Đề tài Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ qua, những hạn chế và giải pháp

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1:

NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I. Nội dung của chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường.

1. Hoạt động tái chiết khấu

2. Lãi suất trên thị trường tiền tệ

3. Các công cụ khác của chính sách lãi suất

II. Vai trò của chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường

 

CHƯƠNG II.

CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM TRONG THẬP KỶ QUA

I. Chính sách lãi suất tín dụng từ 1986 - 1990

1. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm

2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế

3. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng

II. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 đến nay

A. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 - 1996

1. Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế và dân cư

2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng khác

3. Lãi suất vay giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng

B. Chính sách lãi suất từ đầu 1996 đến nay

III. Những thành tựu và hạn chế của chính sách tiền tệ từ năm 1990 đến nay

1. Những mặt tích cực của chính sách lãi suất

2. Những hạn chế của chính sách lãi suất.

 

CHƯƠNG III.

 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Các giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất

2. Lãi suất phải được xác định một cách khoa học, phù hợp với thực tế phát triển của đất nước

3. Lãi suất phải đảm bảo tính công bằng, không phân biệt đối xử, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho các tổ chức tín dụng.

PHỤ LỤC THAM KHẢO

 

doc25 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ qua, những hạn chế và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết khấu quá cao hay quá thấp sẽ làm tăng lãi suất tín dụng và là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các nguồn vốn tư bản sẽ chảy vào hay chảy ra khỏi một quốc gia. Việc quy định các mức lãi suất trần hay lãi suất sàn chỉ tồn tại ở các nước đang phát triển như Việt Nam cũng gây những ảnh hưởng nhất định đối với tính chủ động sáng tạo, cạnh tranh trong hoạt động của các NHTM. Nói chung, chính sách lãi suất đã từng được coi là một công cụ quan trọng trong quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước, nhưng do sự ra đời của thị trường tài chính, thị trường mở và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ (dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn...) đã làm cho chính sách lãi suất không còn có tác dụng lớn như trước nữa. Hiện nay, đối với Việt Nam khi mà nghiệp vụ thị trường mở mới ra đời, thị trường tài chính còn đang trong thời kỳ phôi thai thì chính sách lãi suất vẫn còn có những tác dụng quan trọng đối với nền kinh tế. Chương II. Chính sách lãi suất của Việt Nam trong thập kỷ qua Thời kỳ trước năm 1986, với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp thì vai trò quản lý, kiểm soát của ngân hàng đối với các hoạt động kinh tế, tài chính vừa lỏng lẻo vừa bao sân. Với những nhược điểm, sai lầm của cơ chế quản lý kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá tập trung đã được Đảng và Nhà nước ra đổi mới trong suốt thời gian qua và đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng qua hai giai đoạn chủ yếu sau: Từ năm 1986 đến 1990 Từ 1990 đến nay I. Chính sách lãi suất tín dụng từ 1986 - 1990 1. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm Ngày 4/10/1986 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 111/QĐ - HĐBT về nâng cao lãi suất tín dụng. Ngày 26/10/1986 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 85/QĐ về mức lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Mức lãi suất này chỉ đững vững được sau 9 tháng, đến 28/6/1987 Nhà nước lại có Quyết định nâng cao lãi suất tín dụng tại Nghị định số 99/HĐBT của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng. Ngày 2/7/1987 Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 68/NH-QĐ quy định mữc lãi suất cụ thể về tiền gửi và tiền cho vay. Lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế quốc dân từ 0,9% - 1,5% /tháng; kinh tế tập thể, cơ quan 18%/ tháng; của tư nhân, cá thể 2,4%/tháng. Lãi suất tiền vay: Lãi suất tiền vay đối với kinh tế tập thể từ 2,7% - 4,2%/tháng, lãi suất cho vay đối với kinh tế tập thể từ 2,7% - 4,2%/tháng, lãi suất ngoài hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế quốc dân từ 3,6% - 5,1%/tháng (đối với trường hợp vì lợi ích kinh tế) còn nếu không vì lợi ích kinh tế gấp 2 -3 lần lãi suất trong hạn mức tín dụng. Đối với kinh tế tập thể từ 4,2%- 6%/tháng. Các đối tượng khác từ 5,1% - 9,9%/tháng. Lãi suất quá hạn 15% - 21%/tháng, cho vay vốn cố định từ 2,1% - 3,9%/tháng. Ngày 16/3/1989 Ngân hàng Nhà nước ra quyết định số 29/NH - QĐ quyết định năng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền. Tỷ lệ lạm phát hai tháng đầu năm 1989 là 8,5%/tháng. Mức lãi suất được công bố là 9%/tháng đối với tiết kiệm không kỳ hạn và 12%/tháng đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng. Với một mức lãi suất huy động cao như vậy đã thu hút được một khối lượng lớn tiền gửi tiết kiệm của công chúng và góp phần làm cho lạm phát giảm xuống nhanh chóng (tháng 4/1989 còn 4,3%) và trở thành thiểu phát vào tháng 5 và 7 năm 1989. Thời gian sau đó thì lạm phát giảm dần và sau đó Ngân hàng Nhà nước ra quyết định về điều chỉnh giảm dần mức lãi suất tiết kiệm. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm từ tháng 3/1998 đến 3/1999 STT Số Quyết định Ngày ra Quyết định Lãi suất tiền gửi tiết kiệm Loại không kỳ hạn %/th Kỳ hạn 3 tháng %/th 29/NH-QĐ 16/3/1989 9 12 71/NH-QĐ 25/5/1989 7 9 94/NH-QĐ 29/6/1989 5 7 09/NH-QĐ 9/2/1990 4 6 18/NH-QĐ 19/3/1990 2,4 4 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước 2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế Ngày 6/2/1990 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị số 39/CT về điều chỉnh lãi suất ngân hàng theo nguyên tắc lãi suất bảo toàn vốn vho người gửi và cho vay, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động chỉ số giá cả thị trường. Viêck điều chỉnh lãi suất được tiến hành từng bước theo hướng thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất tiền gửi tiết kiệm và lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế STT Số Quyết định Ngày ra Quyết định Lãi suất tiền guỉ %/th Lãi suất tiền vay Vốn LĐ %/th Vốn CĐ %/th Nợ qúa hạn %/th 85/NH-QĐ 5/2/1988 0,9 - 1,5 1,8 - 6,0 1,5 - 4,0 18 42/NH-QĐ 15/4/1989 4,0 - 5,8 6,0 - 6,5 5,95- 6,5 18 73/NH-QĐ 31/5/1989 2,7 - 4,0 4,8 - 5,5 4,5 - 5,3 8 100/NH-QĐ 12/7/1989 1,8 - 3,0 2,1 - 4,0 3,3 - 3,8 6 09/NH-QĐ 9/2/1990 1,2 - 2,4 2,5 - 3,6 2,6 - 3,5 6 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước 3. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng đơn vị: %/tháng STT Số Quyết định Ngày ra Quyết định Lãi suất tiền gửi Lãi suất cho vay Lãi suất nợ qúa hạn 27/NH-QĐ 13/5/1988 1,5 - 1,8 1,5 15 50/NH-QĐ 19/4/1989 4,0 - 5,8 5,9 - 6,09 15 76/NH-QĐ 8/6/1989 2,7 - 4,0 4,2 - 4,5 8 101/NH-QĐ 12/7/1989 1,8 - 3,0 3,05 - 3,3 6 10/NH-QĐ 9/2/1990 1,2 - 2,1 2,1 - 3,0 6 19/NH-QĐ 29/3/1990 0,9 - 1,5 1,5 - 2,4 5 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam được chia thành hai cấp là Ngân hàng Nhà nước và các NHTM quốc doanh. Do hệ thống ngân hàng được chia thành hai cấp cho nên xuất hiện thêm loại lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng khác. Lần đầu tiền lãi suất này được hình thành theo Quyết định số 27/NH-QĐ ngày 13/5/1988. Trong suốt thời gian này, mức lãi suất đã được điều chỉnh nhiều lần theo các Quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng Thông thường, mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước áp dụng đối với các tổ chức tín dụng rất sát với lãi suất của các tổ chức tín dụng