LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 3
I. Những lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ 3
1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó. 3
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 4
3. Nội dung chính sách tiền tệ 7
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 9
PHẦN II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 14
I. Một số thành tựu đạt được, tồn tại và nguyên nhân. 14
1. Những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua. 14
2. Những kết quả đạt được do sự xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế 16
II. Tồn tại và nguyên nhân 20
1. Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành 21
2. Tỷ lệ tín dụng chung, dài hạn tăng và không tuơng xứng với tốc độ tăng nguồn vốn huy động của các loại vốn này 23
3. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung ứng 25
4. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc 24
5. Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay trong nền kinh tế bị tăng chậm 24
PHẦN III : NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 26
I. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đến kinh tế thế giới và Việt Nam 26
II. Những định hướng cơ bản xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta trong thời gian tới. 30
1. Điều hành cung ứng tiền tệ 30
2. Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá 31
3. Chính sách huy động vốn và tín dụng 33
4. Điều hành chính sách tiền tệ với công cụ quản lý 34
5. Các giải pháp hỗ trợ cho chính sách tiền tệ 37
6. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với chính sách kinh tế vĩ mô khác. 38
KẾT KUẬN 39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
40 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a và bắt đầu có hiệu lực từ 1/10/1998. Những năm gần đây, việc đưa 2 luật này vào áp dụng trong thực tế đã được chú trọng hết sức nhằm tạo ra một hành lang pháp lí mới thông thoáng và hiệu quả.
1. c. Hoạt động tiền tệ ngân hàng có nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Mặc dù việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và ngăn chặn sự lan truyền của khủng hoảng kinh tế tài chính châu á đối với nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là tích cực. Thực tế các nước chịu sự tấn công mạnh nhất của cuộc khủng hoảng như Indonêxia, Hàn quốc... đậm nét trong khi đó các nước nằm ngoài tầm của cuộc khủng hoảng như Việt Nam. Đối phó với sức ép đó và thực hiện việc lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng trong bối cảnh hội nhập hàng loạt các giải pháp tiền tệ tín dụng đã được ban hành.
Hệ thống ngân hàng hai cấp ngày nay đang đi vào nề nếp, NHTW đã thực sự trở thành người cho vay cuối cùng, hệ thống ngân hàng thương mại rộng khắp và hoạt động dưới sự chỉ đạo của NHTW Việc tự chủ kinh doanh và việc xoá sự bao cấp của nhà nước khiến cho các ngân hàng càng ngày cangf phải tích cực giảm thiểu chi phí hoạt động, nhằm kinh doanh có hiệu quả nhất. Các ngân hàng đã nâng cấp nhiều về trang 5thiết bị, đã đưa dược công nghệ tiên tiến vào quản lí ngân hàng, trang bị hàng loạt các máy vi tính từ NHTW đến các chi nhánh NHNN địa phương bằng hệ thống thanh toán qua mạng vi tính đã thu hút được kết quả khả quan. Đây có thể coi là mmột bước chuyển về chất lượng trong điều hành hoạt động tiền tệ, ngân hàng. Một vài con số đáng được ghi nhận:
Cho đến hết tháng 6/1999, huy động vốn của hệ thống ngân hàng tăng 9,3% so với đầu kì. Ngân hàng ngoại thương đạt 34% đối với đồng nội tệ và 10,6% đối với đồng ngoại tệ. Tổng dư nợ nền kinh tế tăng 6% trong đó tín dụng trung và dài hạn chiếm trên 40% tổng dư nợ và đạt 45,8% trên địa bàn Hà Nội. phải khẳng định rằng những kết quả đó là rất đáng khích lệ, bởi vì, các lợi thế có được như sự ổn định tương đối của nền kinh tế- chính trị- xã hội, chi phí vốn thấp và tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Do phương hướng điều hành một chính sách tiền tệ lỏng đã được dặt ra ngay từ đầu năm.
