Luật ngân hàng Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực từ ngày 01/10/1998. Tại điều 18 luật này đã quy định: “ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn” nhưng mãi đến ngày 02/08/2000 ngân hàng Nhà nước mới công bố và điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản. Vậy lãi suất cơ bản là gì, nó có thích hợp với nước ta hay không và việc điều hành nó như thế nào? Nội dung này ta có thể xem xét cụ thể dựa trên một số khía cạnh sau:
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2160 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn hiên nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
soát được. Rủi ro môi trương bên ngoài không thể bị loại trừ bởi việc đa dạng hoá nên còn gọi chung là “ rủi ro không thể đa dạng”. Các rủi ro này thường tạo ra các tác động khác nhau đến hoạt động doanh nghiệp và trường hợp xấu nhất chúng có thể dẫn đến phá sản. Trên thị trường tài chính “ rủi ro không thể đa dạng” được định giá trong cơ cấu lãi suất và được gọi là “ lệ phí rủi ro thị trường”.
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, sự thay đổi tương quan giữa lãi suất tiền gửi với lãi suất tiền vay gọi là “ rủi ro lãi suất”. Trường hợp kỳ hạn tiền gửi không đổi, vốn huy động không đổi, nhưng cho vay thấp hơn trước hoặc trường hợp lãi suất không đổi, vốn huy động không đổi nhưng tiền vay với thời hạn dài hơn trước đều dẫn đến rủi ro vỡ nợ hoặc rủi ro thiếu vốn khả dụng cao. Do vậy rủi ro thị trường đều được định giá trong cơ cấu lãi suất đưa ra.
Tóm lại, nhân tố thời gian, nhân tố rủi ro là hai nhân tố chủ yếu tác động đến quyết định lãi suất của mỗi ngân hàng. Khi ngân hàng cho vay, ngân hàng chịu cả hai thiệt thòi: thiệt thòi về mặt thời gian do nhường quyền sử dụng tiền trong thời gian nhất định và thiệt thòi do chấp nhân rủi ro trong thời gian đó. Do đó phần lãi suất phải bao gồm giá trị thời gian và lệ phí rui ro.
6. Thị trường vốn quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, vốn được luân chuyển trên phạm vi quốc tế. Vì vậy lãi suất trên thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia cũng chịu tác động của thị trường khu vực và thế giới. Trước hết thị trường vốn quốc tế quyết định lãi suất thực quốc tế. Sau đó lãi suất thực quốc tế lại ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thực tại các nước theo từng qui mô của nền kinh tế mở.
- Dưới nền kinh tế nhỏ: lãi suất thực nội địa phải cao hơn lãi suất thực thế giới nếu mốn thu hút đầu tư quốc tế và ngăn cản người gửi tiết kiệm trong nước đầu tư vốn ra nước ngoài.
- Dưới nền kinh tế hùng mạnh: mức độ ảnh hưởng lãi suất quốc tế đến lãi suất thực trong nước đôi khi không lớn bằng tác động ngược lại của sự thay đổi lãi suất do tiết kiệm và đầu tư nước đó biến động đến lãi suất thực của thế giới.
III- Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất, tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng trọng chiến lược CNH – HĐH đất nước.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý bảo đảm nguyên tắc quy định: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, bảo đảm tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể:
+ Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân
+ Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay).
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư và ngược lại. Trong môi trường kinh tế hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chỉ tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất bởi vì ngoài đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc là: lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
3. Lãi suất – vai trò của nó đối với hoạt động ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại với hai hoạt động chính trong hoạt động kinh doanh cảu mình là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh qui mô hoạt động của các ngân hàng thương mại. Với phương châm đi vay để cho vay, ngân hàng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, ngân hàng thương mại phải xác định mức lãi suất tiền và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Có như vậy mới thu hút được nguồn vốn to lớn trong nước đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và khách hàng.
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng, ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là khách nợ. Khi cho vay vốn ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ nợ đối với khách hàng vay vốn, còn khi nhận tiền gửi thì ngân hàng lại là khách nợ. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp không hấp dẫn thi không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền, dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho vay. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không còn lãi hoặc lãi quá thấp thì họ sẽ thu hẹp sản xuất để gủi tiết kiểm hưởng lãi suất cao. Lúc đó trong ngân hàng sẽ gặp tình trạng dư tiết kiệm, không cho vay được và trở thành con nợ thực sự của các chủ sở hữu, vì vậy có nguy cơ phá sản.
