Tận dụng được nguồn lực trong nước: trong tất cả nguồn vốn mà một quốc gia cần như: nguồn vốn từ dân cư, vay nợ, nhập viện trợ,. thì nguồn vốn thu hút từ dân cư vẫn là quan trọng nhất. Khi chính phủ thay đổi chính sách về thuế tức là chính phủ đã thay đổi khoản thu từ các hoạt động kinh tế của mình. Tuy nhiên nó lại làm cho mình kinh tế sôi động hơn hoặc bị kìm nén hơn. Việc trao đổi mua bán sẽ nhanh chóng tăng lên hoặc giảm xuống. Cho dù chính phủ sử dụng chích sách tài khoá nhằm kích thích hay kìm hãm thì đều nhằm mục đích làm cho nguồn lực, đối tượng nói chung trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn đóng gốp vào lợi ích của quốc gia.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 22725 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tài khoá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tiêu và tăng thuế một lượng là G. Kết quả là sản lượng tăng lên một lượng tương ứng (G).
AE
0 Y* Y0 Y
Hình 1.3.3: ảnh hưởng của tăng chi tiêu và tăng thuế cùng một lượng như nhau.
1.4. Chính sách tài khoá biểu hiện như thế nào?
Chính sách tài khoá bao gồm hai công cụ là thuế và chi tiêu chính phủ giữa hai công cụ này có một mối liên hệ là chung đó là tiết kiệm chính phủ hay ngân sách chính phủ (Sg = T – G) vì vậy quá trình sử dụng chính sách chính là quá trình biến động thay đổi của ngân sách Nhà nước. Khi một nền kinh tế bị rơi vào tình trạng xấu bất ổn định ảnh hưởng tới lợi ích công cộng.
Thì chính phủ sử dụng hai công cụ này để điều tiết. Vì vậy chính sách tài khoá càng được biểu hiện rõ thông qua ngân sách khi nền kinh tế biến động.
1.5. Mỗi quan hệ giữa chính sách tài khoá và sự phát triển của nền kinh tế
Như ta đã biết chính sách tài khoá có khả năng là điều tiết nền kinh tế. Vì vậy nếu một nền kinh tế muốn vượt qua những biến động và phát triển thì phải nhờ tới hai gọng kìm của chính sách tài khoá và ngược lại khi nền kinh tế phát triển đúng quỹ đạo ít có biến động thì chính phủ sẽ sử dụng ít chính sách tài khoá và ngược lại thì nền kinh tế phát triển ít biến động thì chính phủ sẽ ít sử dụng chính sách tài khoá.
2. Giả thuyết khoa học
Giữa chính sách tài khoá và nền kinh tế có một mối quan hệ khăng khít. Chính sách taì khoá là công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Ngược lại nền kinh tế lại là môi trường chứa đựng các yếu tố cấu thành nên chính sách tài khoá cũng là nơi chính sách tài khóa phát huy tác dụng. Nếu chúng ta đưa ra được các chính tài khoá khác nhau ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập thì có thể nâng cao hoàn thiện tác dụng từ đó phát triển kinh tế xã hội một cách tốt hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phân tích, tổng hợp lý thuyết
Phân tích lý thuyết là thao tác chia tài liệu lý thuyết thành các đơn vị kiến thức để tìm hiểu những dấu hiệu đặc thù, cấu trúc bên trong của lý thuyết. Từ đó mà nắm vững bản chất của từng đơn vị kiến thức và toàn bộ vấn đề nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích, cần phải tổng hợp kiến thức để tạo ra hệ thống, để thấy được mối quan hệ giữa chúng, từ đó mà hiểu đầy đủ, toàn diện, sâu sắc lý thuyết.
3.2. Quan sát khoa học
Quan sát khoa học là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở tri giác trực tiếp chúng. Quan sát là một trong những hình thức chủ yếu của nhận thức kinh nghiệm, để tạo ra những thông tin ban đầu. Phương pháp quan sát được sử dụng trong 2 trường hợp:
- Phát hiện ra bản chất của sự vật, sự việc, hiện tượng để xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
- Kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
Mục đích của quan sát là nhằm ghi nhận một cách đầy đủ và chuẩn xác sự vật, hiện tượng như nó vốn có.
