ỞViệt Nam, lãi suất được sửdụng nhưcông cụchính của chính sách
tiền tệ, nó là yếu tố đánh dấu sựchuyển biến từcơchếkinh tếkếhoạch hoá
tập trung sang cơchếthịtrường, nó còn là công cụquan trọng đểchuyển các
Ngân hàng sang cơchếtựhạch toán kinh doanh.
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các
NHTM trong việc ấn định mức lãi suất cụthểtheo yêu cầu huy động vốn và
nhu cầu tín dụng thịtrường, tăng sựcạnh tranh trong hoạt động tín dụng và
làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM
thực hiện điều chỉnh cơcấu đầu tưtheo mục tiêu chính sách tín dụng.
Giai đoạn từ1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉquy định các mức
lãi suất :“trần” theo thời hạn cho vay và khống chếtỷlệchênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng)
(4,2% năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và tỷlệchênh lệch lãi suất được
công bố, các NHTM được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và
huy động vốn phù hợp với quan hệcung cầu vềvốn và đặc điểm kinh doanh
riêng.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn dưthừa từthành thịvềnông
thôn thì lãi suất cho vay ởnông thông được duy trì cao hơn một chút so với
lãi suất cho vay ởthành thị.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp
với diễn biến của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tếtrong bối cảnh
nguy cơgiảm phát đang làm chậm lại tốc độtăng trưởng.
Chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷgiá
VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong
quá trình ổn định kinh tếvĩmô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền
Việt Nam và lòng tin của dẫn chúng vào hệthống ngân hàng, giảm dần tình
trạng sửdụn
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1934 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiên nay với mục tiêu ổn định giá cả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8 tăng rất
cao, ví dụ thép, vật liệu xây dựng... tăng giá liên tục. Năm nay, giá
nhiều mặt hàng chịu sự tác động từ giá thế giới.
Cụ thể là việc tăng giá dầu đã ảnh hưởng đến giá cả nhiều
mặt hàng như thép, xi măng, lương thực... Đặc biệt là lúc đó,
thị trường thế giới thiếu lương thực. Do đó, gạo từ mức giá
400-500 USD/tấn đã tăng đến hơn nghìn, thậm chí 1.200
USD/tấn.
9
Nền kinh tế chúng ta là nền kinh tế mở, và Việt Nam phải
nhập nhiều nguyên liệu, nên khi giá thế giới tăng đã như cơn
bão ập vào ngay, khiến chúng ta phải gánh chi phí đầu vào
tăng mạnh.
Nhưng, thậm chí có những mặt hàng chẳng phải nhập khẩu
gì cả mà giá vẫn tăng rất cao như gạch chẳng hạn, tăng gấp
đôi, gấp ba. Nhiều lúc, tốc độ tăng giá của gạch còn cao hơn
cả thép. Rõ ràng, đã có một tác động dây chuyền nào đó.
• Về cầu kéo, nếu nhìn cả năm thì nhu cầu tiêu dùng năm 2008 so
với các năm trước đó không thay đổi nhiều, nhưng giai đoạn 6
tháng đầu năm lại tăng khá cao, mặc dù giai đoạn này giá hàng hóa
tăng.
Một đặc điểm nữa là năm nay, thị trường chứng khoán kém
sôi động hơn trước, thị trường bất động sản cũng đóng băng
nên một lượng tiền đã đổ vào thị trường hàng tiêu dùng,
chuyển thành tích trữ hàng hóa, khiến giá hàng hóa tăng.
• Tiền tệ thì đúng là nguyên nhân dẫn tới lạm phát trong năm 2008
vì năm 2007 trước đó, khi lượng USD vào nhiều theo kênh FII
(đầu tư gián tiếp - PV) thì các ngân hàng đã phải đưa một lượng
tiền mặt ra để đối ứng, giữ vững tỷ giá.
Nhưng mặt khác, động thái đó lại làm mất giá đồng tiền nội
tệ. Sau này, Ngân hàng Nhà nước đã có một loạt động thái
thu tiền về bằng tăng dự trữ bắt buộc, bán trái phiếu... nhưng
cũng không thể thu ngay về được. Lượng tiền trong lưu
thông còn rất lớn gây áp lực lạm phát.