Vì nhưng yếu tố quan trọng đó mà ngân hàng trung ương phải xác định hay kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại. Nhằm bảo vệ chính ngân hàng thương mại và lợi ích của người gửi tiền. Lãi suất ngân hàng hợp lý thực sự là đòn bẩy mạnh mẽ cho nền kinh tế phát triển.
Chương II : Thực trạng điều hành lãi suất Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Có thể nói trước năm 1986 ở nước ta chưa tồn tại một chính sách lãi suất theo đúng nghĩa của nó. Một biểu lãi suất được qui định rất chi tiết đối với tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền cho vay, ban hành kèm theo quyết định 85/QĐ-NH ngày 26/10/1982 được áp dụng trong suốt giai đoạn này. Chính sách lãi suất là việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình của Liên Xô (cũ). Nhiều mức lãi suất của ta tồn tại ổn định qua nhiều năm, điều này dường như rất phi lý, nhưng lại rất logic trong điều kiện kinh tế-xã hội bấy giờ. Trong một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, Nhà nước bao cấp toàn bộ thông qua ngân sách, giá cả các mặt hàng không biến động qua hàng chục năm, không công nhận lạm phát. Vậy dựa vào cơ sở nào để điều chỉnh lãi suất?
Từ khi đất nước ta thực hiện đổi mới kinh tế, quan điểm về tài chính, tín dụng, giá cả, lãi suất đã có nhiều đổi thay. Hàng loạt các chính sách lãi suất được đưa ra ở các thời điểm nhất định và có tác động tích cực đối với nền kinh tế, để có thể thấy và đánh giá được sự đổi mới trong chính sách lãi suất, ta sẽ nghiên cứu tình hình diễn biến lãi suất nước ta từ 1988 đến nay.
I- Diễn biến lãi suất từ 1988 đến 1992
Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của hội đồng Bộ trưởng đã đánh dấu một điểm mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng. Từ đây hệ thống ngân hàng từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức của mình: từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Trong giai đoạn này xuất hiện mối quan hệ mới, quan hệ giữa ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại. Nhiều người đã lầm tưởng mối quan hệ này là mối quan hệ cấp trên cấp dưới, xét về mặt hình thức thì đúng là như vậy, ngân hàng Nhà nước được quyền cấp phát giấy phép hoạt động cho các ngân hàng thương mại, soạn thảo luật ngân hàng,... nhưng thực chất đây là mối quan hệ bạn hàng, ngân hàng Nhà nước khó có thể điều hành được nếu như không được sự ủng hộ của các ngân hàng thương mại và ngược lại các ngân hàng thương mại dễ bị đổ vỡ nếu ngân hàng Nhà nước không giúp đỡ.
+ Lãi suất tiết kiệm:
Ngày 16/3/1989, ngân hàng Nhà nước quyết định nâng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền. Tỉ lệ lạm phát 2 tháng đầu năm 1989 là 8,5%/tháng. Mức lãi suất được công bố là 9%/tháng đối với tiết kiệm không kỳ hạn và 12%/tháng với tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng. Chính yếu tố này đã giúp cho ngân hàng nhanh chóng thu hút được lượng tiền mặt khá lớn trong lưu thông, làm lạm phát giảm xuống còn 4,3%/tháng vào tháng 4/1989. Sau khi lạm phát được đẩy lui, ngân hàng Nhà nước đồng thời ra các quyết định để giảm dần mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
+ Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế:
Chỉ thị 39/CT đã đưa ra nguyên tắc điều chỉnh lãi suất ngân hàng: lãi suất bảo đảm tồn vốn cho người gửi và cho người vay, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động của chỉ số giá cả thị trường, lãi suất cho vay phải lấy việc phục vụ sản xuất kinh doanh có hiệu quả là chính, đồng thời đảm bảo chi phí và hạch toán ngân hàng, có ưu tiên đối với một số ngành. Việc điều chỉnh lãi suất được tiến hành theo từng bước theo hướng thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất tiền tiết kiệm và lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế để tiến tới một lãi suất hợp lý. Ngày 11/07/1991, ngân hàng Nhà nước quy định lãi xuất cho vay tối đa của các ngân hàng thương mại là 6%/tháng và lãi suất huy động vốn tối đa là 2%/tháng.