3.3. Điều tra
Điều tra là phương pháp sử dụng một hệ thống câu hỏi để thu thập các số liệu từ đối tượng nghiên cứu.
Có 3 loại điều tra khoa học khác nhau:
- Điều tra bằng trao đổi: đây là phương pháp điều tra bằng cách nghiên cứu trực tiếp đối tượng hoặc thẩm vấn chuyên gia.
- Điều tra viết: Đây là phương pháp thu thập các thông tin, sự kiện dựa trên câu trả lời bằng văn bản của người được nghiên cứu theo một chương trình đã được thiết lập đặc biệt.
- Điều tra bằng trắc nghiệm: là phương pháp được tiêu chuẩn hoá dùng để đo lường khách quan một hay nhiều khía cạnh của đối tượng nghiên cứu qua những mẫu trả lời bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ hoặc bằng những hành vi khác.
3.4. Thực nghiệm, thực tế
Thực nghiệm thực tế là phương pháp nghiên cứu có hệ thống và logíc một hiện tượng nhằm trả lời cho câu hỏi: “nếu hiện tượng hay quá trình đó được thực hiện trong những điều kiện đã được khống chế, kiểm soát cẩn thận và chủ động thì nó sẽ biểu diễn như thế nào về chiều hướng phát triển, về tính liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả?”.
Như vậy, thực nghiệm là phương pháp đặc biệt cho phép tác động lên đối tượng nghiên cứu một cách chủ động, can thiệp có ý thức vào quá trình diễn biến tự nhiên, để hướng quá trình ấy diễn ra theo mục đích mong muốn.
II. Nghiên cứu thực tiễn
Sau khi nghiên cứu cơ sở lý thuyết, lý luận của đề tài thì thu thập các tài liệu thực tiễn thông qua việc sử dụng phương pháp nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn.
1. Thực trạng của chính sách tài khoá ở Việt Nam
Trước khi gia nhập WTO Việt Nam được coi là một thị trường tiềm năng cho đầu tư và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một số quốc gia triên thế giới đặc biệt là Mỹ và Tây Âu vẫn chưa công nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường. Việt Nam tham gia thị trường còn gặp nhiều khó khăn va thiệt thòi. Nền kinh tế trong nước tuy đã có những thành công nhưng vẫn đang nằm trong những nước có nguy cơ tụt hậu. Các chính sách của chính phủ nhằm điều tiết nền kinh tế trong đó có chính sách tài khóa tỏ ra vẫn chưa phát huy đầy đủ toàn diện trong nền kinh tế. Hai công cụ của chính sách tài khoá là thuế và chi tiêu chính phủ còn có nhiều vướng mắc. Thuế ở Việt Nam đang trong tình trạng chưa hoàn chỉnh về luật còn có nhiều vướng mắc, lỗ hổng. Trong khi đó chi tiêu chính phủ thì chưa đúng đắn, thiếu hợp lý, hiệu quả không cao.
Ngày 7/11/2006 đánh dấu một bước ngoặt của nền kinh tế Việt Nam khi Việt Nam được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Đây là sự kiện tạo động lực cũng như điều kiện cho nước ta phát triển kinh tế tạo môt trường công bằng khi tham gia vào thị trương quốc tế. Như chúng ta đều biết khi gia nhập WTO thì hạn ngạch thuế quan đều giảm, đối với Việt Nam cũng vậy các mặt hàng của các thành viên khác đều đã có cơ chế giảm thuế xuất nhập khẩu cũng như thuế tiêu thụ đặc biệt. Đây là sự thay đổi đầu tiên và rõ rệt nhất của chính tài khoá của Việt Nam. Ngoài ra, khi gia nhập WTO thì chính phủ các thành viên cũng phải giảm các tác động của mình tới nền kinh tế đặc biệt là tình trạng trợ giá. Nó đã tạo ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế. Để có thể nắm bắt được những cơ hội cũng như vượt qua những thách thức thì chính sách chính phủ đề ra phải đúng đắn và hiệu qua hơn. Qua hơn ba năm hội nhập Việt Nam đã trải qua những thách thức cũng như những cơ hội. Năm 2009 chính sách tài khoá Việt Nam đã có dấu ấn lớn khi Quốc hội thông qua “Gói kích thích” trị giá 1 tỷ USD để kích cầu đầu tư nhằm khắc phục hậu quả kinh tế năm 2008.