Năm 2008, yếu tố tâm lý cũng có đóng góp đáng kể vào mức tăng
của chỉ số giá...
Yếu tố tâm lý nổi lên ở mấy đợt sốt giá cả trong năm 2008, liên
quan đến xi măng, sắt thép, đặc biệt là các lần sốt gạo. Riêng về sốt
gạo,có thể khẳng định là hoàn toàn do yếu tố tâm lý, vì nước ta là
nước xuất khẩu gạo, không hề thiếu nguồn cung.
Cơn sốt gạo năm vừa qua phát đi từ Tp.HCM và lan ra cả nước.
Trong thời điểm giá gạo tăng đột biến, tại Tp.HCM, có hiện tượng
người dân tranh nhau đi mua gạo giá cao, thậm chí mỗi người chỉ
được mua vài kg. Điều này càng kích thích giá cả tăng cao hơn.
Sau đó, cũng có một số biện pháp bình ổn lại, nhưng rõ ràng giá
cả đã lên rất cao và ảnh hưởng từ giá gạo đã kéo theo hàng loạt hàng
hóa, dịch vụ khác tăng theo. Kết quả là vào tháng 5, chỉ số giá đã tăng
cao nhất trong năm vừa qua, tới 3,91%.
Thêm vào đó là xăng dầu, theo chúng tôi thống kê được thì năm
vừa qua, Nhà nước đã 15 lần điều chỉnh giá xăng dầu, trong đó chỉ có
10
hai lần tăng giá, 13 lần giảm giá. Tuy tăng giá hai lần nhưng biên độ
điều chỉnh rất cao, nhất là lần điều chỉnh hồi tháng 7, tới gần 30%.
Giá xăng dầu tăng đã tác động mạnh đến nền kinh tế. Dầu
diezen tăng thì các tầu đánh cá phải nằm bờ hết. Cứ thế, sản xuất bị
đình đốn, hàng hóa ít đi, khó khăn chồng chất lên.
Một yếu tố nữa có thể đề cập thêm là thời tiết. Mặc dù các năm
đều có bị ảnh hưởng của thời tiết đến các hoạt động kinh tế, thế nhưng
năm vừa qua có quá nhiều diễn biến bất thường. Ví dụ như trận rét hồi
đầu năm, hay cuối năm có trận lụt tại Hà Nội... đều là mấy chục năm
mới có một lần, tác hại rất lớn.
Nhìn lại giai đoạn này, những vòng tác động gián tiếp và tâm
lý đã đẩy nhiều loại hàng hóa tăng giá bất hợp lý. Tại một số thời
điểm, trong lúc giá xi măng xuất xưởng của một số nhà cung cấp chỉ
có 53.000-55.000 đồng/bao, thì giá bán trên thị trường lên 80.000 -
90.000đồng/bao...
Không chỉ tác động đến giá các loại hàng hóa vật chất, thị
trường chứng khoán cũng nhiều lần chứng kiến tác động của chỉ số
giá đến sự tăng hay giảm của “bảng điện tử”. Những công bố CPI sớm
của các thành phố quan trọng như Tp.HCM, Hà Nội có thời điểm
cũng “áp đặt” xu hướng cho thị trường mua bán giầy tờ có giá này.
CPI cũng đẩy lãi suất huy động và cho vay của các ngân
hàng thương mại tăng liên tục trong giai đoạn này, có những thời
điểm vượt trên 18-19%, đối với huy động tiền gửi, và 21-24% với cho
vay.
Bình quân mức tăng CPI thời kỳ này đạt 2,48%/tháng, dù
đã được điều chỉnh bởi các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của
Chính phủ.
Đối với giai đoạn sau này, khi chỉ số giá giảm:
Việc chỉ số giá giảm, là điều bất ngờ. Sau 6 tháng đầu năm tăng
rất cao, đến quý 3, chỉ số giá giảm tốc, chỉ còn tăng trên 1%, và đến
tháng 9 thì chỉ tăng 0,18%. xưa nay không bao giờ có chuyện giảm
giá vào quý 4, nhất là các tháng 11 và 12.