Trong giai đoạn này chính sách lãi suất dần thể hiện được vai trò của mình trong công cuộc kiềm chế lạm phát, đã hình thành nhiều loại lãi suất phù hợp với yêu cầu thị trường như lãi suất giữa các ngân hàng.... Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế và lãi suất tiết kiệm, lãi suất huy động cao hơn lãi suất cho vay, hơn nữa có sự phân biệt lãi suất cho vay giữa khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh gây ra tình trạng bất bình đẳng trong nền kinh tế.
Về phía doanh nghiệp do được vay với lãi suất thấp dẫn đến đầu tư tràn lan không hiệu quả. Các doanh nghiệp không trả được nợ, dẫn đến sự đổ bể hàng loạt các tổ chức tín dụng.
II- Diễn biến lãi suất từ năm 1992-1996
Bước sang giai đoạn này, hoạt động kinh doanh ngoại tệ trở nên rất phổ biến. Ngân hàng Nhà nước lần lượt cho phép các ngân hàng thương mại cổ phần được tham gia vào hoạt động ngoại hối. Hiện tượng các doanh nghiệp có ngoại tệ gửi ngân hàng và doanh nghiệp cần vay ngoại tệ của ngân hàng ngày càng phổ biến. Bởi vậy ngoài việc quản lý lãi suất nội tệ, ngân hàng Nhà nước bắt đầu tiến hành việc hoạch định và điều chỉnh lãi suất ngoại tệ trong giai đoạn này.
- Đối với nội tệ ngân hàng Nhà nước quyết định điều hành chính sách lãi suất theo phương hướng:
+ Đảm bảo lãi suất thực tế dương, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp hơn lãi suất tiền gửi.
+ Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền gửi tối thiểu cụ thể đối với từng đối tượng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các ngân hàng thương mại tự quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng.
+ Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế
+ Ngày 04/01/1994 ngân hàng Nhà nước quyết định chấm dứt cho vay bổ xung nguồn vốn ngắn hạn, thay vào đó là hình thức cho vay tái cấp vốn (vay tái chiết khấu), với mức lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định qua từng lần vay.
+ Với sự xuất hiện thị trường liên ngân hàng, lãi suất vay mượn lẫn nhau của các tổ chức tín dụng được ngân hàng Nhà nước quy định: Các thành viên trên thị trường cho vay lẫn nhau theo lãi suất thoả thuận, lãi suất cho vay tối đa là 2,3%/tháng. Nếu đó là vốn từ nguồn kỳ phiếu thì lãi suất bằng lãi suất huy động kỳ phiếu cộng tỉ lệ phí ngân hàng 0,3%/tháng. Ngày 30/09/1993, ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lãi suất tối đa xuống còn 2,1%/ tháng.
+ Tháng 12/1995 Quốc hội ra quyết định thực hiện chính sách trần lãi suất áp dụng cho 1 số lĩnh vực vay cụ thể, ngoài ra còn qui định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn là 0,35%/tháng.
- Đối với lãi suất ngoại tệ:
Trước đây việc nhận tiền gửi và cho vay ngoại tệ (chủ yếu là đôla Mỹ) đối với các tổ chức kinh tế được ngân hàng ngoại thương độc quyền đảm nhận. Các quy định về lãi suất đều do ngân hàng ngoại thương quyết định. Tuy nhiên, từ khi ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ thì xuất hiện nhu cầu quản lý lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ của các tổ chức tín dụng từ phía ngân hàng Nhà nước.
Trong giai đoạn này ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều quyết định, quy định và điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và cho vay đôla Mỹ. Tháng 12/1993, ngân hàng Nhà nước bãi bỏ việc quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nghĩa là ngân hàng Nhà nước chỉ khống chế mức lãi xuất cho vay ngoại tệ tối đa của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Ngoài ra, mức lãi xuất cho vay tối đa ngày càng được điều chỉnh tăng lên để thực hiện chủ trương thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ.