1.1. Điểm mạnh thời gian qua của thực trạng chính sách tài khoá
- Dễ xác định kết quả thực hiện: như chúng ta đã biết chính sách tài khoá được dùng để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, khi mà nền kinh tế phát triển quá nóng hoặc muốn kích cầu nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy thoái. Vì tác động của chính sách tài khoá là lâu dài so với các chính sách khác của chính phủ thì chính sách tài khoá dễ xác định kết quả hơn. Theo từng năm từng quý từng tháng ta có thể thống kê được tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp... Từ đó có thể thấy được hiệu quả mà chính sách tài khoá đã tác động.
- Tăng khả năng thích nghi cho đối tượng mà chính sách tài khoá tác động: trong tình trạng theo chiều hướng xấu của nền kinh tế để có thể thay đổi được điều đó thì phải có một chính sách về thuế hoặc chi tiêu chính phủ hợp lý. Khi mà hai yếu tố này thay đổi thì ép buộc đối tượng chịu tác động mà cụ thể là: Doanh nghiệp và người tiêu dùng cũng phải thay đổi theo để thích nghi với điều đó. Chính sự thay đổi này sẽ tạo cho họ có khả năng nhận biết sự thay đổi về môi trường kinh tế từ đó tăng kinh nghiệm khi tham gia trên thị trường.
- Tận dụng được nguồn lực trong nước: trong tất cả nguồn vốn mà một quốc gia cần như: nguồn vốn từ dân cư, vay nợ, nhập viện trợ,... thì nguồn vốn thu hút từ dân cư vẫn là quan trọng nhất. Khi chính phủ thay đổi chính sách về thuế tức là chính phủ đã thay đổi khoản thu từ các hoạt động kinh tế của mình. Tuy nhiên nó lại làm cho mình kinh tế sôi động hơn hoặc bị kìm nén hơn. Việc trao đổi mua bán sẽ nhanh chóng tăng lên hoặc giảm xuống. Cho dù chính phủ sử dụng chích sách tài khoá nhằm kích thích hay kìm hãm thì đều nhằm mục đích làm cho nguồn lực, đối tượng nói chung trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn đóng gốp vào lợi ích của quốc gia.
1.2. Điểm yếu thời gian qua của chính sách tài khoá
- Khả năng phối hợp giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ thắt chặt trong khi chính sách tài khoá lại nới lỏng khiến áp lực lạm phát và lãi suất lên cao. Đó chính là lý do khiến cho các chuyên gia kinh tế cho rằng: “ngân hàng nhà nước và bộ tài chính lệch pha nhau trong công việc điều hành chính sách”. Trong thời gian qua với mực tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế nên chính sách tài khoá đã được áp dụng đặc biệt trong giai đoạn kinh tế 2000 – 2001 đây cũng là một trong những nguyên nhân gây áp lực lạm phát vào cuối năm 2003 đầu năm 2004. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ lại thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát như: tăng dự trữ bắt buôc, tăng lãi suất tái chiết khấu, tăng các lãi suất chủ đạo khác. Sự phối hợp hai chính sách chưa đồng điệu chẳng hạn để đạt được mục tiêu huy động vốn phục vụ các mục đích của chính phủ (trong đó có bù ngân sách thâm hụt) thông thường lãi suất trái phiếu thường cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại điều này làm luồng tiền vốn dịch chuyển từ phía dân cư và doanh nghiệp vào trái phiếu để hưởng lợi và đương nhiên đầu tư của khu vực kinh tế sẽ giảm. Thêm vào đó hàng năm ngân sách trung ương phải cung ứng một lượng tiền không nhỏ cho các khoản theo quy định “khản tạm ứng này phải hoàn trả trong ngân sách” nhưng thực tế nó không được trả đúng hạn dẫn tới lượng tiền cơ sở tăng và kết quả áp lực tăng lạm phát.