Tháng 10 thì còn có thể vì thường là tháng 9 tăng cao do ảnh
hưởng từ Tết Trung Thu, rồi ngày khai giảng, bố mẹ các em học sinh
phải mua nhiều sách vở... theo biểu đồ chung thì tháng 9 lên cao,
tháng 10 dịu xuống, rồi tháng 11, 12 lại tăng lên.
Nguyên nhân giảm này, thứ nhất là chính sách tiền tệ thắt chặt
có tác dụng kiềm chế lạm phát, nhưng hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp
làm ra lại cũng không bán được, rất khó khăn, dấn tới giảm giá.
11
Nguyên nhân nữa là giá thế giới giảm. Nhiều loại hàng hóa đều
bắt đầu giảm giá trong nửa cuối năm 2008, đặc biệt là giá dầu giảm rất
mạnh, đến gần đây chỉ còn trên 40 USD, thậm chí có lúc dưới 40
USD/thùng.
Giá thép cũng giảm rất mạnh, rồi giá lương thực. Gạo, sau một
thời gian tăng giá mạnh thì thế giới họ bắt đầu tăng sản xuất lên, đẩy
giá gạo giảm. Việt Nam có chuyện lo mất an ninh lương thực thì giãn
xuất khẩu.
Hơn nữa, sau những thiên tai hồi đầu năm, ta phải gieo cấy lại,
cứ nghĩ có lẽ mất mùa nhưng năm nay lại được mùa, nguồn cung thừa
thãi khiến giá gạo xuống nhanh. Ngoài ế thừa do không xuất được, ta
lại nhập khẩu gạo ngon qua Campuchia, khiến nhu cầu tiêu dùng gạo
trong nước càng giảm hơn nữa.
Một chuyện nữa liên quan đến thịt lợn, mặt hàng quan trọng
trong tiêu dùng của người dân Việt Nam, có trọng số khá cao trong rổ
hàng hóa tính CPI. Hồi đầu năm, giá thịt lợn tăng rất cao, nguyên
nhân do dịch bệnh. Lúc đó, ta xuất mạnh lợn sữa sang Trung Quốc,
nguồn cung càng thiếu.
Để bình ổn giá, Chính phủ cho nhập thịt về, sau đó thì hàng về
quá nhiều. Giai đoạn sau này thì mặt hàng này lại kéo chỉ số giá đi
xuống. Vì vậy, ngành chăn nuôi năm vừa qua cũng bị ảnh hưởng ít
nhiều bởi nhập khẩu thịt lợn, thịt gà...
Tháng 11, tại các tỉnh chỉ số giá đã xuống rồi thì Hà Nội vẫn
tăng. Đây lại là trung tâm kinh tế, có sức lan tỏa mạnh. Chính vì thế
thiệt hại càng nặng nề hơn.
Về phía Chính phủ, nhận thức được nguy cơ này, gói giải pháp
tổng thể hơn 100.000 tỷ đồng đã được tung ra để kích thích nền kinh
tế. Tại phiên họp thường kỳ tháng 12 vừa qua, các thành viên Chính
phủ cũng nhất trí tiếp tục thực hiện năm nhóm giải pháp cấp bách, chủ
yếu để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, bao gồm thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh và xuất khẩu; kích cầu đầu tư; chính sách tài chính, tiền tệ
linh hoạt; bảo đảm an sinh xã hội và tăng cường công tác điều hành.
b)Biến động giá cả 2009 và những dự báo
Theo số liệu do Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) tháng 1/2009 tăng 0,32% so với tháng 12/2008 và tăng
17,48% so với cùng kỳ năm 2008.
Như vậy, CPI đã tăng trở lại sau 3 tháng giảm liên tục, nhưng
đây là mức tăng thấp nhất của tháng 1 trong vòng 4 năm qua (tháng
1/2006 tăng 1,2%; tháng 1/2007 tăng 1,05%; tháng 1/2008 tăng 2,38%
so với tháng trước)
12
Trong năm nay, lạm phát vẫn là yếu tố đầu tiên cần được tính
đến, Việt Nam vẫn phải tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng
giảm dần.