Việc chuyển đổi từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương có tác dụng quan trọng trong việc tạo điều kiện cho các ngân hàng thực hiện chuyển đổi sang kinh doanh, góp phần tăng khối lượng tín dụng phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Chính sách lãi suất phù hợp hơn đã góp phần tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải, ổn định kích thích tăng trưởng. Kết quả giảm lạm phát 1991 là 67,6% xuống còn 14,55% năm 1992. Mức lãi suất mới đã khắc phục tình trạng chiếm dụng vốn của ngân hàng để đầu cơ, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu hồi vốn nhanh.
Việc quản lý lãi suất trần tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng được tự do hơn trong việc ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh. Nhưng bên cạnh đó, một số tổ chức tín dụng có xu hướng cho vay hết trần lãi suất nhằm thu được lợi nhuận tối đa, dẫn tới một số vùng kinh tế khó khăn chưa được ưu tiên về lãi suất như định hướng của Nhà nước.
III- Diễn biến lãi suất từ năm 1996 trở lại đây
Trong hơn 10 năm đổi mới, cơ chế điều hành lãi suất đã ngày càng trở nên linh hoạt hơn, bám sát cung cầu về vốn trên thị trường, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng được mở rộng, từ đó đã góp phần làm phát triển thị trường tài chính trong nước, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Để thúc đẩy hội nhập kinh tế, ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, đã và đang từng bước áp dụng lãi suất cơ bản thay dần cho việc ấn định lãi suất trần đi đôi với việc sử dụng công cụ điều tiết lưu thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường.
Giai đoạn đầu năm 1996, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội về bãi bỏ thuế doanh thu của các hoạt động tín dụng nhằm mục đích giảm chi phí cho vay, ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất, khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng thương mại chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng gồm cả chi phí và lợi nhuận. Có ý kiến cho rằng thực chất chính sách này vừa quy định trần, vừa quy định sàn lãi suất.
Trần lãi suất được quy định nhiều mức do có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, lúc đầu có 4 loại trần lãi suất như sau:
+ Trần lãi suất cho vay ngắn hạn, áp dụng cho khu vực thành thị.
+ Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn.
+ Trần lãi suất cho vay áp dụng cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn nông thôn.
+ Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với thành viên.
Giữa các mức lãi suất này, lúc đầu có sự chênh lệch nhau khá lớn nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cách này đã dần được rút ngắn. Một thực tế khách quan cho thấy nơi có chi phí hoạt động cao, rủi ro cao là khu vực nông thôn nhưng lại luôn có nhu cầu vốn lớn nên ngân hàng Nhà nước quy định trần lãi suất cho vay ở nông thôn cao hơn ở thành thị nhằm thu hút vốn về nông thôn. Nhưng có nhiều quan điểm cho rằng: cho vay ở nông thôn phải có mức lãi suất thấp hơn hoặc bằng mức lãi suất ở thành thị thì mới ưu đãi và kích thích nông nghiệp phát triển. Chính vì lẽ đó, ngày 21/01/1998, thống đốc ngân hàng Nhà nước ra quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN1, xoá bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, rút từ bốn trần lãi suất xuống còn ba, thu hẹp khoảng cách giữa các trần lãi suất và không quy định chênh lệch 0,35%/tháng. Quyết định này đã giảm sự chênh lệch về lãi suất cho vay ở hai khu vực thành thị và nông thôn, nhưng bên cạnh đó đã đẩy khu vực nông thôn lâm vào tình trạng thiếu vốn, điều này không đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng ở nông thôn.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, ngân hàng Nhà nước cũng đã khống chế trần lãi suất cho vay và khi có sự biến động tỷ giá đã phối hợp chặt chẽ giữa công cụ lãi suất và chính sách tỷ giá dể tăng cường quản lý ngoại tệ. Liên tục thực hiện thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất cho vay nội tệ và lãi suất cho vay ngoại tệ phù hợp với chính sách quản lý ngoại hối, quản lý lãi suất trên thị trường quốc tế.
