LỜI MỞ ĐẦU 03
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT 04
I. KHÁI NIỆM LÃI SUẤT 04
1. Khái niệm 04
2. Đặc điểm 04
II. CÁC LOẠI HÌNH LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT 05
1. Các loại hình lãi suất 05
2. Các loại chính sách lãi suất 05
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT 06
1. Mức lạm phát kỳ vọng 06
2. Đầu tư 07
3. Thuế thu nhập 07
4. Ngân sách của chính phủ 07
5. Các yếu tố khác của đời sống xã hội 08
IV. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ 08
1 Vai trò Vĩ mô 08
2 Vai trò Vi mô 10
CHƯƠNG II. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 11
1. Thực trạng chính sách lãi suất và diễn biến lãi suất tại Việt Nam thời kỳ từ năm 2000 đến nay 11
2. Sự ảnh hưởng của chính sách lãi suất tới nền kinh tế thị trường Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay 14
3. Dự báo ảnh hưởng và thay đổi của chính sách lãi suất tới nền kinh tế thị trường Việt Nam sau khi gia nhập WTO 17
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI 18
I. GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VÀ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 18
1. Hoàn thiện cơ chế tự do hoá lãi suất bằng VNĐ 19
2. Nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất 20
II. GIẢI PHÁP TẠO ĐIỀU KIỆN VÀ CƠ SỞ CHO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT 22
III. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM 22
1. Từ thất bại của Hàn Quốc từ năm 1988 23
2. Bài học đối với Việt Nam 24
KẾT LUẬN
24 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế thị trường giai đoạn từ năm 2000 đến nay tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề đời sống xã hội khác như: sự đa dạng của các công cụ tài chính, sự thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế tài chính trung gian, hiệu suất sử dụng vốn trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ và sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế, và cả các biến động về kinh tế, chính trị,... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất.
IV. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ
Lãi suất là một trong những biến số được quan tâm chặt chẽ nhất trong nền kinh tế,bởi lãi suất không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi chúng ta mà còn là một chỉ số đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của lãi suất qua 2 nội dung là vai trò vĩ mô và vai trò vi mô:
1. Vai trò Vĩ mô:
Đối với Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Sự biến động của lãi suất trong quá trình điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế như đầu tư,tiêu dùng ,tiết kiệm,tỷ giá…qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật,miễn là họ có phương tiện thanh toán.Vì vậy bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền tức lãi suất, Ngân hàng Nhà nước ở bất kì quốc gia nào cũng có thể chi phối dược sự tăng trưởng nền kinh tế. Bằng cách tăng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể làm yếu đi khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại và do đó thực hiện chính sách tiền tệ, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát triển hay đẩy mạnh phát triển một ngành nào đó,Ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay mở rộng đầu tư ở ngành này.
Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất tín dụng còn đóng vai trò tích cực trong kìm chế lạm phát. Tháng 3 năm 1989, Việt Nam chủ trương áp dụng chế độ siêu lãi suất tiền gửi đã nhanh chóng đem lại kết quả là chặn đứng lạm phát: từ 7% trong tháng 1; 9,2% trong tháng 2 đã giảm xuống 4,5% trong tháng 3; 3,5% trong tháng 4 và tiếp tục giảm trong những tháng sau. Điều này khẳng định sức mạnh của công cụ lãi suất trong điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô dù có gây nên hiệu ứng tiêu cực đến hoạt động kinh tế. Từ năm 1989 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh nền kinh tế ở Việt Nam. Sau khi đã kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ ổn định, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,khôi phục kinh tế.
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản suất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung ứng tiền tệ, thu hẹp đầu tư và kiềm chế lạm phát.
Thực hiện vai trò đòn bẩy kinh tế, lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu kinh tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng tín dụng và thanh toán là công cụ của nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào các loại sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay vào công nghệ hiện đại trong thời đại hiện nay. Như vậy, có thể coi lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sác tiền tệ. Nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt là lượng tiền cung ứng của các ngân hàng vào lưu thông vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng.Việc mở rộng khung lãi suất, hoặc tăng trần lãi suất đối với cơ chế điều hành lãi suất cũ hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng tiền trong lưu thông và ngược lại.
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó tới đầu tư,tiết kiệm. Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm, nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô tiết kiệm của nhân dân. Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng càng lớn.Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi suất dương,nó sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì nó có khả năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên, ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài chính.
Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản vốn nhàn rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
2. Vai trò vi mô
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn) điều này thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài chính của ngân hàng kinh doanh và TCTD là huy động vốn để cho vay. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ thu lãi của người vay. Ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các TCTD.Thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối đa về lãi suất cho vay và mức độ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm đảm bảo các lợi ích cho người gửi, người vay và ngân hàng kinh doanh có khả năng bù đắp chi phí và một phần rủi ro nếu có. Trong kinh tế thị trường, do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…. Đứng vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều khồng đơn giản. Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều phải đổi mới phương thức phục vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các TCTD khác cũng cần phấn đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hut được nhiều khách hàng đến mở tài khoản và vay vốn.
CHƯƠNG II.
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ DIỄN BIẾN LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM THỜI KỲ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
Trước đây NHNN ấn định một trần lãi suất cho vay, ví dụ như trần 0.85%/tháng vào thời điểm trước tháng 8/2000. Thực tế là trong năm 1999, các NHTM đã không theo kịp đợt hạ trần lãi suất của NHNN , và kết quả là lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần.
Tháng 8/2000, NHNN thay thế cơ chế lãi suất trần bằng một cơ chế lãi suất mới, đó là áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản, nhìn chung cũng gần giống với cơ chế lãi suất trần trước đây. Tuy nhiên thì lãi suất cơ bản cộng biên độ cao hơn lãi suất trần trước đây rất nhiều, đây là cơ sở để các Ngân hàng thoả thuận lãi suất với khách hàng. Có nghĩa là các Ngân hàng bắt đầu xây dựng lãi suất dựa trên sự thoả thuận với khách hàng. Theo cơ chế lãi suất này, lãi suất cho vay của đồng nội tệ của Ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Các Ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0.3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0.5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn.
Lãi suất cho vay của các Ngân hàng luôn cao hơn mức lãi suất cơ bản nhưng biến động theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm song lãi suất tiền gửi lại tăng lên trong thời gian này. Cạnh tranh giữa các Ngân hàng làm giảm đi rõ rệt chệnh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
Đến tháng 11/2001, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá, cho phép người đi vay có thể thương lượng lãi suất với Ngân hàng cho vay. Từ ngày 1/6/2002, NHNN thay cơ chế điều hành lãi suất đồng Việt Nam thông qua lãi suất cơ bản và biên độ bằng việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Theo đó, các TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Có thể nói, đó là bước tiến quan trọng trong quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Để định hướng lãi suất thị trường, từ tháng 3/2003, NHNN đã bước đầu hình thành khung lãi suất với lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần theo hướng làm lãi suất trần, lãi suất chiết khấu được quy định theo hướng làm lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng; đồng thời áp dụng phân bổ hạn mức chiết khấu. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu.
Quá trình đổi mới kiểm soát lãi suất nền kinh tế từ cơ chế lãi suất trần sang cơ chế lãi suất thỏa thuận (thực chất là tự do hóa lãi suất) là những bước đi rất thận trọng và đến nay đã đạt được một số thành công nhất định.
Tuy nhiên, trong thực tế, các lãi suất do NHNN công bố chưa có tác động hiệu quả đến lãi suất thị trường bởi các nguyên nhân chủ yếu sau: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn thấp kém, chưa phát triển, diễn biến lãi suất chưa phản ánh xác thực tương quan cung – cầu trên thị trường, chưa có lãi suất chuẩn trên thị trường tiền tệ; NHNN chưa có cơ chế nắm bắt đầy đủ và kịp thời diễn biến lãi suất liên ngân hàng; việc tiếp cận các nghiệp vụ hỗ trợ vốn từ NHNN, nhất là nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ chiết khấu còn hạn chế; NHNN còn chưa xác định rõ cơ chế chuyển tải chính sách tiền tệ bao gồm cả việc xác định mục tiêu hoạt động và mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ (NHNN cùng một lúc theo đuổi nhiều mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ như tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ, an toàn hệ thống).
Đồng thời để hỗ trợ cho việc tự do hóa lãi suất, NHNN đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, cũng như cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn ngoại tệ có hạn chế, mở rộng thực hiện thí điểm các giao dịch hoán đổi giá cả hàng hóa. Ngoài ra, khi có yêu cầu, NHNN vẫn xem xét, cho phép các NHTM thực hiện thí điểm từng trường hợp cụ thể đối với các giao dịch phát sinh khác. Các biện pháp hỗ trợ này đã góp phần tạo điều kiện để các NHTM đa dạng hóa các sản phẩm, hạn chế và phòng chống rủi ro phục vụ khách hàng.
Kể từ năm 2004, do sự biến động theo chiều hướng tăng mạnh của giá nguyên vật liệu trên thế giới khiến chi phí sản xuất tăng lên làm cho giá cả tăng nhanh chóng, mức tăng lãi suất không theo kịp để bù đắp cho lạm phát. Cho đến hết năm 2005 thì lãi suất thức tế đều bị âm. Lạm phát gia tăng ở nhiều nước. Việc Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (FED) đẩy lãi suất lên cao cũng ảnh hướng trực tiếp tới tình hình lãi suất tại Việt Nam.