áp dụng đối với các tổ chức kinh tế đặc biệt là lãi suất tiền gửi trong đó lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước cao hơn so với lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Nhìn chung, trong thời kỳ 1986 - 1990 thì những sự thay đổi của chính sách lãi suất có những ưu và nhược điểm sau: A. Ưu điểm Trong thời kỳ này, để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường đã hình thành các loại lãi suất mới như lãi suất cho vay thiếu hụt cán cân thanh toán bù trừ, lãi suất cho vay giữa các ngân hàng... để có thể triển khai các nghiệp vụ mới của ngân hàng. Chính sách lãi suất có sự thể hiện xu hướng tự do hoá lãi suất và thu hẹp dần số lượng mức lãi suất quy định. Các mức lãi suất đã điều chỉnh nhiều nên cũng phản ánh được phần nào những sự biến động của giá cả trên thị trường. B. Nhược điểm: Chính sách lãi suất có sự thể hiện xu hướng tự do hoá lãi suất nhưng được xây dựng hợp lý và vẫn còn dựa trên số liệu cũ và theo kinh nghiệm truyền thống nên có những lúc lãi suất quá cao hay quá thấp. Trong suốt thời gian này tất cả các mức lãi suất ngân hàng đều thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ lạm phát, lãi suất luôn ở tình trạng “thực âm” tức là mức lãi suất cho vay nhỏ hơn nhiều so với lãi suất huy động tiết kiệm Chính sách lãi suất chưa phát huy được vai trò chính đó là thúc đẩy tăng trưỏgn kinh tế, kiểm chế lạm phát và tác động tốt đến hoạt động của các tổ chức tín dụng. II. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 đến nay A. Chính sách lãi suất thời kỳ 1990 - 1996 Trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường cho nên đã xuất hiện nhiều tổ chức tín dụng mới như ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tìa chính... để theo kịp sự phát triển chung của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất thường xuyên hơn và cũng hình thành nên nhiều loaih lãi suất mới phục vụ cho các nghiệp vụ tín dụng mới. 1. Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế và dân cư a. Lãi suất nội tệ Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực thi hành, một số ngân hàng thương mai cổ phần, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính... được phép thành lập. Ngày 11/7/1991 Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 94/NH-QĐ quy định lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh là 6% tháng, lãi suất huy động tối đa là 2%/tháng. Mức lãi suất dương cho một số đối tượng bắt đầu được áp dụng từ ngày 30/10/1991 theo Quyết định số 202/NH-QĐ. Kể từ ngày 15/11/1991 mức lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Bước sang năm 1992, hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng đã được củng cố và nâng cao hiệu quả, tuy nhiên, có sự khác biệt so với các Quyết định về lãi suất trước đây đó là: mức lãi suất tiền gửi được quy định với các mức lãi suất cụ thể, lãi suất cho vay chỉ quy định mức tối đa với cho vay ngắn hạn.(xem phụ lục a1) Kể từ tháng 10/1993, sau khi Ngân hàng Nhà nước bắt đầu thực hiện chính sách khung lãi suất tức là chỉ quy định lãi suất trần vho vay tối đa và sàn lãi suất tiền gửi tối thiểu và hoạt động tiền tệ bắt đầu đi sâu vào quỹ đạo cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ngày 28/4/1994 Ngân hàng Nhà nước cho vay ngắn hạn là 2,1% và 1,7% đối với vay trung và dài hạn. Đến ngày 28/2/1995 Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 381/QĐ-NH để điều chỉnh lãi suất. Theo Quyết định này, Ngân hàng Nhà nước chỉ còn quy định mức lãi suất tối đa đối với cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn và kèm theo quy định về khoảng cách chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn không quá 0,35%. Đến ngày 16/7/1996 mức lãi suất cho vay tối đa lại được giảm do đồng tiền Việt Nam dần dần ổn định và lãi suất cho vay dài hạn đã cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn. Từ ngày 2/9/1996 đến ngày 1/10/1996 thì mức lãi suất cho vay tối đa được giảm