Năm 2009, giá cả thị trường Việt Nam sẽ biến động và gắn kết
ngày càng chặt chẽ vào biến động của giá nguyên, nhiên vật liệu trên
thị trường thế giới.
CPI năm 2009 sẽ là 7%[16/07/2009]
CPI có thể tiếp tục tăng nhẹ trong các tháng tiếp theo nhưng không có
sự biến động lớn và CPI tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm
2008 tăng ở mức 1 con số (<10%).
2. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực
hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh
tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp
chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm
tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt
thì ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh
lượng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức
tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên
cơ sở: tỉ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng
quay tiền tệ...
13
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một
cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ
không đông cứng, đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều
năm...)
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thống NH đã được phân thành 2 cấp
NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên
lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc
NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.1 Các công cụ của chính sách tiền tệ:
Công cụ lãi suất:
Ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách
tiền tệ, nó là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các
Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh.
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các
NHTM trong việc ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và
nhu cầu tín dụng thị trường, tăng sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và
làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM
thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo mục tiêu chính sách tín dụng.
Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức
lãi suất :“trần” theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng)
(4,2% năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được
công bố, các NHTM được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và
huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh
riêng.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn dư thừa từ thành thị về nông
thôn thì lãi suất cho vay ở nông thông được duy trì cao hơn một chút so với
lãi suất cho vay ở thành thị.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp
với diễn biến của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh
nguy cơ giảm phát đang làm chậm lại tốc độ tăng trưởng.
Chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá
VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong
quá trình ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền
Việt Nam và lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình
trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng bước đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở
Việt Nam.
14
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát
triển chưa cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền
tệ của NHNN Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu
của thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm
phát.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất
dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh
toán vì lạm phát có xu hướng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của
nền kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không áp dụng
công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ
(mặc dù có thể coi nó như một giải phóng tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ được xoá bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định,
thị trường vốn phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
Công cụ Dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn được sử dụng sớm
nhất ở Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB
có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM Việt
Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN
đã quy định tỉ lệ DTBB là 10%; được áp dụng cho các NHTMQD, NHTM
cổ phần ,chi nhánh NH nước ngoài,NH liên doanh và các công ty tài chính.
Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10%
nhất là các NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này,
trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức
DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi
khác nhau : tiền gửi, tiền tiết kiệm không kì hạn: 13%;tiết kiện kì hạn 3,6
tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu: 8%) ; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng
quy chế phạt đối với các TCTD không thực hiện đúng quy chế DTBB.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB
được điều chỉnh nhiều lần theo xu hướng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích
thíh đầu tư, tiêu dùng.
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín
dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của
các NHTM do lãi suất giảm.
Công cụ DTBB ngày càng được hoàn thiện và trở thành công cụ đắc
lực của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
Công cụ Cho vay tái chiết khấu
15
Ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã được sử dụng như là một công
cụ của CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì chưa
hội đủ những điều kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả
của nó còn nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở
thành công cụ đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc
gia. Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu được thực hiện qua việc NHNN cho
NHTM vay ngắn hạn căn cứ vào khế ước tín dụng ( có chất lượng ) do
NHTM đem thế chấp tại NHNN, lãi suất tái cấp vốn được xác định dựa theo
lãi suất cho vay (cao nhất ) của các NHTM và được điều chỉnh linh hoạt theo
mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ để các NHTM điều chỉnh lãi suất
cùng với sự phát triển của thị trường ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc
lực của chính sách tiền tệ quốc gia....
Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở
Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín
phiếu NHNN các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để
thực hiện CSTT quốc gia”
Ở Việt Nam thị trường mở đã tìm được con đường đi riêng cho mình
và tính ưu việt của nó đã được phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định
(đã giúp cho các NHTM được chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng vốn
khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã thực hiện được mục tiêu
CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính
chất thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
2.2 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ
những năm qua.
2.2.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.