Năm
Lãi suất cho vay (%/năm)
Lạm phát (%/năm)
Lãi suất cho vay thực tế (%/năm)
Tỷ lệ LSCVTT/TP (%)
2001
9.0
0.8
8.2
1052.0
2002
9.2
4.0
5.2
130.0
2003
9.6
3.0
6.6
220.0
2004
10.0
9.5
0.5
5.2
2005
-
-
-
-
Bảng 1: Tình hình lãi suất cho vay qua các năm(2001-2005).
Năm
Lãi suất huy động (%/năm)
Lạm phát (%/năm)
Lãi suất huy động thực tế (%/năm)
Tỷ lệ LSHĐTT/TP (%)
2001
5.4
0.8
4.6
575.0
2002
6.0
4.0
3.0
50.0
2003
6.2
3.0
3.2
106.6
2004
6.2
9.5
-3.3
-34.74
2005
-
-
-
-
Bảng 2: Tình hình lãi suất huy động qua các năm(2001-2005).
Trước tình hình năm 2004-2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng, NHNN chủ trương ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, sử dụng chính sách dữ trữ bắt buộc để kiềm chế lạm phát.
Loại lãi suất
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
Lãi suất cơ bản
0,65%/tháng (7,8%/năm)
1426/QĐ-NHNN ngày 30/9/2005
01/10/2005
Lãi suất tái cấp vốn
6,00%/năm
316/QĐ-NHNN ngày 25/3/2005
01/04/2005
Lãi suất chiết khấu
4,00%/năm
316/QĐ-NHNN ngày 25/3/2005
01/04/2005
Bảng 3: Mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước áp dụng với các NHTM.
Tám tháng đầu năm 2006, lãi suất cơ bản tiền đồng vừa được Ngân hàng nhà nước (NHNN) công bố là 8,25%/năm, cũng là mức đã được duy trì từ tháng 12-2005. Trong khi đó, trên thị trường, lãi suất huy động bình quân hiện đã lên khoảng 9,2%/năm.
Như vậy, với mức lãi suất cơ bản đã được tăng lên 8,25%/năm, tức 0,6875%/tháng thì lãi suất cho vay không được vượt quá 1,1%/tháng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Nếu đối chiếu với lãi suất cho vay để sản xuất kinh doanh hay các hợp đồng dân sự hiện nay, con số này quá xa rời thực tế.
Ở hầu hết các nước, lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở thị trường và được coi như mức lãi suất tối thiểu để bù đắp chi phí và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng có quy định: “Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Trung ương công bố sẽ làm cơ sở cho TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng”. Nhưng hiện lãi suất cơ bản mới chỉ dừng ở vai trò định hướng của Ngân hàng nhà nước với thị trường chứ chưa đủ sức để giúp Ngân hàng nhà nước điều tiết cung cầu trên thị trường.
Lãi suất cơ bản của Việt Nam tiêu biểu cho đặc điểm của một thị trường tiền tệ chưa hoàn hảo. Lãi suất cơ bản vẫn chênh lệch lớn với lãi suất thương mại - nơi gặp gỡ giữa cung và cầu thực của thị trường. Lãi suất cơ bản cũng chưa tương thích với các công cụ tài chính khác trên thị trường như lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất trái phiếu kho bạc... Điều đó cũng cho thấy sự gắn kết giữa các loại thị trường tiền tệ với nhau cũng kém chặt chẽ, thậm chí còn mâu thuẫn.
2. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
Sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất, do sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng đã đẩy lãi suất huy động và lãi suất cho vay lên cao. Dẫn tớ việc lãi suất thực tế trong 3 năm từ năm 2001 đến năm 2003 là khá cao. Trên thực tế cho thấy lãi suất giờ đây đã phản ánh đúng hơn cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường và sẽ đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng cạnh tranh.
Nói chung, có ba ý kiến khác nhau về cơ chế lãi suất cơ bản. Ý kiến thứ nhất cho cơ chế mới không có gì khác với trần lãi suất trước đây. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Lý do là chi phí cho vay đối với các đối tượng này thường lớn nên không thể cho họ vay nếu không áp dụng lãi suất cao.
Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép (0,3%/tháng đối với vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vay dài hạn) các ngân hàng có thể định mức lãi suất cho mỗi hợp đồng tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Cạnh tranh trong hệ thống các TCTD sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nước trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đối với các doanh nghiệp nhà nước ngầm hiểu là được chính phủ bảo lãnh, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho vay với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng, trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi việc cho khu vực này vay là rủi ro hơn.