tiếp. Như vậy, từ đầu năm 1996 các NHTM đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép quyết định mức lãi suất phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường. b. Lãi suất ngoại tệ Thời kỳ trước đây, ngân hàng ngoại thương là ngân hàng độc quyền việc nhận tiền gửi và cho vay ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các quy định về lãi suất đều do ngân hàng ngoại thương đệ trình Thống đốc phê duyệt. Trong giai đoạn hiện nay, ngày càng có nhiều ngân hàng thương mại được phép Ngân hàng Nhà nước kinh doanh ngoại tệ cho nên đã xuất hiện nhu cầu quản lý lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ của các tổ chức tín dụng từ phía Ngân hàng Nhà nước (xem phụ lục a2). Tháng 12/1993 Ngân hàng Nhà nước đã bác bỏ việc quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Kể từ đó đến nay, Ngân hàng Nhà nước chỉ còn khống chế các mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, mức lãi suất cho vay tối đa ngày càng được điều chỉnh tăng lên để thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước. 2. Lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng khác a. Lãi suất nội tệ Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 176/NH-QĐ ngày 4/10/1991 về lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ. Kể từ năm 1992, Ngân hàng Nhà nước tiến hành mở rộng các hình thức cho vay cũ đồng thời tiến hành các hình thức cho vay mới đó là cho vay tái cấp vốn đôí với các tổ chức tín dụng (diễn biến lãi suất của quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng được thể hiện trong bảng b1). Trong thời gian này, mức lãi suất cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn được áp dụng khác nhau đối với từng NHTM quốc doanh, mức lãi suất đối với ngân hàng nông nghiệp là 1,6%/tháng, ngân hàng ngoại thương là 2,8%/tháng. Tuy nhiên thì sự phân biệt trên có xu hướng giảm dần từ thán 10/1993 lãi suất này được áp dụng thống nhất đối với ngân hàng thương mại quốc doanh. Từ thán 11/1994 Ngân hàng Nhà nước đã chấm dứt cho vay để bổ sung nguồn vốn ngắn hạn, thay vào đó Ngân hàng Nhà nước tiến hành cho vay theo đối tượng chỉ định với mức lãi suất do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định từng lần. Từ tháng 4 đến tháng 9/1993, lãi suất cho vay tái chiết khấu hoàn toàn khác nhau ở mỗi NHTM. Tuy nhiên, chúng có xu hướng lại gần nhau và từ ngày 5/4/1995 đã xoá bỏ lãi suất cho vay tái cấp vốn giữa các ngân hàng. Lãi suất cho vay thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ đã giảm nhiều so với giai đoạn trước, ít biến động trong giai đoạn này và ngay tư đầu đã được áp dụng thống nhất đối với tất cả các ngân hàng. Đầu năm 1996 chuyển từ lãi suất cho vay trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng sang lãi suất tái chiết khấu. Mức lãi suất suất tái chiết khấu sẽ được tăng hay giảm trong từng thời kỳ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước. b. Lãi suất ngoại tệ Từ 1/6/1992 đến nay Ngân hàng Nhà nước đã ra nhiều quyết định để điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng (phụ lục b2). Trong thời gian này chủ trương của Ngân hàng Nhà nước là không tiến hành cho vay ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại từ những trường hợp thiếu hụt ngoại tệ trong quá trình thanh toán. Lãi suất tiền gửi ngoại tệ kể từ năm 1983 trở lại đây được điều chỉnh tăng dần để thực hiện chủ trương rút ngắn khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ. 