2. Những kết quả đạt được do sự xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế
2.1. Về chính sách lãi suất và các công cụ bổ trợ
Do vốn vay chiếm tới 80- 90% tổng số vốn sản suất nên việc giảm lãi suất đã được đặt ra nhằm giảm chi phí hoạt động của nênf sản xuất. Tuy nhiên, do hệ thống nhân hàng cũng ở tình trạng rất khó khăn nên lúc đầu việc hạ lãi suất chỉ áp dụng đối với các ngân hàng mậu dịch quốc doanh (Chỉ thị 1/1999/CT- NHNN 29/1/1999 quy định trần lãi suất tín dụng của các ngân hàng mậu dịch quốc doanh pá dụng đối với khách hàng khu vực thành thị sẽ giảm từ 1,2 xuống 1,1%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn, từ 1,25 xuống 1,15/ tháng đối với tín dụng trung và dài hạn). NHNN đã tiến hành giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc(Quyết đinh số 52/1999/QĐ- NHNN ngày 10/2/1999) Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đựoc coi là bứoc đệm cho việc hạ lãi suất đồng loạt vào 31/5/1999.
Trong suốt thời gian qua, lãi suất đã thực sự là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ đắc lực. Đặc điểm sử dụng lãi suất NHNN mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng cường vốn đầu tư phát triển kinh tế và thực hiện một số chính sách xã hội. Cho đến nay, ta đã thực thi và hoàn thiện dần cơ chế lãi suất riêng và đang đang trên con đường tiến tới tự hoá lãi suất. Từ đầu tiên các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất kinh doanh tứ tụ do hoá lãi suất trong phạm cho phép do NHNN công bố vào 1/1/1996 với chênh lệch lãi suất cho vay. Luật NHNN có hiệu lọc tù 1/10/1998 tại điều 18 quy định :” NHNN công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn “ và tại điều 19 ghi rõ “Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh “. Những thanh công trên đây là kết quả của một quáy trình từ điều chỉnh lãi suất một cách tình thế sang một cách chiến lược có tính lâu dài cho cơ chế lãi suất.
Việc vận dụng những công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều đó là hoàn toàon phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta đi lên từ một xuất phát điểm tương đối thấp. Việc xây dựng nền móng và tiến dần lên sử dụng các công cụ gián tiếp cũng đựoc chú trọng và đạt nhiều thành tích đáng kể. Công cụ lãi suất đã nói trên cũng đã tiếp cận dần với lãi suất thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng linh hoạt và phản ánh đựoc cung cầu vốn trên thị trường. Công cụ dự trữ bắt buộc đã được áp dụng chặt chẽ hơn và có quyết định xử phạt rõ ràng. Lãi suất tái chiết khấu cũng đã được nghiên cứu áp dụng sao cho nó trở thành công cụ chính thay cho lãi suất tín dụng hiện nay. Công cụ nthị trường mở đã bắt đùa triển khai và thử nghiệm, đồng thời chúng ta cũng tạo ra được một số công cụ để sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
2.2.Về tỷ giá
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong những năm đầu,nhà nước vẫn duy trì chính sách 2 tỷ - Tỷ giá do nhà nước quy định và tỷ giá thị trường tự do. Tỷ giá nhà nước thường thấp hơn so với thị trường tự do. Với sự duy trì hai tỷ giá cùng với sự khan hiếm ngoại tệ mạnh, nạn đầu cơ ngoại tệ nâng tỷ giá đã gia tăng. Nhà nước vưa không điều hành được tỷ giá vừa không dự trữ được ngoại tệ. Việc ấn định tỷ giá gần với tỷ giá thị trường có ý nghĩa quan trọng và còn mang tính chiến lược về kinh tế.
Do đồng tiền của các các nước châu á có xu hưóng ổn định ở mức giá trị thấp hơn so với các ngoại tệ mạnh, nên sức cạnh tranh yếu kém của hàng hoá Việt Nam một phần cũng xuất phát từ chế độ tỷ giá VND. Cùng với các bài học rút ra từ việc điều hành tỷ giá của các nước khủng hoảng,sự ra đời của luật ngân hàng,vấn đề quản lý ngoại hối đựoc thực hiện nghiêm minh và đặc biệt là sự cã thiện trong việc kiềm chế lạm phát thời gian qua. Thị trường hoá chế độ tỷ giá đã được đặt ra. Quyết định 64/QĐ- NHNN ngày 25/2/1999 qui định:”NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân hình thành ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất”.