*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu
đáng được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm
soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một
bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng
tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn định, đời sống người dân không ngừng
được cải thiện. Năm 2008, Thu nhập bình quân đàu người của Việt Nam đạt
và vượt 1000 USD/năm
Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của
CSTT ở Việt Nam đã góp phần đạt được hai mục đích thường mâu thuẫn
nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát vừa tăng trưởng kinh tế. Có được kết qủa
này còn phải kể đến vai trò của nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của
nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa đạt được mức năng suất biên của
sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế.
2.2.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ
của CSTT những năm qua.
16
Trong những năm qua, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc
kiểm soát và điều hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phương pháp dự
đoán không phù hợp, phương thức điều hành MS không linh hoạt cùng với
các biến đổi kinh tế, mới chỉ quan tâm đến khối lượng tiền phát hành hàng
năm cho 2 mục tiêu (cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế thông
qua cho vay chiết khấu các NHTM và mua ngoại tệ, chưa đánh giá đúng khả
năng tạo tiền của các NHTM).
Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm
điều tiết sự tăng, giảm khối lượng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời
gian qua cũng bị hạn chế ở nhiều mặt.
Nhóm các công cụ trực tiếp: Được sử dụng chủ yếu trong việc điều
tiết cung tiền thời gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình
chuyển đổi kinh tế trong giai đoạn đầu nhưng trong tương lai sẽ không còn
phù hợp nữa (rõ nhất là công cụ hạn mức tín dụng đã bị loại bỏ từ quý II/98).
Lãi suất là công cụ được sử dụng thường xuyên nhất trong điều hành
CSTT ở Việt Nam vừa qua. Tuy nhiên, cũng như tình trạng ở các nứơc đang
phát triển khác, ở Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lắm với đầu tư. Việc
các NHTM tự quy định lãi suất tiền gửi thanh toán trong khung trần lãi suất
cho vay tối đa đã dẫn tới các NHTM tranh giành khách hàng bằng việc tăng
lãi suất tiền gửi thanh toán lên khá cao, khiến chotổng số vốn huy động của
toàn ngành NH không tăng mà chỉ chuyển từ NH này sang NH khác, gây bất
ổn định trong kinh doanh.
. Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ
đạo của NHNN, nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các
NHTM.
. Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị
trường vì thế nó có tác dụng khẳng định hơn là hướng dẫn diễn biến thực tế.
Mặt khác cơ sở để NHNN điều chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trường
phái trọng tiền ( căn cứ vào sự thay đổi của chỉ số giá cả thị trường là chủ
yếu,sự ảnh hưởng của thị trường vốn còn hạn chế)
. Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải được
hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Việc kiểm soát
lãi suấtcủa NHNN hiện nay chính là một kiểu can thiệp giá của nhà nước.
Nếu cứ như vậy sẽ là không phù hợp trong tương lai khi hệ thống thị trường
ở ViệtNam phát triển hoàn thiện hơn.
Công cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp
lệnh NH T5/1990 ) chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%,
điều nàychỉ phù hợp trong thời kỳ đầu nhưng sau đó khi đồng tiền Việt Nam
đi vào ổn định thì đó là tỉ lệ không hợp lý, thiếu linh hoạt song NHNN trong
thời gian đó vẫn không có quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp lệnh phải có
thời gian.
17
Kể từ khi luật NHNN được thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có được điều
chỉnh giảm đi (0-20%) và linh hoạt hơn nhưng theo nhiều chuyên gia đánh
giá thì nó vẫn ở mức cao.
Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD chưa nghiêm,
tiềm ẩn các nguy cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tượng
phải áp dụng quy chế DTBB còn chưa đầy đủ, các đối tượng áp dụng thì
mức độ tỉ lệ DTBB còn khác nhau- có nhiều yếu tố khộng hợp lý. Như vậy
NHNN vẫn chưa thực sự tạo ra được một “sân chơi bình đẳng”đối với các
TCTD.
Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của công cụ nay còn hạn
chế, chưa biểu hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trường, lãi
suất tái cấp vốn, chúng ta đã liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn chưa
thúc đẩy nền kinh tế phát triển rõ rệt, kết quả biểu hiện còn khá khiêm tốn.
Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơ chế đầy đủ
để CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT) phát huy tác dụng, mối liên hệ
- tác động của nó với các biến số kinh tế vĩ mô còn rất hạn chế.
Công cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan
trọng để thực hiện nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thương phiếu chưa phát
triển phổ biến trong các giao dịch thương mại; công cụ mà NHNN thực hiện
nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN. Theo lý thuyết,
lương tiền phát hành vào lưu thông qua con đường tái chiết khấu sẽ là phù
hợp hơn nếu nó được dựa trên các thương phiếu(vì lượng tiền đó được bảo
đảm bằng sự gia tăng khối lượng hàng hoá của nền kinh tế) .
. Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán
của các NHTM hiện nay phải chăng là quá dễ dãi theo nguyên lí phát hành
tiền. Nó có thể đáp ứng nhu cầu trước mắt của các NHTM nhưng nó cũng dễ
phát sinh các tiêu cực trong qúa trình thực hiện , chưa kích thích sự năng
động của các NHTM . Như vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, gây bất ổn đối
với giá trị đồng tiền quốc gia.
.Trong việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dường như chúng ta chỉ
nặng về điều chỉnh lãi suất chiết khấu mà chưa chú ý đến “cửa sổ chiết
khấu”của NHTW đối với các NHTM (vì quy mô cung ứng cho vay chiết
khấu của NHNN đối với các NHTM cũng phải căn cứ vào thực lực của
chính các NH đó).
Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi còn mang nặng
tính bao cấp ( ưu tiên NHTMQD) do vậy vai trò “người cho vay cuối cùng”
đối với mọi TCTD của NHNN chưa thực sự thể hiện rõ nét.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Về cơ bản thì đây chưa thực sự trở
thành một công cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc
dù theo lý thuyết vai trò của nó là rất to lớn.
Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau:
18
. Quá trình tạo “hàng hoá” còn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín
phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN của NHNN còn mang nặng tính
hành chính, các chủ thể tham gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc
doanh, Công ty Bảo hiểm với mục đích đơn giản là giải quyết nguồn vốn hả
dụng dư thừa của họ.
. Việc mua bán lại tín phiếu còn chưa phổ biến đối với công chúng
khiến cho lượng tín phiếu mà các TCTD sau khi mua được hầu như lại nằm
im trong két của họ điều đó cũng làm giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị
trường sơ cấp.
.Trên thị trường mở ,khối lượng giao dịch còn thấp , số thành viên
tham gia chưa nhiều nên tác độngcủa thị trường mở đến lượng vốn khả dụng
của các NHTM còn rất hạn chế.
Như vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hướng cơ bản
và các giải pháp cụ thể để có thể sử dụng các công cụ của CSTT một cách có
hiệu quả ở Việt Nam.
Phần 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện
các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Định hướng
3.1.1.Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bước sang thế kỷ 21,đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để
phát triển đó là : sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so
sánh của đất nước phục vụ cho sự phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng
ta từ khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục,cao thì lại đang
có xu hướng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này.Lý do
được giải thích có thể là do hậu quả thiên tai ,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc
xuất phát từ chính các yếu tố,lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu
kém tụt hậu tương đối so với khu vực và thế giới .
Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt
đẹp tạo cơ hội để phát triển đất nước ;chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều
các quốc gia trong khu vực và thế giới ,tham gia nhiều hiệp ước kinh tế như
AFTA,WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp với các tổ chức,định chế tài
chính lớn như IMF,WB,ADB..
Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông á,Đông Nam á đang có
dấu hiệu phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm
qua.Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trường
tài chính tiền tệ ở nước ta .
19
Trong xu hướng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao
hiệu quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn
đề còn phải lưu tâm rất nhiều .
3.1.2. Một số định hướng cơ bản:
-Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hoà nhập
với thông lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng
định hướng của Đảng và Nhà nước .
-Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử
dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu
quả hơn.
-Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính
thực tiễn đó là thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo sự phát t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiên nay với mục tiêu ổn định giá cả.PDF