Đề tài Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương từ sau khi gia nhập WTO đến nay

Ngày 4/7/2009 Thủ tướng Chính phủ có kết luận về việc điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong thời gian tới. Theo đó, lãi suất cơ bản và các mức lãi suất khác được điều chỉnh theo hướng ổn định và ở mức hợp lý, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ chính sách tiền tệ khác để kiểm soát mức tăng các chỉ tiêu tiền tệ phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô.

Về chính sách hỗ trợ lãi suất, Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện tích cực chính sách hỗ trợ lãi suất. Tăng cường thanh tra, giám sát, kiểm tra các khoản cho vay hỗ trợ lãi suất để đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu hỗ trợ. Thủ tướng cũng giao điều hành tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 25%, tín dụng tăng khoảng 25%-27% nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5%, khống chế lạm phát ở mức một con số trong năm 2009. Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Công thương kiểm soát nhập siêu năm 2009 không vượt quá 20% tổng kim ngạch xuất khẩu như mục tiêu đề ra.

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3560 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương từ sau khi gia nhập WTO đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhóm lãi suất chủ yếu: Một là lãi suất kinh doanh (huy động, cho vay…) của tổ chức tín dụng được hình thành trên cơ sở cung -cầu vốn thị trường, lạm phát, mức độ rủi ro và sự điều tiết của ngân hàng trung ương; Hai là lãi suất vay mượn ngắn hạn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng, chịu tác động chủ yếu của cung- cầu vốn khả dụng của tổ chức tín dụng và điều tiết của lãi suất chính sách Ngân hàng Trung ương; Ba là lãi suất chính sách của Ngân hàng Trung ương (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu…) điều tiết trực tiếp lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với các mục tiêu của chính sách tiền tệ. (Trích: Ngày 25/12/2010, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức phiên họp mời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo giải trình về thực trạng và những giải pháp xung quanh vấn đề lãi suất hiện nay.) Năm 2007 Mục tiêu Tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 8.0% - 8.5% Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 6.5% - 7%, Bội chi ngân sách ở mức 5% GDP Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 43.4% GDP Thành tựu kinh tế Năm 2007 là năm đầu tiên Việt nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nên có nhiều tác động tích cực và nhiều thách thức với thị trường trong nước. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên 2 chữ số, CPI ở mức 12,61% so với tháng 12 năm 2006 (cao nhất trong vòng 12 năm qua) nhưng nhiều chỉ tiêu đặt ra đều đạt và vượt mức kế hoạch. Kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh, GDP đạt 8,5%, mức cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 17,1%, cao hơn mức kế hoạch; các ngành dịch vụ phát triển khá, nhất là thương mại bán lẻ; hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông mở rộng hơn; xuất khẩu tăng trưởng cao, đạt hơn 48,3 tỉ USD; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục (hơn 20 tỉ USD); thị trường chứng khoán phát triển mạnh, thu hút trên 5 tỉ USD, nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn được tiến hành cổ phần hoá … Nguồn: Tổng Cục Thống Kê Chính sách lãi suất Trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, các dự báo đánh giá của NHNN về lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mô năm 2007, NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng "thắt chặt" tiền tệ để rút mạnh tiền từ lưu thông về, giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ổn định lãi suất mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, Lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm. Lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam Riêng đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD, kể ngày 01/03/2007, NHNN bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân, các TCTD đã được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thoả thuận, phù hợp với nhu cầu vốn kinh doanh, cung cầu vốn ở thị trường trong nước và lãi suất thị trường quốc tế. Lý do chủ yếu của việc giữ ổn định lãi suất này là nhằm phát tín hiệu định hướng ổn định lãi suất thị trường để hạn chế tác động tăng lãi suất cho vay và cộng hưởng làm tăng chi phí sản xuất, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát. Đối với việc kiểm soát mức tăng tiền tệ để kiềm chế lạm phát, thì chủ yếu sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, còn lãi suất chỉ đóng vai trò bổ trợ cho các công cụ này. Đánh giá chính sách lãi suất 10 tháng đầu năm 2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu hướng giảm từ 1-2,3%/năm so với cuối năm 2006, do vốn khả dụng toàn hệ thống dư thừa. Tuần đầu của nửa cuối tháng 11/2007, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, do vốn khả dụng của một số NHTM Nhà nước cao, giao dịch nội tệ liên ngân hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, do vốn khả dụng của một số NHTM Nhà nước giảm với nguyên nhân chủ yếu là các tổ chức kinh tế và KBNN rút tiền gửi thanh toán. Để ổn định thị trường nội tệ liên ngân hàng và tránh tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày trên nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các TCTD NHNN thực hiện chào mua giấy tờ có giá theo phương thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất ở mức 8% nhằm hạn chế tình trạng bỏ thầu lãi suất không phù hợp với lãi suất thị trường, gây tâm lý phản ứng tác động không thuận đối với điều hành CSTT của NHNN. Vì vậy, tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng của NHTM đã cơ bản được khắc phục, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã ổn định và có xu hướng giảm khoảng 0,5-2%/năm so với cuối tháng 11/2007. Trên cơ sở hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng bộ với việc phát triển thị trường tiền tệ, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam. Trong năm 2007, nguồn ngoại tệ từ đầu tư gián tiếp nước ngoài vào rất lớn, thanh khoản các ngân hàng thừa, nên tăng dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% -> tăng lãi suất là hợp lý . Tuy nhiên, mặt hạn chế : Về nguyên nhân chủ quan do điều hành giá yếu, dự báo sai, điều hành chính sách tiền tệ chưa tốt. "Việc lúng túng trong điều hành thị trường tiền tệ cũng là một lý do khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) vượt quá tốc độ tăng GDP" (đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị Kế hoạch và Đầu tư năm 2007, ngày 30-11-2007. Trong thực tiễn đối phó với lạm phát ở nước ta năm 2007 và 2008, chính sách lãi suất có những bất cập, những nghịch lý kéo dài. Vì vậy, đã và đang có những tác động tiêu cực đến kết quả chống lạm phát : Các ngân hàng phải vào cuộc chống lạm phát (thể hiện qua việc tăng dự trữ bắt buộc, thắt chặt hạn mức tín dụng và nâng lãi suất cơ bản và chiết khấu, cũng như sử dụng một số công cụ nghiệp vụ thị trường mở khác để hút tiền thừa từ lưu thông). Trong khi đó, các ngân hàng ở Việt Nam mới thực hiện được một nửa “đơn thuốc”, tức chỉ thực hiện lãi suất tín dụng cho vay cao hơn hẳn lãi suất huy động, cũng như luôn cao hơn mức lạm phát, trong khi trần lãi suất cho vay dường như bị thả nổi. Các ngân hàng thương mại đều thống nhất thực hiện lãi suất huy động thấp hơn nhiều mức lạm phát (nhất là năm 2007). Kết quả là dư lượng tiền thừa trong lưu thông vẫn quá nhiều, trong khi nhiều ngân hàng không huy động đủ tiền mặt để bảo đảm tính thanh khoản và cho vay cần thiết. => Chính sách lãi suất “nửa âm - nửa dương” khiến cả người gửi và doanh nghiệp đều chịu thiệt, nhiều ngân hàng thu lợi lớn, trong khi nguy cơ giảm tính thanh khoản và ngưng trệ hoạt