính là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời .
1.2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội không qua gia đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cái cốt vật chất của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của nền kinh tế được biểu hiện ở những mặt sau đây:
-Cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém.
-Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, khôn có khả năng cạnh tranh.
-Sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính bảo thủ, trì trệ.
-Phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn hẹp, đơn điệu.
-Thu nhập của dân cư quá thấp , sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi.
-Thiếu một đội ngũ những người quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh trong và ngoài nước.
-Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ kinh tế. Điều đó biểu hiện:
+Từ năm 1986 trở về trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, còn quan hệ hàng hoá- tiền tệ, nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần- thành phần xhcn mà thôi, dựa trên chế độ công hữu về TLSX dưới hai hình thức.
+Với tên gọi kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa một sự sao chép theo nguyên bản mô hình Liên Xô trước đây, đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo, như giá trị, giá cả, lợi nhuận... bị hình thức hoá đến cao độ; không phản ánh các quy luật của thị trườgn, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa.
+Quy luật vận động của kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đôí nền kinh tế quốc dân.
+Mục đích hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận như vốn có của kinh tế hàng hoá mà lá tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đựơc phát ra từ một trung tâm.
+Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chỉ chủ quan thu hẹp phạm vi hoạt động xem như không hợp pháp hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nề kinh tế mà thôi.
Những quan niệm ấu trĩ trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện của sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân thủ theo quá trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển xã hội nói chung và trong kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải chấn hưng nó cho phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan phù hợp với các xu thế thời đại ngày nay.
1.3. Nền kinh tế Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới đến nay.
Thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế ( lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu).
Tình hình lương thực thực phẩm có chuyển biến tốt. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay chúng ta đã vươn lên đáp ứng được nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà cung cầu lương thực- thực phẩm trên phạm vi cả nước. Nhưng bình quân lương thực đầu người của nước ta còn thấp, việc điều hoà lương thực có lúc chưa tốt, quản lý dự trữ lương thực quốc gia có khuyết điểm to lớn, giá cả lương thực - thực phẩm có những lúc tăng đột biến, vì nhiều nguyên nhân, tình trạng thiều đói từng thời gian vẫn còn xẩy ra ở nhiều nơi. Chúng ta không thể chủ quan, coi nhẹ nhiệp vụ đẩy mạnh sản xuất và điều hoà lương thực-- thực phẩm.
Hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt kế hoạch, nhưng cũng tăng hơn trước và có tiến bộ rõ rệt về mẫu mã , chất lượng. Một số sản phẩm tư liệu sản xuất tăng khá. Các cơ sở sản xuất gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của nhà nứơc về vốn, giá vật tư, tiền lương... giảm đáng kể.
Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bứơc đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nứơc. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống. Chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế; khơi dậy được nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm và sản phẩm cho xã hội; thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường.
Công tác kế hoạch hoá đã chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng là chủ yếu, bước đầu sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật chất để bảo đảm cân đối tổng cung- tổng câù trong nền kinh tế. Đã xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành và vùng, mở rộng thông tin kinh tế, nâng cau vài trò của hợp đồng kinh tế.
Bộ maý nhà nước từng bứơc chuyển sang thực hiện chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành kinh doanh của cơ sở. Việc xây dựng pháp luật kinh tế được đẩy mạnh.
Cùng với những đổi mới cơ chế quản lý ở tầm vi mô, chúng ta đã tiếp tục điều chỉnh quan hệ sản xuất ở nông thôn, cải tiến chế độ khoán và cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp; mở rộng về nhiều mặt quyền tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh, tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của người lao động. Nhờ đó đã thúc đẩy các cơ sở sản xuất thưo nhu cầu thị trường, phấn đấu áp dụng tiến bộ kỹ thuật và cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu hình thành nhưng chưa đồng bộ, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng; chậm tổng kết để đề ra chương trình tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế có hệ thống. Bên cạnh những sự tiến bộ, sự quản lý và điều hành vĩ mô của nhà nước ở các cấp cũng bộc lộ nhiều mặt non yếu, chưa thực hiện nhất quán và có hiệu quả chức năng định hướng, kiểm soát và điều tiết các thành phần kinh tế.
2. Những nguyên nhân có thể áp dụng vào Việt Nam.
2.1. Chế độ chính trị .
Ngay từ khi lên nắm chính quyền, Đảng cộng sản Việt Nam - Đẳng cầm quyền ở Việt Nam - đã chọn con đường tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa . Và từ đó đến nay vẫn kiên trì đi theo con đường này . Bất chấp những biến động lớn trong tình hình chính trị quốc tế, đặc biệt là khi Liên xô tan rã, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu thất bại trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra những thách thức lớn cả về kinh tế và niềm tin vào sự khả thi của chủ nghĩa xã hội, Đảng công sản Việt Nam đã lãnh đậo nhân dân một cách linh hoạt sáng tạo, biết sửa chữa khuyết điểm và đổi mới kịp thời . Nhờ đó tình hình chính trị không những vượt qua được thời kì khủng hoảng mà ngày một vững chắc .Củng cố vị trí trên chính trường thế giới .