3. Lãi suất vay giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Kể từ tháng 6/1993 khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng ra đời thì mới phát sinh ra loại lãi suất giữa các tổ chức tín dụng với nhau. Theo Quyết định số 130/QĐ-NH1 ngày 1/7/1993 Ngân hàng Nhà nước quy định các thành viên trên thị trường liên ngân hàng cho vay lẫn nhau theo lãi suất thoả thuận với mức tối đa là 2,3%/tháng. Nếu đó là nguồn vốn huy động kỳ phiếu thì lãi bằng lãi suất huy động + lệ phí ngân hàng 0,3%/tháng. B. Chính sách lãi suất từ đầu 1996 đến nay Kể từ đầu năm 1996, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra nhiều quyết định quan trọng về lãi suất nhằm từng bước tự do hoá lãi suất theo cơ chế thị trường. Tiến trình tự do hoá lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước thiết kế như sau: Từ chỗ Ngân hàng Nhà nước quy định toàn bộ mức lãi suất cho các tổ chức tín dụng tiến đến chỉ quy định một số mức lãi suất cơ bản như mức lãi suất tiền gửi, tiền vay bình quân và quy định mức chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra ở cc tổ chức tín dụng. Trên cơ sở các mức lãi suất cơ bản đó, các tổ chức tín dụng có thể tự xác định mức lãi suất cụ thể sao cho phù hợp và có tính cạnh tranh. Thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ và lãi suất đồng Việt Nam bởi vì nếu như khoảng cách này quá xa sẽ tạo ra khe hở để cho các doanh nghiệp lợi dụng. Điều chỉnh để cho mức lãi suất ngắn hạn không còn cao hơn so với lãi suất dài hạn như trước đây Hình thành lãi suất trần để mở rộng phạm vi tự do cho các tổ chức tín dụng tự xác định lãi suất. Cho đến thời điểm này thì Ngân hàng Nhà nước đã xoá bỏ khuing lãi suất mà chỉ công bố mức lãi suất cơ bản kèm theo đó là biên độ 0,35% để cho các ngân hàng lấy đó làm cơ sở để đưa ra mức lãi suất phù hợp và có tính cạnh tranh. Chuyển từ lãi suất cho vay trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng sang lãi suất tái chiết khấu. Quyết định hạ lãi suất lần này nhằm làm giảm lãi suất cho vay ngắn hạn từ 2,1 xuống 1,75%/tháng trong khi mức lãi suất cho vay trung và dài hạn vẫn khống chế ở mức tối đa như cũ là 1,7% / tháng. Đồng thời, mức chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra bình quân cũng được cắt giảm xuống còn 0,35% thay vì 0,7% như trước đây. Nguyên nhân của sự cắt giảm này gồm có 0,15% thuế doanh thu của doanh nghiệp (ngân hàng) đã được bãi bỏ và 0,2% do Ngân hàng Nhà nước thúc đẩy các tổ chức tín dụng phải giảm chi phí nghiệp vụ và lợi nhuận kinh doanh. Những sự thay đổi lớn trong chính sách lãi suất được khởi đầu vào ngày 1/1/1996 vf ngay sau đó mức lãi suất đã được hạ xuống còn 2,1% - 1,75%/tháng kèm theo quy định khoảng cách chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động không quá 0,35%. Đến ngày 16/7/1996, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 191/QSS-NH1 về việc hạ lá trần cho vay bằng tiền đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế và dân cư. Theo Quyết định này, mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn được giảm từ 1,75%/tháng xuống còn 1,6%/tháng, trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn nông thôn từ 2% giảm xuống còn 1,8%/tháng vf trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay đối với các thành viên từ 2,5 xuống còn 2,2%/tháng. Sau đó, ngày 1/9/1996 Ngân hàng Nhà nước lại quyết định hạ mức lãi suất xuống còn 1,5%/tháng đối với lãi suất cho vay ngắn hạn; 1,55%/ tháng đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn và đồng thời vẫn giữ mức quy định chênh lệch tiền vay và tiền gửi là 0,35%/tháng. Ngày 1/10/1996 Ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định tiếp tục hạ các mức lãi suất cho vay. Mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tối đa giảm 0,25% còn ở mức 1,25%/tháng, lãi suất cho vay trung và dài hạn giảm 0,2% xuống còn ở mức 1,5%/tháng, lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hạ 0,3% còn ở mức 1,8%/tháng. Sau một thời gian dài, Ngân hàng Nhà nước xây dựng khung lãi suất quy định mức trần lãi suất cho vay tối đa và sàn lãi suất tiền gửi tối thiểu (10/1993) thì kể từ 8/2000 đến nay Ngân hàng Nhà nước đã xoá bỏ khung lãi suất mà chỉ quy định mức lãi suất cơ bản cho tất cả các tổ chức tín dụng cũng như các định chế tài chính khác ở Việt Nam. Kể từ ngày 1/11/2001 thì mức lãi suất cơ bản là 0,6%/tháng, so với tháng 10/2001 thì lãi suất cơ bản không thay đổi, các biên độ lãi suất (o,3% đối với cho vay ngắn hạn, o,5% đối với cho vay trung và dài hạn) tiếp tục được giữ nguyên kể từ khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc công bố lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000. Theo sự đánh giá của các nhà quản trị ngân hàng thì mức lãi suất cơ bản theo Quyết định số 1351 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được coi là phù hợp trong điều kiện chỉ số giá cả tháng 10 không tăng so với tháng 9/2000 và chỉ số giá cả 10 tháng đang ở mức âm 0,4%. Nguồn: “Diễn đàn doanh nghiệp số 12 ngày 28/3/1996” III. Những thành tựu và hạn chế của chính sách tiền tệ từ năm 1990 đến nay 1. Những mặt tích cực của chính sách lãi suất Từ tháng 10 năm 1991 trong Quyết định số 202/ NH-QĐ Ngân hàng Nhà nước mới áp dụng được nguyên tắc lãi suất tiền vay lớn hơn lãi suất tiề gửi, đã xoá bỏ cơ bản sự phân biệt trong chính sách và lãi suất giữa các loại hình sở hữu, các ngành nghề khác nhau của nền kinh tế bằng việc quy định chung mức lãi suất theo phương thức tối đa và tối thiểu, tạo điều kiện cho các ngân hàng điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thị trường tín dụng. Từ tháng 10/1993, Ngân hàng Nhà nước đã bắt đầu thực hiện chính sách khung lãi suất (tức là chỉ quy định lãi suất trần cho vay tối đa và sàn lãi suất tiề gửi tối thiểu. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được huy động vốn theo hình thức kỳ phiếu và thực hiện cho vay từ nguồn vốn đó theo mức lãi suất thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng Nhà nước đã xoá bỏ dần mức chênh lệch lãi suất tiền gửi tiết kiệm và lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng bằng các quyết định tăng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế tại các ngân hàng thương mại trong năm 1995 giảm dần sự chênh lệch giữa lãi suất đồng nội tệ và lãi suất đồng ngoại tệ. Từ 1/1/1996, Ngân hàng Nhà nước đã chuyển sang phương thức quản lý lãi suất hoàn toàn mới với Quyết định số 391/QĐ-NHNN1 và các Quyết định sau đó đã đạt được những bước tiến lớn về quản lý điều hành lãi suất, khắc phục được một số nhược điểm của một số Quyết định trước đó như: Về quản lý trần lãi suất: trước đây còn nhiều trần và còn duy trì lãi suất thoả thuận nay còn là một số trần cơ bản, lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất cho vay đối với địa bàn nông thôn và lãi suất huy động cho vay thoả thuận. Quyết định số 381 đã cải thiện được phần nào mối quan hệ giữa lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất cho vay dài hạn mà một thơì gian daì trước đây tồn tại như một bất hợp lý khi mà lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay trung và dài hạn. Ngân hàng Nhà nước đã quy định mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy đồng là 0,35%/tháng đã được các ngân hàng thương mại phải tính toán chặt chẽ và tiết kiệm hơn chi phí hoạt động và nân cao tính cạnh tranh. Từ tháng 7/1996 đã thực hiện lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn so với lãi suất tín dụng ngắn hạn đồng thời tạo điều kiênj cho các ngân hàng thương mại chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường, theo quan hệ cung cầu về vốn và phù hợp với quy mô hoạt động của từng ngân hàng. Một trong những thành công lớn của chính sách lãi suất đã đem lại cho nền kinh tế kể từ tháng 8/2000 là việc Ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam.Mức lãi suất cơ bản được công bố chính thức phải dựa trên sự tham khảo về lãi suất cho vay của 9 ngân hàng thương mại (bao gồm 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 2 ngân hàng thương mại cổ phần, 2 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh) đồng thời cũng phải dựa vào sự tham khảo mức lãi suất nội tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc, mục tiêu của chính sách tiền tệ, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. 