Trên thị trường, tỷ giá có tâưng chút ít vào 2 ngày sau khi quyết định 64 được công bố, tới khoảng 14.150VND/USD ngày 26/2/1999. Nhưng sau dố tỷ giá đã giảm xuống và ổn định ở mức 13. 950VND/USD. Như vậy, cơ sở pháp lý cho việc điều tiết tỷ giá của NHNN trên cơ sở thị trường đã được xác lập, góp phần tạo thế ổn định cho sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu. Sự ổn định của tỷ giá sau khi điều chỉnh cơ chế điều hành tỷ giá phần nào phản ánh sự thành công của hoạt quản lý tiền tệ- ngân hàng.
2.3. Thị trường tín dụng
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng đã được cải thiên theo hướng thị trường, nhưng thực tế sự nôn nóng trong việc vực dậy nền kinh tế đã mở rộng hoạt tín dụng bao cấp đối với hầu hết các khu vực kinh tế.
Với qui chế 324, cơ chế cải thiện từng bước. Tính hiệu quả đã được đề cao trong các quyết định tín dụng ; thời hạn tín dụng được điều chỉnh theo chu kì sản xuất, kinh doanh, đối tượng vay tín dụng được mở rộng... Song hoạt động tín dụng thực tế vẫn bế tắc. Cho đến 31/3/1999, tăng trưởng tín dụng và lãi suất thực tế mà ngân hàng cơ sở cho vay đã giảm mạnh. Trước thưcj trạng đó, cùng với việc đẩy mạnh thực hiện CNH- HĐH_nông nghiệp - nông thôn cấp tín dụng không cần thế chấp đã được mở rộng theo quyết định 67/QĐ- TTg ngày 31/3/1999 và quyết định 148/QĐ- TTg ngày 7/7/1999 đã cụ thể hoá vấn đề này với nội dung cụ thể là các hộ nông dân dược vay không cần thế chấp tới 10 triệu VND. Kết quả khảo sát cho thấy trong 3 tháng 4,5,6 dư nợ cho vay phục vụ phát triẻn nông nghiệp- nông thôn đã tăng mạnh tăng 7%, NHCT tăng 8% và NHNT tăng 25%.
2.4.Về thị trường tài chính thứ cấp
Quyết định số 140/QĐ- NHNN 14 ngày 19/4/1999 (có hiệu lực sau 15 ngày) về việc mua bán nợ giửa các tài chính tín dụng cũng là một tư tươngr hoàn toàn mới tri\ong việc điều hành hoạt động tiền tệ và ngân hàng. Thực chất của qui chế này là tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành thị trường thứ cấp các tài sản của hệ thống tài chính tín dụng. Mặc dù thời gian hoạt động chưa nhiều để có thể đánh giá được hoạt động mua, bán nợ giữa các tài chính tín dụng, nhưng có thể khẳng định được sự tồn tại cũng như những tác động tích cực của cơ chế này.
Thứ nhất, đối với thị trường tài chính sự ra đồi của các thị trường thứ cấp là một tất yếu và sẽ có tác dụng tích cực đối với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, trong điều kiện việc tạo các nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế tương đối hạn chế, ma fnhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn, thì việc hình thànhg thị trường thứ cấp là các tái sản có của hệ thống tài chính tín dụng sẽ xó tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi thời hạn giữa các nguồn vốn ngắn hạn sang các khoản tín dụng trung- dài hạn.
Bên cạnh đó,việc thiết lập môi trường pháp lý cho thị trường thứ cấp các tài sản có của hệ thống các trung gian tài chính còn có tác dụng tích cực đối với việc tối đa hoá hiệu suất sử dụng vốn, qua đó góp phần giảm lãi suất tín dụng và tạo điều kiện cho NHNN thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng hiệu quả hơn.
2.5. Kiềm chế lạm phát ổn định tương đối sức mua của đồng tiền Việt Nam
Cho đến nay, không ai có thể phủ nhạn được những thành quả trong việc kiềm chế lạm phát của chính phủ Việt Nam trong thời gian vừa qua mà trong đó chính sách tiền tệ có một vị rí vô cùng quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát đó.