2.2. Kinh tế .
Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp với truyền thống trồng lúa nước lâu đời . Tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng công nghiệp kém phát triển . Thời phong kiến công nghiệp, thương nghiệp hầu như không phát triển . Công nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ phục vụ cho nhu cầu tại chỗ . Thương nghiệp chỉ tồn tại trong các thành thị lớn, trao đổi giao lưu kinh tế giữa các vùng hầu như không có, quan hệ buôn bán với nước gnoài hạn chế . Nói chung đó là nền kinh tế tự cấp tự túc đạc trưng cho chế độ phong kiến .
Sang cuối thế kỉ thứ 19 đầu thế kỉ thứ 20 khi thực dân Pháp sang xâm lược với chiêu bài khai hoá nhằm vơ vét tài nguyên thuộc địa đưa về mẫu quốc . Để phục vụ cho quá trình khai thác và vơ vét Pháp có xay dựng một số công trình công nghiệp và khi đó công nghiệp ở Việt Nam mới thực sự hình thành . Tuy nhiên các ngành công nghiệp đó chủ yếu là các ngành khai thác, chế biến sản phảm thô ( khai mỏ, luyện kim ...) không đòi hỏi có kĩ thuật sản xuất cao, và một số ngành sản xuất nhu yếu phẩm ( dệt ) .
Nông nghiệp cũng có sự chuyển biến, về các cây lương thực thì không nhiều tuy thực dân Pháp có đưa vào trồng ở Việt Nam một số loại cây công nghiệp chủ yếu là lanh, bông, cao su... Nhất là cao su được trồng với quy mô lơn thành các đồn điền cao su .
Thực dân Pháp đã biến Việt Nam thành thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào Pháp . Nhân dân Việt Nam có đời sống vô cùng cực khổ, công nhân và nông dân là hai tầng lớp dưới đáy xã hội . Nông dân chịu nhiều tầng áp bức do Pháp duy trì bộ máy phong kiến còn rơi rớt lại để tiện bề cai trị .
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, thêm Nhật nhảy vào vơ vét làm tình hình kinh tế Việt nam càng thêm cạn kiệt . Nạn đói năm 1945 làm cho hơn 2 triệu người chết đới ỏ Bắc kì, lí do chủ yếu của nạn đói này là Nhật và Pháp bóp nặn cùng kiệt nhân dân trong thời kì cuối của cuộc chiến tranh thế giới.
2.3. Xã hội .
Xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng là một xã hội thực dân nửa phong kiến phức tạp xen lẫn những giai cấp tàng lớp cũ và mới . Xã hội bao gồm : nông dân, địa chủ phong kiến, công nhân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức . Mâu thuẫn xã hội cực kì gay gắt,gia cấp nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức ( Thực dân pháp ,phát xít Nhật , và bộ máy phong kiến cũ ) . Công nhân tuy là giai cấp mới ra đời nhưng có tinh thần đấu tranh cao , cuộc sống của họ cực khổ đặc biệt là những công nhân làm trong các đồn diền trồng cây công nghiệp của thực dân , với những người này họ phải làm vất vả cả ngày nhưng cũng không đủ lương thực để ăn , công nhân trong các xí nghiệp cũng không hơn gì .
Sựu bất bình về chính sách cai trị trong nhân dân ngày càng lớn , càng về sau càng có tổ chức , có khi thành những cuộc bãi công lớn buộc chính quyền phải nhượng bộ phần nào . Nhưng ngay sau đó lại đàn áp các cuộc đấu tranh một cách thẳng tay .
3. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam cho thấy rằng, không thể giải quyết được những vấn đề câp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương, biện pháp dựa trên tư duy kinh tế cũ, mang đầy tính bị động và đói phó với tình hình. Bởi vậy đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tê, là một chủ trương hoàn đúng đắn, là bước chuyển có ý nghĩa cách mạng, đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường rút ngắn, với hình thức qúa độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định. Trong một bói cảnh lịch sử cụ thể không bình thường, nhiều biến động, đương nhiên chúng ta phải xây dựng không chỉ đường lối chiến lược, mà cả những giải pháp tình thế, vừa có khả năng đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa tạo nền móng cho sự phát triển lâu bền. Chiến lược và sách lựơc đó phải dựa trên một nền tảng lý luận vững chắc và được hình thành trên cơ sở thực tiễn đầy đủ, kết hợp kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm quốc tế.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy rõ, chính sách kinh tế mới NEP của V.I.Lê-nin là mẫu mực về một giải pháp tình thế, và còn là đường lối mang tính chiến lược, là cái đem lại cho chúng ta cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực hiện chính sach kinh tế mới ở nước Nga đầu những năm 20 vẫn còn là bài học bổ ích cho đất nước chúng ta
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35392.doc