- Tác động của chính sách tài khoá thiếu quyết liệt: So với chính sách tiền tệ thì chính sách tài khoá còn yếu kém và hạn chế. Hai công cụ của chính sách tài khoá là thuế và chi tiêu chính phủ chưa phát huy được tác dụng đúng mức. Chi tiêu chính phủ thì vượt ngân sách dẫn đến thâm hụt. Trong khi đó thuế ở Việt Nam chưa theo kịp sự phát triển của thị trường đáng lẽ ngân sách của một quốc gia chủ yếu được hình thành từ khoản thuế thì ở Việt Nam ngân sách lại được tạo thành chủ yếu từ nguồn lợi xuất khẩu dầu mỏ. Khoản lợi đó chiếm tới 40% - 50% tổng ngân sách quốc gia. Sau khi chính sách tiền tệ phát huy tác dụng lấn áp lạm phát thì đáng lẽ chính sách tài khoá phải được nâng cao để kích thích nền kinh tế bình phục và tăng trưởng kinh tế trở lại. Nhưng do áp dụng chính sách tài khoá chưa đúng đắn nên hiện nay nước ta đang rơi vào tình trạng suy thoái sau lạm phát.
- Khả năng quản lý chính sách tài khoá của chính phủ còn kém: thất thoát trong đầu tư, tiến độ thi công của các hạng mục công trình do nhà nước đầu tư chậm... Đó là biểu hiện của việc quản lý ngân sách kém hiệu quả. Chúng ta dễ nhận thấy khi sử dụng kích cầu đầu tư có thể là chính sách hợp lý trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nếu kích cầu thông qua nới lỏng tín dụng cho các doanh nghiệp thì có thể gây ra tình trạng kinh tế tiếp tục trì trệ trong khi lạm phát có nguy cơ trở lại.
1.3. Cơ hội trong thời gian tới
Bước sang năm 2009 với những khó khắn do tình trạng suy thoái sau khủng hoảng nền kinh tế cuả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng rất khó khăn. Đây cũng là thuốc thử cho khả năng điều hành kinh tế cho chính phủ cũng như khả năng hiệu quả của các chính sách trong đó có chính sách tài khoá. Chính sách tài khoá với hai công cụ là thuế và chi tiêu chính phủ đang trở nên hữu hiệu trong công việc kích cầu đầu tư phục hồi nền kinh tế. Để có được điều đó bắt buộc chúng ta phải biết nắm chắc thời cơ, vận hội.
- Sau khủng hoảng kinh tế các doanh nghiệp các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng thắt chặt hầu bao hoặc đầu tư vào các dự án có khả năng rủi ro thấp và môi trường kinh doanh thuận lợi. Việt Nam là mọt trong những nước đáp ứng được những điều kiện trên. Với cơ chế thu hút đầu tư trong những năm gần đây khá hợp lý cộng thêm những yếu tố như: Chính trị ổn định, nguồn nhân công rẻ... Thì vốn đầu tư vào Việt Nam qua các năm tăng. Cụ thể, năm 2006 Việt Nam mới chỉ có 10,6 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2008 con số đó đã gần gấp 3 với 27,3 tỷ USD. Đó là nguồn cung ứng rất quan trọng tạo điều kiện kích thích cho nền phát triển trở lại khi mà ngân sách nhà nước có hạn.
- Khi nền kinh tế ổn định trở lại giá dầu thô trên thế giới cũng có dấu hiệu tăng trở lại đây là biểu hiện tích cực đáng mừng cho nguồn ngân sách của một nước vốn dựa vào nguồn lợi từ việc xuất khẩu dầu thô như Việt Nam. Theo số liệu thì tỷ lệ nguồn thu từ dầu mỏ trên tổng nguồn thu ngân sách nhà nước rất cao (từ 30 đến 40%). Vì vậy, khi giá dầu tăng đồng nghĩa với nguồn lợi từ lĩnh vực này cũng tăng theo. Theo ước tính nếu giá dầu giữ mức như cuối năm 2008 thì mỗi năm Việt Nam giảm 2 tỷ USD từ việc xuất khẩu dầu. Có một điều đáng ghi nhận của Việt Nam trong thời gian gần đây là việc xây dựng và cho đi vào hoạt động nhà máy lọc dầu Dung Quất. Nó sẽ giúp ngân sách giảm một phần khá lớn cho việc chi mua các sản phẩm từ dầu như: xăng...