Trong những năm cuối thập kỷ 80,lạm phát ở Việt Nam ở mức rất cao, còn nền kinh tế tăng tương đối chậm. Nhưng từ đầu thập niên 90 cho đến nay với việc đổi mới mạnh mẽ hoạt động nngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ nên lam phát đã đựoc giảm thấp và kiềm chế. Năm 1994 lạm phát 14.4%, 1995 12,7%, 1996 lạm phát 4,5% 1997 là 3,6%.. Trong khi đó nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định :Năm 1994 là 8,8%, 1995 là 9,5%, 1997 là 9% tháng 6/1998 là 6,64%.
Điều đó cho thấy nứoc ta với điểm xuất phát năm sau cao hơn năm trước, nhịp độ tăng trưởng chẳng những không lùi mà vẫn tiếp tục tăng khá cao, đồng thời tỷ lệ lạm phát đựoc kéo xuống. Điều đó khẳng định rằng chính sách tiền tệ của chúng ta là phù hợp và có hiệu quả.
Ngược lại, với xu nhướng giảm lạm phát là sự gia tăng nhanh chóng của khôíu lưọng huy đọng tiết kiệm và khôí lượng cho vay so năm 1995 với năm 1991 số dư tiền gửi tiết kiệm tăng khoảng 3 lần, khối lượng cho vay tăng hơn 4 lần tổng dư nợ đầu tư cho nền kinh tế tăng hơn 50%. Một dấu hiệu đáng khích lệ không kém là cơ cấu tiền vay, tiền gửi ngân hàng dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng nguồn dài hạn. Còn có thể kể ra những đóng góp khác của chính sách tiền tệ trong việctạo lập môi trưòng kinh doanh bình đẳng, thúc đảy tăng trưởng xuất khẩu, xoá đói giảm nghèo...
Tuy vậy, cần làm rõ cốt lõi của tấ cả các thành tưuđạt được. Diểm mấu chốt năm trong sự phù hờp của hướng tiếp cận đén chính sách tiền tệ với logic của tiến trình đổi mới.
Có 3 đặc trung chính thể hiện sự phù hợp đó :
Một là, chính sách tiền tệ quán triệt di theo đưòng lối chuyển sang kinh tế thị trường mởi cửa.
Hai là, nỗ lực để chính sách tiền tệ thực sự trở thành công cụ điều hành kinh tế vĩ mô hưu hiệu trong tay nhà nứoc.
Ba là, Sự đồng hướng và phùi hợp của chính sách tiền tệ với tất cả các chiónh sách kinh tế vĩ mô khác được áp dụng trong quá trình đổi mới.
ở những mức độ khác nhau, cả ba đặc trung này đều chứa đựng trong từng giải pháp tiền tệ đẫ nói trên. Tổ hợp chống lại đó là lời giải thích đầy đủ hơn cả về thành công của chính sách tiền tệ của toàn bộ quá trình chuyển đổi nền kinh tế nhìn từ gốc đọ chính sách tiền tệ. Với cách tiếp cận đó, chính sách tiền tệ đã góp phần to lớn vào việc thực hiện hai mục tiêu khôi phục ổn định và thúc đảy tăng trưởng kinh tế.
II. Tồn tại và nguyên nhân
Trong quá trình thực nthi chính sách tiền tệ thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhữn thành tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những bộc lộ yếu kém. Có thể tóm tắt những mặt tồn tại, hạn chế chính sách tiền tệ ở nước ta trong thời gain qua như sau :
Việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam mới ở thời điểm “sơ khai”, “xuất phát “. Thông thường NHNN dựa vào những tín hiệu của nền kinh tế để xá định lượng tiền cung ứng trình chính phủ phê duyệt, bổ sung, điều chỉnh. Vẫn mang nặng “đối phó “ trứoc mắt mà còn chưa có được tính chiến lựoc lâu dài nên dễ bị động hiệu quả và độ tin cậy thấp.
Việc thực thi các công cụ chính sách còn nhiều mặt hạn chế :
+ Hạn mức tín dụng NHNN có quy định cho các NHTM nhưng tốc độ tăng dư nợ chậm. Do đó, ý nghã thực của công cụ này trước thực tế hiện nay chưa được phát huy tác dụng.
+ Nghiệp vụ thị trường mở mới ở dai đoạn thí điểm dự báo vốn khả dụng.