Sự cạnh tranh mở rộng quy mô Ngân hàng đẩy lãi suất lên cao, làm cho lãi suất không ổn định.
Lãi suất cơ bản hiện nay được sử dụng chỉ mang tính chất tham khảo, các công cụ chính của Ngân hàng Nhà nước sử dụng là: lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn… kết hợp với lãi suất thị trường và các công cụ tài chính khác. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho với các lãi suất khác nhau tùy theo mức độ rủi ro của khách hàng và chi phí cho vay. Các đối tượng vay như hộ kinh doanh nhỏ hay nông dân không còn bị loại ra ngoài cuộc chơi như trước đây.
Do diễn biến lạm phát năm 2004 - 2005, các Ngân hàng trên thế giới đồng loạt tăng lãi suất do sức ép của việc Cục dự trữ Liên bang Mỹ(FED) tăng lãi suất đồng ngoại tệ.
Nửa đầu năm 2006, xu thế cạnh tranh lãi suất giữa các Ngân hàng tăng mạnh dẫn tới lãi suất huy động t ăng lên nhanh chóng, hầu hết các Ngân hàng tăng lãi suất khiến thoả thuận về lãi suất trước đó giữa các Ngân hàng, các TCTD bị xoá bỏ. Trước việc tăng lãi suất huy động khá nhanh như vậy, nhiều ý kiến tỏ ra quan ngại về sự tác động của nó tới lãi suất cho vay, gây ảnh hưởng không tốt tới đầu tư sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Với mức lãi suất cơ bản đã được tăng lên 8,25%/năm, tức 0,6875%/tháng thì lãi suất cho vay không được vượt quá 1,1%/tháng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Nếu đối chiếu với lãi suất cho vay để sản xuất kinh doanh hay các hợp đồng dân sự hiện nay, con số này quá xa rời thực tế. Trong khi, ở hầu hết các nước, lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở thị trường và được coi như mức lãi suất tối thiểu để bù đắp chi phí và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng có quy định: “Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Trung ương công bố sẽ làm cơ sở cho TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng”. Nhưng hiện lãi suất cơ bản mới chỉ dừng ở vai trò định hướng của Ngân hàng nhà nước với thị trường chứ chưa đủ sức để giúp Ngân hàng nhà nước điều tiết cung cầu trên thị trường.
Lãi suất cơ bản của Việt Nam tiêu biểu cho đặc điểm của một thị trường tiền tệ chưa hoàn hảo. Lãi suất cơ bản vẫn chênh lệch lớn với lãi suất thương mại - nơi gặp gỡ giữa cung và cầu thực của thị trường. Lãi suất cơ bản cũng chưa tương thích với các công cụ tài chính khác trên thị trường như lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất trái phiếu kho bạc... Điều đó cũng cho thấy sự gắn kết giữa các loại thị trường tiền tệ với nhau cũng kém chặt chẽ, thậm chí còn mâu thuẫn.
Theo một quan chức NHNN, để hạ lãi suất xuống là không dễ. Một vài nước trước kia, chẳng hạn như Hàn Quốc sau khi áp dụng cơ chế tự do hoá lãi suất cũng gặp tình trạng lãi suất tăng khó điều chỉnh. Việt Nam cũng chỉ mới áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận mà bản chất là cho các ngân hàng tự quyết định lãi suất huy động và cho vay từ năm 2002, là một thời gian chưa dài.
Cũng theo quan chức này, nếu ở Mỹ, khi FED tăng giảm lãi suất cơ bản thì các ngân hàng phải thay đổi theo. Đơn giản là vì các công cụ chính sách tiền tệ, cơ chế truyền tải đã quá phát triển và hoàn thiện. Còn tại Việt Nam, công cụ chính sách tiền tệ còn yếu, phạm vi lẫn quy mô tác động kém, cái yếu này không hoàn toàn do NHNN mà còn do thị trường mới phát triển. Chính vì vậy mới có chuyện NHNN đưa ra động thái thu tiền vào hay bơm tiền ra, có khi mất vài tháng tới cả năm hoặc thậm chí dài hơn, thị trường mới có phản ứng với động thái đó.
Theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (NHNN) thì rủi ro lãi suất là rủi ro cơ bản dễ mắc phải của các ngân hàng hiện nay. Nó là một loạt các phản ứng dây chuyền, khi lãi suất tăng khiến chi phí huy động tăng, người đi vay cũng phải chịu chi phí cao hơn, rủi ro thất bại của dự án đầu tư cũng tăng theo và nếu quá ngưỡng sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Còn nếu ngân hàng tăng lãi suất huy động mà không tăng lãi suất cho vay thì khoảng cách lãi suất sẽ co hẹp lại, lợi nhuận giảm và không trích đủ dự phòng rủi ro cũng dẫn ngân hàng đến hậu quả tương tự khi người vay vốn gặp rủi ro.
Điều mà ông Nghĩa nêu ra đã được nhắc nhiều lần trên các diễn đàn. Nó được tô đậm thêm bởi các chuyên gia quốc tế khi họ đưa ra so sánh khoảng cách lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng Việt Nam rất thấp, chỉ khoảng trên dưới 2,5% so với các nước khác từ 3,5 đến 4%/năm. Mức chênh lệch như vậy mới có thể đảm bảo bù đắp được rủi ro.
3. DỰ BÁO ẢNH HƯỞNG VÀ THAY ĐỔI CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
Kể từ 1/4/2007, các Ngân hàng Mỹ và Ngân hàng nước ngoài khác sẽ được phép thành lập các chi nhánh 100% vốn nước ngoài. Các chi nhánh và văn phòng đại diện này sẽ được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các chi nhánh ngân hàng của Mỹ sẽ được nhận tiền gửi bằng VND không giới hạn từ các pháp nhân, được thời phát hành thẻ tín dụng.
Kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO, các công ty chứng khoán nước ngoài có thể tham gia thành lập liên doanh với số cổ phần tối đa là 49%. 5 năm sau người nước ngoài được thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và mở chi nhánh tại Việt Nam với các hoạt động như quản lý tài sản, tư vấn, dịch vụ thanh toán...
Các công ty đầu tư nước ngoài thành lập ở Việt Nam được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia (không phân biệt đối xử) trong tất cả các lĩnh vực con (sub-sector) dịch vụ tài chính.
Do vậy, xu hướng tăng lãi suất và cạnh tranh lãi suất giữa các Ngân hàng hiện nay chắc chắn sẽ tiếp tục gia tăng. Mức lãi suất cơ bản từ đó có thể cũng sẽ thay đổi đáng kể so với hiện tại… Xu hướng này có thể kích thích đầu tư tương đối song cũng có thể tạo ra các hiệu ứng không tốt cho thị trường tài chính Việt Nam, các Ngân hàng trong nước có thể sẽ không cạnh tranh được với một số các Ngân hàng nước ngoài khác dẫn tới giảm lợi nhuận.
CHƯƠNG III.
GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế là vấn đề mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hoá lãi suất đóng vai trò là hạt nhân và làm cho các nguồn tài chính lưu thông trong suốt, từ đó góp phần làm thúc đẩy kinh tế - tài chính Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay. Tuy nhiên quá trình tự do hoá lãi suất tự do hoá lãi suất ở nước ta phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần môi trường tự do hoá lãi suất.
Thứ nhất, việc tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến hành tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, các quy định khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của khách hàng tại các TCTD - một rào cản đối với quá trình tự do hoá lãi suất - đã được bãi bỏ, tuy nhiên môi trường pháp lí cho việc tự do hoá lãi suất ngoại tệ vẫn còn chồng chéo, chưa được nới lỏng, chưa thật sự thu hút người gửi tiền và người đi vay.
Thứ hai, trên thị trường nội tệ lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam không còn bị khống chế song vẫn chưa được tự do hoá. Do vậy cần hình thành và hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ song song với việc thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất thông qua lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với mức độ phát triển của thị trưòng tiền tệ.
Việc hoàn thiện cơ chế lãi suất trên thị trường tiền tệ và nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất phải được tiến hành theo hướng tác động nhanh, mạnh đến thị trường tiền tệ trong những thời điểm cần thiết hay những giai đoạn diễn biến bất lợi cho hoạt động tiền tệ đảm bảo điều tiết được thị trường tiền tệ.
I. GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VÀ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1. Hoàn thiện cơ chế tự do hoá lãi suất bằng VNĐ
Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ:
Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi quy định về cơ chế tài chính đối với các tổ chức tín dụng đồng thời tiến hành đồng bộ các biện pháp đồng bộ.
Ở tầm vĩ mô:
- Chính sách lương, thưởng cần tiến hành theo phương thức phân cấp thu thập thay vì bảo đảm tính bình quân như hiện nay nhằm thúc đẩy sự sáng tạo, nhiệt tình của các nhân viên cũng như lãnh đạo các Ngân hàng thương mại Quốc doanh.
- Thay đổi quy định về cơ chế tài chính tạo điều kiện cho các ngân hàng được chủ động trong tài chính là động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0708.doc