- Khi gia nhập WTO thì uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như trong lòng người dân và doanh nghiệp trong nước có sự tăng lên đáng kể đó cũng là điều kiện nhằm thu hút những nguồn vốn nhằm phát triển kinh tế qua kênh vay nợ, nhận viện trợ. Chính uy tín tăng lên đã tạo niềm tin cho các tổ chức tín dụng quốc tế cũng như các ngân hàng quốc tế chấp nhận cho Việt Nam vay vốn với lãi suất ưu đãi. Những năm gần đây có thể thấy rõ trong những lần Việt Nam phát hành trái phiếu chính phủ thì đều nhận được sự ủng hộ của người dân và các doanh nghiệp. Đây là nguồn thu không thường xuyên khá lớn để phát triển kinh tế
Tất cả các cơ hội trên đều sẽ giảm áp lực của chi tiêu chính phủ từ đó làm giảm bội chi ngân sách, giúp Việt Nam có điều kiện để thực thi chính sách tài khoá dễ dàng.
1.2. Thách thức trong thời gian tới
- Kinh tế suy thoái các nhà đầu tư và nhà tiêu dụng siết chặt hầu bao, đầu tư giảm, đầu cơ tăng... Đó là những điểm mấu chốt mà nước ta nói riêng và thế giới nói chúng đang gặp phải. Sau khi cập nhật thống kê của tháng 11 – 2008 thì chỉ số giá trị CPI trên 20% tăng trưởng DGP là 6,5%. Như vậy đây là hai chỉ tiêu phản ánh không đúng tiềm lực kinh tế Việt Nam hiện nay. Nó là dấu hiệu rõ rệt nhất của tác động tiêu cực về suy thoái kinh tế. Khi đầu tư giảm đầu cơ tăng kéo theo đó là nguồn thu từ thuế sẽ giảm. Nguồn thu của nhà nước bấp bênh nay lại còn bị hạn chế mà nguồn thu giảm thì nguồn chi lại tăng.
- Bội chi ngân sách đó là tình trạng phổ biến mà Việt Nam gặp phải. Mặc dù nguồn thu liên tục tăng qua các năm nhưng chi tiêu chính phủ cũng tăng theo làm thâm hụt ngân sách tăng. Việt Nam là nước có thâm hụt ngân sách cao ( 7% GDP theo IMF và ADB, nếu bao gồm cả các khoản chi ngoài ngân sách). Khi thâm hụt ngân sách cao thì việc sử dụng chính sách tài khoá đặc biệt là “gói kích cầu” rất khó khăn. Đầu năm 2009 để kích cầu đầu tư Quốc hội đã thông qua “gói kích cầu” trị giá 1 tỷ USD. Đây là “gói kích cầu” lớn nhất từ trước đến nay mà Việt Nam sử dụng. Nhưng vấn đề gây trở ngại lớn nhất là tình trạng bội chi ngân sách chắc chắn sẽ tăng lên. Đó là những thách thức của việc sử dụng chính sách tài khóa.