+ Công cụ lãi suúat được sử dụng thường xuyên, linh hoạt hơn đẫ theo tín hiệu thị trường để điều chỉnh. Tuy niên, có lúc lãi suất thay đổi còn chậm so với thục tê, đồng thời có thời kỳ lại liên tục điều chỉnh gây khó khăn cho người gửi cũng như người vay, dễ hoang mang thiếu ổn định về tâm lý.. Việc tính toán điều chjỉnh lãi sút mới chỉ dựa vào hiệu ứng về hình thức biểu hiện của chỉ số giá cả tăng, giảm (nặng về quan điểm “trọng tiền”. Chỉ số lạm phát bằng chỉ số giá cả bình quân băng lãi suất tăng). Trong khi còn nhiều yếu tố tác đọng khác làm cho giá cả biến động nhưng chau đựoc phân tích một cách sâu sắc và chuă lượng hoá được thành các tiêu chis cụ thể đẻ xử lý tổng thể. Chẳng hạn, nếu sức mau của dân giảm (do nhiều nguyên nhân khác nhau) sẽ dẫn đến gia cả giảm (nhìn theo góc độ cung cầu) hoặc ngược lại. Trong trưòng hợp này, nếu không phân tích đày đủ, tìm hiểu kỹ nguyên nhân dẫn đén sức mua giảm của dân cua, mà dừng mức cảm nhân, dự đoán đẻ quyết định việc thay đổi laic suúat giảm thì chua đủ độ tin cậy đảm bảo tính xác thực, khách quan của sự biến động đó. Rất có thể bất lợi khi điều chỉnh.
Mặt khác, yếu tố tâm lý, sở thích của người dân trong từng điều kiện cụ thể cũng tác động đến quan hệ cung cầu(có những tác động “giả”). Vởy điều cần phải làm là tìm tín hiệu thực và phải lượng hoá các yếu tố tác động cụ thể.
+ Công cụ tỷ giá lâu nay NHNN sử dụng để điều chỉnh tăng giảm biên độ quan hệ tỷ giá giữa đồng Viêtj Nam và ngoại tệ. Như chúng ta đã biết, lý thuyết xác định tỷ giá căn cứ vào giá cả bình quân của một số loại hàng hoá chủ yếu mỗi nước. Có nghĩa, khi giá cả bình quân của mỗi nước thay đổi sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá. Đối với Việt Nam, việc xác định tỷ giá chủ yếu vẫn dựa vào hiện tượng giá cả biến động và dự đoán những tác động để xác định và điều chỉnh. Việc đưa ra những cơ sở, tiêu thức và một phương pháp tính toán cụ thể cho từng yếu tố tác động(đo bằng lượng giá trị) vẫn đang là những vấn đề trăn trở.
Chưa có biện pháp hữu hiệu tập trung các nguồn lực thúc đẩy CNH- HĐH.
Thị trường tiền tệ chưa phát triển. Hoạt động ngân hàng có nhiều biểu hiện chưa lành mạnh (Qui định, qui chế chưa được chấp hành nghiêm chỉnh.. )
Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính quốc gia chưa thực sự ăn khớp với nhau. Chúng ta tìm hiểu sâu hơn về khía cạnh cụ thể sau.
1. Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành
Tháng 6/1992 đã được NHNN coi là một mốc quan trọng, đánh dấu sự chuyển giai đoạn từ chính lãi suất lãi suất thực dương, chấm dứt khâu cuối cùng của sự bao cấp qua tín dụng,bắt đầu chính sách lãi suất tín dụng hạot động theo cơ chế thị trường, nhưng thực tế hoạt lại hoàn khác.
NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi suất của NHTM, vẫn còn qui định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau. Bắt đầu là khung lãi suất rời bây giờ là trần lãi suấtvà chênh lệch lãi suất. Cho đến nay, hầu như NHTM ở nước ta chưa tạo được nhiều nguồn vốn dài hạn, thể hiện ở lãi suất ngân hàng còn mang nặng tư duy kinh tế thời bao cấp, người gửi tiền dài hạn muốn lãi suất cao người vay vốn dài hạn đòi lãi suất thấp.