2. Những hạn chế của chính sách lãi suất. Từ năm 1990 - 1993, viêch hoạch định chính sách lãi suất vẫn còn mò mẫm chưa dựa trên sự tính toán khoa học dẫn đến việc áp dụng vào thực tế hết sức khó khăn và máy móc. Đến năm 1993, mức lãi suất cho vay quá cao và lãi suất cho vay dài hạn vẫn nhỏ hơn so vơi mức lãi suất ngắn hạn, biểu lãi suất phân chia có nhiều mức và ở giai đoạn đầu có đến 30 mức lãi suất khác nhau. Kể từ năm 1996 đến nay, khi Quyết định 381 ra đời lúc đó mặt bằng lãi suất tiền gửi, tiền vay, tỷ trọng vốn huy động theo lãi suất thoả thuận còn hạn chế nhưng nguồn vốn huy đồng bằng kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng thương mại ở mức lãi suất 26% / năm (2,1%/tháng) với khối lượng lớn và thời hạn dài còn tồn tại đến hết tháng 9/1996 mới hết hạn vì vậy khi điều chỉnh mức trần cho vay từ 2,1%/tháng xuống còn 1,75%/ tháng (một biên độ khá lớn 0,35%) cộng thêm với điều kiện về kết cấu nguồn vốn huy động và quy mô hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại khác nhau nên các ngân hàng thương mại đều gặp phải những khó khăn khác nhau về xử lý mặt bằng lãi suất. Quyết định hạ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đưa ra đúng vào thời điểm mà các ngân hàng thương mại đang rơi vào tình trạng “bí” đầu ra, hơn nữa, với tỷ lệ chênh lệch 0,35% (giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra bình quân) đã làm cho các ngân hàng thương mại cổ phần, các ngân hàng có quy mô nhỏ gặp nhiều khó khăn Chính sách lãi suất vẫn còn mang tính chính sách xã hội nên ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại, chưa xem xét đến mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng gặp phải trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trong suốt một thời gian dài vẫn tồn tại chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ và gây khó khăn trong việc thu hút các nguồn vốn ngoại tệ từ lưu thông về, tạo trục trặc cho những người vay vốn ngoại tệ từ ngân hàng. Mặc dù từ sau ngày 17/6/1996 đã áp dụng chính sách lãi suất cho vay vốn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất cho vay vốn ngắn hạn song chính sách lãi suất đã không chú trọng đến cơ cấu nguồn vố, chưa bám sát với tình hình của nền kinh tế, chưa đưa ra được mức khống chế điều chỉnh linh hoạt để giúp cho các tổ chức tín dụng giải quyết tốt nguồn vốn trung và dài hạn. Chương III. Một số giải pháp đối với chính sách lãi suất ở nước ta hiện nay Các giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế hoạt động của các tổ chức tín dụng là một yêu cầu bức xúc, là đòi hỏi của nền kinh tế. Nhưng mục tiêu, bước đi, giải pháp mới như thế nào cần phải được cân nhắc và có cơ sở khoa học. Cơ sở quan trọng nhất là nhận thức cho đúng vị trí, đặc thù và xu thế phát triển của các tổ chức tín dụng trên thế giới và trong khu vực. Đánh giá đúng điều này sẽ tránh cho công cuộc đổi mới khỏi vấp phải những sai lầm không đáng có, nhất là đối với một nước mới chuyển sang cơ chế thị trường có những đặc thù riền như ở nước ta. Từ thực tế sử dụng chính sách lãi suất thời gian qua, ta đã đúc rút được ít nhiều kinh nghiêm đặc biệt là trong năm 1996. Tuy đã đạt được những tiến bộ đáng kể song chính sách lãi suất vẫn còn nhiều hạn chế, mâu thuẫn và bế tắc. Do vậy trong thời gian tới, để hoàn thiện chính sách lãi suất trong điều kiện ở nước ta Ngân hàng Nhà nước cần phải nâng dần tính chất gián tiếp trong việc sử dụng chính sách lãi suất, bảo đảm tính mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với chỉ số lạm phát thực tế, theo kịp và làm chủ được các quá trình biến động của thị trường. Cụ thể như sau: Chính sách lãi suất cần khuyến khích thu hút được nguồn vốn trung và dài hạn, phải thực hiện lãi suất cho vay dài hạn lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, về lâu dài thì mục tiêu của giải pháp lớn nhất là tiến tới tự do hoá lãi suất, tạo môi trường bình đẳng cho các tổ chức tín dụng hoạt động, nhưng đây cũng là 1 giải ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0892.doc
Tài liệu liên quan