2. Nguyên nhân và tác động của chính sách tài khoá
2.1. Tác động tích cực
2.1.1. Kích cầu trong điều kiện nền kinh tế đang rơi vào suy thoái và thất nghiệp.
Khi nền kinh tế đang lâm vào tình trạng này các hãng tư nhân không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng không muốn chi cho tiêu dùng tổng cầu lúc đó rất thấp. Lúc này để mở rộng tổng cầu chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế hoặc sử dụng cả hai biện pháp trên. Mức tiêu dùng chung của nền kinh tế sẽ được nâng cao khiến cho sản lượng tăng và mức việc làm đầy đủ sẽ được phục hồi. Trong khoảng thời gian 3 quý đầu năm 2008 Việt Nam đã rơi vào tình trạng suy thoái sau lạm phát do tình hình bất ổn và khủng hoảng của nền kinh tế thế giới. Để kích cầu trở lại chinhá phủ đã sử dụng hai gọng kìm thuế và chi tiêu chính phủ. Còn về chi tiêu chính phủ thủ tướng chính phủ đã quyết định cho 3 công ty lương thực thu mua lượng gạo còn dư trong dân nhằm giải quyết trạng thái dư cung thiếu cầu về gạo đó là công ty lương thực Miền Bắc, miền Nam, miền Trung chính phủ sẽ hỗ trợ 100% lãi suất của công việc vay vốn nhằm vào mục đích trên.
2.1.2. Kiềm chế tình trạng phát triển quá nóng của nền kinh tế
Khi nền kinh tế đang trong trạng thái phát đạt quá mức lạm phát tăng lên chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế nhờ đó chi tiêu chung giảm đi, sản lượng giảm theo và lạm phát chững lại. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay chúng ta có thể thấy được Trung Quốc đang phải sử dụng chính sách tài khoá nhằm kiềm chế tăng trưởng quá nóng vì nó có thể dẫn tới lạm phát và một số vấn đề về môi trường, an ninh xã hội... Còn ở Việt Nam trong giai đoạn gần đây khi lạm phát xảy ra chính phủ đã dùng chính sách này một cách hợp lý đặc biệt là một số mặt hành như: nhập khẩu ô tô, vàng bạc... Đối với nhập khẩu ô tô thì do tình trạng nhập khẩu ngày càng tăng dẫn tới mức tiêu dùng quá nóng. Thay vì tăng thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt thì chúng ta đã tăng lệ phí trước bạ đối với mặt hàng này từ 5% lên 10% điều này dẫn tới chi tiêu cho sản phẩm này giảm. Còn đối với mặt hàng vàng bạc để tránh tình trạng giá vàng trong nước tăng do quá vàng thế giới tăng. Một mặt thì chính phủ ra chính sách cấm nhập khẩu vàng bạc mặt khác nghiêm cấm đầu cơ sinh lợi cho bản thân.
2.2. Tác động tiêu cực của chính sách tài khoá
2.2.1. Tình trạng khó kiểm soát sau kích cầu:
Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, thất nghiệp thì để khôi phục nền kinh tế trở lại có một biện pháp khá hiệu quả đó là giảm thuế. Tuy nhiên, ta có thể thấy nếu giảm thuế thông qua nới lỏng tín dụng cho các doanh nghiệp thì có thể gây ra tình trạng kinh tế tiếp tục trì trệ trong khi lạm phát quay trở lại. Nếu giảm thuế không phù hợp thì có thể gây ra sự chênh lệch giữa các ngành nghề, các khu vực trong nền kinh tế gây ra tình trạng ngành này bóp nghẹt ngành khác. Nếu kiểm soát không khéo léo, thiếu chính xác cộng thêm pháp luật Việt Nam chưa chặt chẽ còn nhiều lỗ hổng thì sẽ gây ra tình trạng lách luật, trốn thuế… gây thiệt hại cho nền kinh tế.
2.2.2. Tháo lui đầu tư
Khi chi tiêu chính phủ tăng hoặc thuế giảm thì tổng thu nhập quốc dân sẽ tăng lên theo cấp só nhân, nhu cầu về tiền sẽ tăng theo với mức cung như trước, lãi suất sẽ tăng bóp hẹp một số đầu tư. Kết quả là phần tổng thu nhập quốc dân tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt cao héo theo thái lui đầu tư. Điều tương tự cũng xảy ra với tiêu dùng. Vấn đề tháo lui đầu tư tuy trong ngắn hạn ảnh hưởng ít đến nền kinh tế. Tuy nhiên trong dài hạn theo xu hướng “tích tiểu thành đại’’ quy mô sẽ tăng và mức ảnh hưởng sẽ tăng theo.