IV- Định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam
Luật ngân hàng Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực từ ngày 01/10/1998. Tại điều 18 luật này đã quy định: “ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn” nhưng mãi đến ngày 02/08/2000 ngân hàng Nhà nước mới công bố và điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản. Vậy lãi suất cơ bản là gì, nó có thích hợp với nước ta hay không và việc điều hành nó như thế nào? Nội dung này ta có thể xem xét cụ thể dựa trên một số khía cạnh sau:
1. Lãi xuất cơ bản
1.1. Nội dung và yêu cầu của lãi xuất cơ bản
Tại khoản 12 điều 9 luật ngân hàng Nhà nước có viết: “ lãi xuất cơ bản là lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”. Theo quy định này, lãi xuất cơ bản là một khái niệm rộng nhưng có thể khái quát nó bao gồm: Lãi suất thực, tỉ lệ lạm phát, tỉ lệ chi phí bình quân cho hoạt động ngân hàng.
Lãi xuất cơ bản phải phản ánh được cung cầu tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, phải phân biệt được đâu là nhu cầu thực, đâu là nhu cầu đầu cơ để có khả năng chống đầu cơ ở thị trường tài chính, đầu cơ trên thị trường tài chính hiện đang là nguy cơ gây ra khủng hoảng tiền tệ và kéo theo là khủng hoảng kinh tế. Phải thể hiện được chính sách của Nhà nước, thông qua lãi suất để tác động đến tình hình kinh tế nói chung và tình hình tiền tệ nói riêng. Phải có sự hợp lý với lãi suất của các nước trong khu vực và trên thế giới để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhưng không rơi vào sai lầm trong chính sách như một số nước dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
1.2. Lựa chọn lãi suất làm lãi xuất cơ bản
Có nhiều loại lãi suất có thể dùng để làm lãi xuất cơ bản bao gồm:
- Lãi suất tái cấp vốn .
- Lãi suất tiền gửi tối đa.
- Lãi suất cho vay tối đa.
- Lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
a) Lựa chọn lãi xuất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản
Đây là sự lựa chọn chủ yếu của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên, với Việt Nam hiện nay chưa nên áp dụng bởi vì:
- Không phù hợp với quy định của luật: “ .....ngân hàng Nhà nước xác định, công bố lãi xuất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn.....”
- Nghiệp vụ tái chiết khấu của ngân hàng Nhà nước chưa thực sự đủ mạnh để làm lãi suất cơ bản, mà chủ yếu sử dụng cho những mục tiêu của chính phủ.
- Chưa có sự phối hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác.
- Quy định hiện hành về dự trữ bắt buộc là thiếu hợp lý, chưa phối hợp với lý thuyết tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa việc tạo tiền của các ngân hàng thương mại Việt Nam có sự khác biệt lớn với các ngân hàng thương mại của các nước phát triển. Do đó tạo sự bất bình đẳng trong quy định về dự trữ bắt buộc.
b) Chọn lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền vay cụ thể với cung-cầu về vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là ngân hàng Nhà nước chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa còn tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ của chính sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản theo cách hiểu này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến sát tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn (đã tự do hoá lãi suất cho vay và tự do hoá lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa). Đây là cơ chế lãi suất linh hoạt theo quan hệ cung cầu về vốn phù hợp với cơ chế thị trường, tạo khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động vốn với bất kỳ lãi suất nào, chạy đua về lãi suất để huy động vốn nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng và lợi ích của người gửi tiền.
Muốn điều hành được lãi suất cho vay có hiệu quả thông qua việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa thì ngân hàng Nhà nước phải kết hợp tốt cả hai phương pháp điều hành trực tiếp và gián tiếp :
+ Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp quyết định nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa: muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi suất tiền gửi tối đa và ngược lại. Theo nguyên tắc giá mua tỷ lệ thuận với giá bán.
+ Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào khối lượng vốn trên thị trường như: nghiệp vụ thị trường mở (OMO), tái chiết khấu và thực hiện chức năng là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế.