động cho vay lại tăng Năm 2008 Mục tiêu Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thành tựu kinh tế Tăng trưởng kinh tế Năm 2008, Việt Nam đối mặt khó khăn do kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, với nỗ lực vượt qua khó khăn của cả nước, đến nay, các ngân hàng (NH), tổ chức tài chính vẫn ổn định; các doanh nghiệp (DN) lớn vẫn trụ vững… Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong nhiều năm đạt tốc độ tăng trưởng hơn 8%, đến năm 2008 chỉ đạt 6,23%. Đây là kết quả của việc linh hoạt trong điều hành chính sách trước hai trạng thái phức tạp của nền kinh tế cùng lúc diễn ra trong năm: lạm phát và giảm phát. Điểm sáng nhất trong bức tranh kinh tế năm 2008 là thành tựu trong thu hút các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài. Theo Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư toàn xã hội năm 2008 theo giá thực tế đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP, tăng 22,2% so với năm 2007. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã tiếp tục phá kỷ lục mới, năm 2008, cả nước thu hút được 64 tỷ USD với 1171 dự án đăng ký mới (60,3 tỷ USD) và 311 dự án bổ sung vốn (3,7 tỷ USD), tăng gấp 3 lần so với năm 2007. Cũng trong năm 2008, tại hội nghị Nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam, cộng đồng quốc tế đã tiếp tục cam kết hỗ trợ trên 5 tỷ USD nguốn vốn ODA… Với tốc độ tăng trưởng ở mức như hiện nay và kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm qua (65 tỷ USD), Việt Nam có quyền hy vọng và tin tưởng sẽ vượt qua suy thoái kinh tế. Lạm phát Năm 2008, lạm phát đã vượt lên mức hai con số, đỉnh điểm lên đến 23%. Đây là mức lạm phát cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Trong lịch sử kinh tế Việt Nam, lạm phát đại phi mã đã từng xảy ra vào năm 1986, với con số lên đến 776%. Mức lạm phát hơn hai con số đã khiến đời sống người lao động, người làm công ăn lương rơi vào khó khăn. Giá cả nhiều mặt hàng trong nhiều tháng của năm 2008 đã vượt xa giá trị thật. Nhiều chuyên gia đã cảnh báo nguy cơ triệt tiêu thành quả kinh tế. Chính phủ đã phải thực hiện 8 nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát và cơ bản đã đạt được kết quả như mong muốn.  Đánh giá chính sách lãi suất Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm). Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12. Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%. Lần đầu tiên kể từ 1/12/2005, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ 8,25% lên 8,75% vào 1/2/2008. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó. Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên, Ngân hàng Nhà nước chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự). Từ thời điểm đó, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi căn bản; khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những mức lãi suất cho vay từ 22% - 25% trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí thu thêm; trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ. Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng thương mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%). Ngược lại, từ cuối tháng 7, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm. Năm 2009 Mục tiêu Điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 khoảng 5%, chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%, chỉ tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu 3%, mức bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) không quá 7% GDP. Căn cứ vào tình hình thực tế, Chính phủ điều hành bội chi NSNN ở mức thấp nhất và giảm dần trong một số năm tiếp theo. Bên cạnh đó, giữ tổng chi trong dự toán NSNN theo đúng kế hoạch. Thành tựu kinh tế Tăng trưởng kinh tế Mặc dù chịu ảnh hưởng không nhỏ từ suy thoái kinh tế chung nhưng tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam vẫn tăng dần qua 4 quý, lần lượt là 3,1%, 4,5%, 5,8% và 6,8%. Thực hiện cả năm 2009, GDP đạt 5,32% so với mục tiêu Quốc hội đề ra là khoảng 5%. Lạm phát Không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế trầm, thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng. Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng Hai, Sáu, Chín và Mười hai, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Quy luật nén - nhả nới lỏng dần qua các vòng “xoắn ốc”, và lạm phát gia tăng sau mỗi chu kỳ được hình thành. Trong 8 tháng đầu tiên, diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính quy luật và cho cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiệu những đột biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện thực hóa phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát. Gói kích cầu trị giá 1 tỷ USD được đưa ra lần đầu tiên vào ngày 2/12/2008, thì đến cuộc họp Chính phủ cuối tháng Hai, hình hài và vóc dáng đã hình thành. Cũng trong thời gian này, đã có những công bố tổng giá trị gói kích cầu lên đến 6 tỷ USD, thậm chí hơn nữa. Từ khoảng tháng Tư, các chính sách như hỗ trợ 4% lãi suất; miễn thuế thu nhập cá nhân 6 tháng đầu năm 2009; giảm thuế suất thuế xuất nhập khẩu nhiều loại hàng hóa; giãn thuế thu nhập doanh nghiệp; giảm 50% thuế giá trị gia tăng; và hàng loạt chính sách hỗ trợ an sinh xã hội, tăng chi tiêu công… bắt đầu chuyển mạnh vào đời sống kinh tế xã hội. Về cầu kéo, tính đến 30/10/2009, tổng phương tiện thanh toán M2 đã tăng 23,99%. Ngân hàng Nhà nước công bố, tín dụng tăng trưởng 37,73% so với cuối năm 2008… Về tác động của tăng giá trên thị trường thế giới, đến tháng 11/2009, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 451,31 USD/tấn. Do có quyền số cao tới hơn 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, tăng giá lương thực tác động mạnh đến giá cả trong nước, CPI nhóm hàng này tháng 12/2009 đã tăng 7,54% so với một năm trước đó. Tổng cục Thống kê cho biết, CPI tháng 12/2009 so với tháng 12/2008 tăng 6,52%, thấp hơn mục tiêu 7% mà Quốc hội đã thông qua. Qua đó, góp phần làm cho CPI bình quân năm 2009 chỉ tăng 6,88% so với năm 2008, mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (CPI bình quân năm 2004 t ăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%). Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so sánh. Nhưng sự gia tăng mạnh mẽ chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm khiến gây lo ngại cho những tháng đầu năm 2010. Tình hình lãi suất Sáng 25/11, Thống đốc NHNN đã bất ngờ ký ban hành Quyết định tăng lãi suất cơ bản lên 8%, sau 10 tháng liên tiếp duy trì ở mức 7%/năm. Bên cạnh đó, lãi suất tái cấp vốn cũng tăng từ 7% lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm.   Cũng trong ngày 25/11, Thống đốc NHNN đã  điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 17.961 VND/USD và áp dụng biên độ tỷ giá mới cho giao dịch mua bán giao ngay giữa USD và VND là +/-3%, thay cho +/-5%. Với các điều chỉnh này, mức tỷ giá sàn giao dịch là 17.422 VND/USD và tỷ giá trần giao dịch sẽ là 18.500 VND/USD. Đánh giá chính sách lãi suất Ngày 4/7/2009 Thủ tướng Chính phủ có kết luận về việc điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong thời gian tới. Theo đó, lãi suất cơ bản và các mức lãi suất khác được điều chỉnh  theo hướng ổn định và ở mức hợp lý, kết hợp với điều hành  linh hoạt nghiệp vụ  thị trường mở và các công cụ chính sách tiền tệ khác để kiểm soát  mức tăng các chỉ tiêu tiền tệ  phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô. Về chính sách hỗ trợ lãi suất, Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện tích cực chính sách hỗ trợ lãi suất. Tăng cường thanh tra, giám sát, kiểm tra các khoản cho vay  hỗ trợ lãi suất  để đảm bảo thực hiện đúng  mục tiêu hỗ trợ. Thủ tướng cũng giao điều hành tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 25%, tín dụng  tăng khoảng 25%-27% nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5%, khống chế lạm phát  ở mức một con số  trong năm 2009. Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Công thương kiểm soát nhập siêu năm 2009 không vượt quá 20% tổng kim ngạch xuất khẩu như mục tiêu đề ra. Nếu như 2008 là năm lạm phát cao, buộc phải thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt thì sang 2009, tình hình kinh tế vĩ mô có phần phức tạp hơn mà biểu hiện rõ nét nhất là nền kinh tế chưa kịp "cắt cơn" lạm phát, đã phải đối mặt với suy giảm, Chính phủ phải điều chỉnh mục tiêu: ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát, tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và đảm bảo an sinh xã hội. Trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế, Chính phủ đã ban hành Quyết định 131/CP, hỗ trợ lãi suất ngắn hạn cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, trị giá 1 tỷ USD. Để đưa gói hỗ trợ lãi suất vào thực tiễn, ban đầu có khá nhiều ý kiến khác nhau nhưng tập trung chủ yếu ở hai phương án: Phương án thứ nhất, là nên dành cho một số công trình lớn làm động lực kích thích các ngành phụ trợ phát triển, giống như gói kích thích của Trung Quốc. Phương án thứ hai là chỉ hỗ trợ một số khu vực, chẳng hạn như doanh nghiệp nhỏ và vừa, bởi lúc đó, ông Cao Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa có đưa ra những con số bi quan về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp: 20% phá sản, 60% khó khăn và chỉ 20% có thể trụ vững. Mặc dù bộ trưởng các bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước đều vào cuộc xử lý và bàn đi tính lại nhiều lần, nhưng cuối cùng, ngày 17/1/2009, Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước chủ động đề xuất phương án triển khai. Ngân Hàng Nhà nước xây dựng phương án sử dụng chính các tổ chức tín dụng để giải ngân gói kích thích này. Mặc dù giải pháp này không giống bất kỳ gói kích thích kinh tế nào trên thế giới, nhưng chúng có những ưu điểm:   Thứ nhất, gắn lợi ích và trách nhiệm của các ngân hàng với gói kích thích, ở chỗ: nguồn vốn là của ngân hàng thương mại được giải ngân theo cơ chế thông thường nhưng được Chính phủ hỗ trợ 4% lãi suất. Nhờ đó, ngân hàng thương mại khơi thông được tín dụng với lãi suất cho vay gần tương tự điều kiện nền kinh tế hoạt động bình thường, điều mà không một hệ thống ngân hàng của quốc gia nào làm được tại thời điểm đó. Thứ hai, ngân hàng thương mại là tổ chức có đủ điều kiện vật chất để đảm bảo cho hàng triệu khoản vay được thực hiện an toàn, trong khi phương pháp khác không thể đạt được yêu cầu này. Kèm theo đó là cơ chế "hậu kiểm" nên nhìn chung làm yên tâm trước một số nghi ngại. Nhược điểm Khi triển khai gói hỗ trợ lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã lường trước những hiệu ứng phụ không mong muốn, và quả đúng như vậy, đến tháng 7/2009, thị trường tiền tệ bắt đầu xuất hiện sức ép tăng trưởng tín dụng. Thực tế này trái với dự kiến kế hoạch đầu năm: nếu tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%, Ngân hàng Nhà nước tính toán tăng trưởng tín dụng từ 21% - 23%, tương đương mức 3 - 3,2 lần GDP, đảm bảo thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.000 USD/người/năm là hợp lý. Giới chuyên gia kinh tế, luật cảnh báo, chính sách kích cầu này mặc dù thực tế cũng có hiệu quả nhất định nhưng lại có rất nhiều kẽ hở dẫn đến việc cho vay, sử dụng vốn ngân sách sai quy định, thậm chí không tránh khỏi những hành vi trục lợi, tham nhũng tiền ngân sách. Cùng đó, một bộ phận doanh nghiệp vay hợp pháp tại ngân hàng này nhưng gửi ngân hàng kia để hưởng lợi chênh lệch lãi suất khoảng 2%/năm lúc đó, nhưng về sau có thể lên tới 4 - 5%/năm. Năm 2010 Mục tiêu Theo Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, mục tiêu kinh tế - xã hội của năm 2010 là phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng, ngăn chặn lạm phát cao trở lại, tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội. Dựa trên các điều kiện, nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, NHNN đánh giá các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu năm 2010 như sau:  Tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 6,5%; Chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá 7%, Bội chi ngân sách ở mức 6,2% GDP và Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 41%GDP Trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, các dự báo đánh giá của NHNN về lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mô năm 2010, NHNN đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 linh hoạt, thận trọng và chặt chẽ để kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng đối với nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, bảo đảm khả năng an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng, góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010. Thành tựu kinh tế 2010 Tăng trưởng kinh tế Năm 2010 GDP của Việt Nam ước đạt 1,981 ngàn tỉ đồng theo giá hiện hành, tương đương với khoảng 100 tỉ US$. Trong khi đó, GDP tính theo giá so sánh ước tăng khoảng 6,78%, vượt mục tiêu 6.5% đề ra hồi đầu ưnăm. Con số này được kì vọng sẽ tăng lên trên 7% nếu như kinh tế thế giới tiếp tục hồi phục khá và những ề bất ổn nội tại của nền kinh tế được giải quyết sớm. Tăng trưởng khá cao của Việt Nam chủ yếu được dẫn dắt bởi các khu vực công nghiệp & xây dựng và khu vực dịch vụ. So với năm ngoái, khu vực công nghiệp & xây dựng tăng tới 7,70% trong khi khu vực dịch vụ tăng 7,52%. Lạc quan hơn, tăng trưởng của cả hai khu vực này tiếp tục xu hướng đi lên kể từ quý 1 năm 2009. Duy chỉ có khu vực nông, lâm, & ngư nghiệp, tăng 2,78% trong năm nay, là có xu hướng giảm nhẹ do ảnh hưởng của thiên tai vào nửa cuối năm. Hình: Tăng trưởng GDP theo quý 2001-2010 (% so với cùng kỳ, cộng dồn) Lạm phát Chỉ số giá tiêu dùng CPI của tháng 12 được chính thức công bố tăng tới 1,98% so với tháng trước. Lạm phát tiếp tục ở mức cao do giá cả lương thực & thực phẩm và giá vật liệu xây dựng tiếp tục tăng mạnh. Trong khi đó, lạm phát so với cùng kì năm ngoái ở mức 11,75%, vượt xa con số mục tiêu 8% trong năm nay của chính phủ. Ngoài tăng trưởng cung tiền và tín dụng cao ở mức trên 20% liên tiếp trong nhiều năm, thời tiết xấu trong nước cộng với sự gia tăng trở lại của giá nguyên nhiên liệu thế giới được cho là một trong những nguyên nhân chính gây ra mức lạm phát cao vào những tháng cuối năm 2010. Trong nhiều năm, lạm phát của Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn bởi sự dao động mạnh của giá lương thực và thực phẩm. Năm 2010 cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong năm nay, giá cả nhóm hàng này tăng tới 16,18%, đóng góp khoảng 6,64% trong tổng mức tăng 11,75% của CPI. Sự gia tăng mạnh này chủ yếu xuất phát từ sự gia tăng của giá cả thế giới, thời tiết xấu trong nước, và sự mất giá của đồng nội tệ. Hình: Hình trên cho thấy giá cả nhóm hàng nhà ở & vật liệu xây dựng và giá cả nhóm hàng giáo dục cũng đóng góp đáng kể vào lạm phát năm nay. Giá cả nhóm hàng nhà ở & vật liệu xây dựng tăng 15,74%, đóng góp 1,45%, trong khi giá cả nhóm hàng giáo dục tăng 19,38%, đóng góp 1,11% vào tổng mức tăng 11,75% của gCPI năm nay. Trong khi đó, nhờ sự trợ giá của chính phủ, sự đóng góp vào lạm phát của nhóm hàng giao thông có xu hướng giảm trong quý 2. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng tình trạng này sẽ không thể kéo dài khi giá dầu thô thế giới đã vượt mức 90 $/thùng trong tháng 12 vừa qua. Hầu hết các nhóm hàng khác đều có mức đóng góp thấp hoặc vừa phải vào lạm phát của năm nay. Đánh giá chính sách lãi suất Lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm phát; lãi suất thị trường có xu hướng giảm vào giữa năm và tăng cao trở lại những tháng cuối năm. * Chính sách điều hành lãi suất của NHNN Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với các giải pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8%  trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Bên cạnh đó, để tạo điề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN8.doc
Tài liệu liên quan