Việt Nam là một Quốc gia có tình trạng tháo lùi đầu tư khá phổ biến. Tuy mức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam luôn tăng và cao. Tuy nhiên mức độ giải ngân của các khoản đầu tư này rất thấp. Đây cũng là kết quả của một số nguyên nhân trong đó có chính sách tài khoá không hợp lý. Năm 2007 Việt Nam có tới 20,3 tỷ USD được đăng ký đầu tư vào các dự án. Tuy nhiên đến cuối năm thì mức giải ngân cũng chỉ đạt được hơn 10 tỷ USD. Năm 2008 điều tương tự đã xảy ra khi 8 tháng đầu năm mức đăng ký đã lên tới 47,8 tỷ USD nhưng mức giải ngân chỉ hơn nửa số đó.
3. Kinh nghiệm thực thi chính sách tài khoá từ các nước trên thế giới
Hiện nay chính sách tài khoá đang là chính sách hàng đầu của các nước nhằm điều tiết nền kinh tế có rất nhiều nước đã thành công trong việc thành lập quản lý và áp dụng chính sách đáng để Việt Nam học hỏi và đúc rút kinh nghiệm. Sau đây là hai cơ chế thực hiện chính sách tài khoá của hai quốc gia: Mỹ và Trung Quốc.
3.1. Chính sách tài khoá ở Mỹ
3.1.1. Chính sách tài khoá: Thuế và chi tiêu chính phủ
Sự phát triển của chính phủ kể từ những năm 1930 đi cùng với sự gia tăng chi tiêu liên tục của chính phủ. Năm 1930, chi tiêu của chính phủ chỉ tăng 3,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), hoặc tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ không kể xuất nhập khẩu. Con số này đã tăng len gần 44% GDP năm 1944, vào thời kỳ cao điểm của Chiến tranh thế giới thứ hai, trước khi giảm xuống còn 11,6% năm 1948. Nhưng chi tiêu chính phủ nói chung lại tăng lên trong những năm tiếp theo, đạt khoảng 24% vào năm 1983 sau đó giảm đi chút ít. Năm 1999 tỷ lệ này vào khoảng 21%.
Xây dựng chính sách tài khoá là một quá trình rất công phu. Mỗi năm, tổng thống đệ trình một ngân sách, hay một kế hoạch chi tiêu, cho Quốc hội. Các nhà lập pháp xem xét đề nghị của tổng thống theo một số bước. Đầu tiên, họ quyết định một mức chung cho chi tiêu và thuế. Sau đó, họ phân chia số tièn chung này cho từng hạng mục riêng - Ví dụ, cho quốc phòng, cho các dịch vụ y tế và con người, và cho giao thông vận tải. Cuối cùng, Quốc hội xem xét các dự luật chuẩn chi ngân sách riêng, xác định chính xác trong mỗi hàng mục sẽ cần bao nhiêu tiền. Mỗi dự luật chuẩn chi ngân sách cuối cùng phải được tổng thống ký để có hiệu lực thi hành. Quá trình lập ngân sách này thường kéo dài toàn bộ kỳ họp Quốc họi; tổng thống đệ trình các đề xuất của mình vào đầu tháng hai, và Quốc hội thường không kết thúc thông qua các dự luật chuẩn chi ngân sách cho đến trước tháng chín (đôi khi còn muộn hơn). Nguồn ngân sách chủ yếu của chính phủ liên bang để trang trải chi tiêu là thuế thu nhập cá nhân, trong năm 1999 nó chiếm khoảng 48% tổng số thu iên bang. Thuế thoa bảng lương, nguồn tài chính chi cho các chương trình an ninh xã hội và bảo hiểm y tế, ngày càng trở nên quan trọng khi các chương trình này phát triển. Năm 1998, thuế theo bảng lương chiếm một phần ba tổng thu nhập liên bang; mỗi viên chức và công nhân phải đóng một khoản bằng 7,65% lương của mình, nhưng không vượt quá 68.400 USD trong một năm. Chính phủ liên bang có được 10% nữa trong tổng thu của mình từ thuế lợi nhuận doanh nghiệp, phần còn lại của nguồn thu chính phủ là từ các loại thuế khác. (ngược lại, các chính quyền bang có phần lớn thu nhập thuế là từ thuế tài sản. Chính quyền các bang có truyền thống dựa vào thuế kinh doanh và thuế tiêu thụ, nhưng từ chiến tranh thế giới thứ hai thuế thu nhập bang ngày càng trở nên quan trọng hơn).