Muốn điều hành khối lượng tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp một cách có hiệu quả thì việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt phải chiếm tỉ lệ cao trong nền kinh tế vì khi đó ngân hàng Nhà nước có thể kiểm soát được lượng thanh toán ở mức độ cao. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện này ở nước ta chưa hội tụ đủ, do vậy khả năng kiểm soát và quản lý lãi suất cho vay sẽ rất hạn chế vì chỉ còn mỗi công cụ trực tiếp mà ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện được đó là nâng lên hoặc hạ xuống mức lãi suất tiền gửi tối đa để theo đó nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Nhưng xét giác độ cung cầu về vốn thì việc này nâng hay hạ lãi suất tiền gửi tối đa trong điều kiện không có các công cụ gián tiếp phối hợp đôi khi lại tác động theo chiều nghịch. Hạ lãi suất tiền gửi sẽ làm cho vốn huy động trở nên khan hiếm và lãi suất cho vay sẽ “đắt lên” và ngược lại.
Trong điều kiện nước ta, nếu sử dụng lãi xuất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa là hơi mạo hiểm, vì khi đó chạy theo lợi nhuận , các ngân hàng thương mại có thể nâng cao lãi suất cho vay (dự đoán là 2,5%/ tháng hoặc cao hơn), ngân hàng Nhà nước chỉ còn trong tay một công cụ yếu kếm là hạ lãi suất tiền gửi, khó có thể kéo lãi suất xuống. Lãi suất cao nhưng các doanh nghiệp và các hộ sản xuất vẫn phải vay vì thiếu vốn, khi làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ, từ đó có thể dẫn đến phá sản hàng loạt doanh nghiệp và kéo theo là sự đổ bể của hàng loạt ngân hàng thương mại, hơn thế nữa nền kinh tế có thể phải đối mặt với các cuộc khủng hoảng.
Do vậy, một khi chưa đủ các công cụ để phục vụ cho việc điều hành lãi xuất cơ bản bằng lãi suất tiền gửi tối đa thì chúng ta chưa nên áp dụng ở Việt Nam vì hậu quả của nó là không lường trước được.
c) Chọn lãi suất cho vay tối đa làm lãi xuất cơ bản
Khi chọn lãi suất cho vay làm lãi xuất cơ bản thì trần lãi suất vẫn là loại lãi suất có tính ưu việt hơn cả, các loai lãi suất cộng hoặc trừ một biên độ nhất định thực chất là khống chế lãi suất cho vay tối đa, nhưng lại kém linh hoạt hơn do bị khống chế sàn lãi suất, giống như khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi bằng 0,35%/tháng trước đây. Khi thực hiện lãi suất cho vay tối đa làm lãi xuất cơ bản thì sẽ đem lại nhiều thuận lợi.
Đối với các tổ chức tín dụng được tự do hoá lãi suất tiền gửi, chủ động trong việc huy động vốn và tránh được tình trạng dư tiết kiệm. Được tự do trong phạm vi trần tối đa, tuỳ theo đặc điểm, chi phí của từng tổ chức tín dụng và tuỳ theo từng đối tượng khách hàng sẽ có nhiều mức lãi suất cụ thể phù hợp.
Đối với Nhà nước, việc kiểm soát lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, bảo vệ được lợi ích của người vay, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước và hộ gia đình nông thôn, hai thành phần chiếm 70% tổng dư nợ vay ngân hàng, không phải vay với lãi suất quá cao, đồng thời điều hoà lợi nhuận giữa người vay và ngân hàng một cách hợp lý.
Tạo môi trường cạnh tranh mạnh mẽ giữa tổ chức tín dụng, trong khôn khổ của trần lãi suất tín dụng, tránh được tình trạng chạy đua theo lợi nhuận tối đa, bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng và nền kinh tế.
Mặc dù vậy, lãi suất cơ bản theo trần lãi suất phải là một trần đủ rộng để đáp ứng được quan hệ cung cầu vốn tín dụng và cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng. Phải đảm bảo cho mọi tổ chức tín dụng, mọi khách hàng, những nơi có nhu cầu vốn lớn chi phí cho vay cao thì cho vay sát trần còn nhưng nơi thuân lợi hơn thì cho vay lãi suất thấp để cạnh tranh lẫn nhau. Và vì vậy nên có một trần chung n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 164.DOC