3.1.2. Chính sách tài khoá và ổn định nền kinh tế
Vào cuối những năm 1990 các nhà hoạch định chính sách ít có khả năng hơn những người đi trước trong việc sử dụng chính sách tài khoá để đạt được những mục tiêu kinh tế rộng lớn. Thay vào đó, họ tập trung vào thay đổi chính sách hẹp hơn với mục đích tăng cường nền kinh tế tới cận biên. Tổng thống Reagan và người kế nhiệm ông George Buch (1989 - 1993) tìm cách giảm thuế lợi nhuận - tức là những khoản tài sản gia tăng từ kết quả đánh giá giá trị tài sản như bất động sản hoặc cổ phiếu. Họ nói sự thay đổi như vậy sẽ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn. Những người phái Dân chủ phản đối và cho rằng sự thay đổi như vậy sẽ lắm lợi quá mức cho người giàu. Nhưng khi thâm hụt ngân sách thu hẹp thì tổng thống Clintơn (1993 - 2001) đã chấp thuận, và mức thuế lợi nhuận cao nhất đã giảm từ 28% xuống còn 20% vào năm 1996. Trong khi đó, Clintơn cũng tìm cách tác động vào nền kinh tế bằng việc xúc tiến các chương trình giáo dục và đào tạo nghề khác nhau nhằm phát triền lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao hơn và do đó cũng nâng cao năng suất và tính cạnh tranh.
Từ đó chúng ta có thể thấy được sự chặt chẽ, mức độ hợp lý của quá trình thành lập, sử dụng và quản lý chính sách tài khoá ở Mỹ. Đặc biệt trong quá trình thành lập chính sách tài khoá và việc sử dụng thuế đáng để chúng ta xem xét và đúc rút ra phương pháp cho chính sách tài khoá của mình.
3.2. Chính sách tài khoá ở Trung Quốc
Trung Quốc là một đất nước có điều kiện kinh tế chính trị xã hội giống nước ta. Trong những năm qua Trung Quốc đã có những chính sách thực thi phát triển kinh tế xã hội đúng đắn trong đó có chính sách tài khoá.
Kinh nghiệm vận hành chính sách chi ngân sách nhà nước tập trung vào 3 khía cạnh sau:
- Thực thi chính sách chi tiêu ngân sách nhà nước thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thâm hụt ngân sách nhà nước, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi cho kinh tế tăng tốc lâu dài. Khác với các nước chuyển đổi và các nước đang phát triển; dưới lãnh đạo Trung Quốc ý thức rất rõ tác hại rất lớn của môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn đối với đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội; đặc biệt là nguy cơ phá vỡ hoàn toàn chiến lược tăng GDP lên 4 lần sau hai mươi năm của ông Đặng. Chính vì vậy, 24 năm qua, Trung Quốc phải kiên trì thực hiện chính sách chi ngân sách nhà nước hết sức thận trọng và có trách nhiệm. Tiếp tục mặc dù trong thực tiễn không phải không xuất hiện những giai đoạn hết ngân sách nhà nước căng thẳng, thu ngân sách nhà nước và ngân sách TW giảm, song từ 1978 đến nay, Trung Quốc dứt khoát không phát hành tièn cho chi tiêu và bù đắp thiếu hụt cho ngân sách nhà nước. Có thể nói đây là quyết tâm mạnh mẽ và sắt đa hiếm thấy trên thế giới, cũng chính sách nhờ hài gọng kìm mạnh mẽ là chính sách động viên và chính sách thu ngân sách nhà nước đúng đắn mà kinh tế nước này để được thúc đẩy tăng tốc với nhịp độ cao chưa từng thấy. Độ ổn định và cân bằng ngân sách nhà nước của Trung Quốc chỉ giao động trên dưới 0,9% GDP, vào loại vững chắc nhất thế giới. Trong lịch sử trên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách tài khóa và vận dụng ở việt nam trong giai đoạn hiện nay.doc