Mức lãi suất trong cả nước chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Hiện nay việc qui định mức lãi suất thống nhất chưa tạo được sự mềm dẻo linh hoạt theo yêu cầu thị trường từng vùng, khu vực. Cũng như thị trường hàng hoá trong thị trường vốn, mức cung cầu về vốn ở mỗi vùng, mỗi khu vực khác nhau thì đòi hỏi giá cả của vốn tiền tệ cũng khác nhau. Vì vậy, nếu qui định một mức giá cả thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng công cụ lãi suất kém linh hoạt.
Còn có sự chênh lệch lớn giữa lãi suất tín phiếu kho bạc cà lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng nên nhiều khi ảnh hưởng lớn đến hoạt đọng nguồn vốn của ngân hàng. Ta biết rằng, tín phiếu kho bạc là một cơ quan thuộc bộ máy quản lý tài chính nhà nước (kho bạc nhà nước) thay mặt chính phủ phát hành nhằm huy động tiền mặt trong xã hội theo yêu cầu cân đối ngân sách nhà nươcs twngf thời kì,việc vay này không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, bởi vậy, thường có mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng. Vì vậy, tín phiếu kho bạc đã thu hút được người cho vay (mua) hơn là gửi tiền vào ngân hàng, làm cho nhân hàng khó khăn vì giảm phần nào vốn huy động, làm ảnh hưởng đến qui mô tín dụng đã được định trước theo ké hoạch, ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch tài chính và nghĩa vụ với NHNN và sâu hơn nữa là phá vx sự kiến thiết mặt bằng lãi suất tín dụng. Có thể nó,do sự nghèo nàn về chủng loại các sản phẩm đầu tư tài chính đã dẫn đến tình trạng, tiền gửi tiết kiệm ngân hàng vẫn tăng trong khi lãi suất huu động liên tục giảm xuống. Đứng trước tình trạng này, hệ thống ngân hàng cho rằng nhà nước cần phải thực hiện chính sáh bội chi ngân sách ca0 hơn. Trong đó ngân sách nhà nước chỉ cấp một phần vốn cho các công trình lớn,phần còn lại để chủu công trình tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài (vay các ngân hàng thương mại).
Việc xử lí mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái bằng việc tâưng nhẹ dần lãi suất cho vay bằng VND và điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ trong năm 1988 là kịp thời, góp phần điều hoà thị trường nội, ngoại tệ hạn chế chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ.
Tuy nhiên, việc tăng nhẹ trần lãi suất cho vay bằng VND sẽ gây thêm khó khăn cho sản xuất kinh doanh trong nước, nhất là khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái. Mặt khác, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng giảm từ 1- 15%/năm nhưng tỷ giá lại điều chỉnh tăng 15%(theo tỷ giá chính thức) tăng 135 (theo tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng). Hơn nữa, lãi suất tổng tiền vay ngoại tệ giảm nhưng tỷ giá hối đói tăng làm hạn chế nhu cầu vay bằng ngoaị tệ của các doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất kinh doanh dẫn tới tình trạng nền kinh tế thiếu vốn.
2. Tỷ lệ tín dụng chung, dài hạn tăng và không tuơng xứng với tốc độ tăng nguồn vốn huy động của các loại vốn này
Trong vòng quay kinh tế thị trưòng, nhu cầu vốn là rất cao, thì nguồn vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm cho đàu tư còn rất hạn hẹp, vốn tự có của các doanh ngiệp rất nhỏ, do vậy các doanh ngiệp khi vần vốn cho sán suất kinh doanh đều trrong chờ vào nguồn vốn chung và dài hạn của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó nguồn vốn chủ yếu của các NHTM là nguồn vốn ngắn hạn (chiếm tới 90%) nên NHTM không đáp ứng được nu cầu vốn trung và dài hạn. Tình trạng này chưa có giải pháp tối ưu, mới chỉ có giải pháp tình thế là nghành ngân hành cho phép “ Trích 20% tổng nguồn vốn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn”, còn doanh nghiệp thì “lấy ngăn nuôi dài “. Sỡ dic tình trang trên tồn tại là vì :
Thứ nhất, yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng là thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay ởo dao đạn sơ khai,các sản phẩm trrên thị trường tìn tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần tuý. Mặt khác hệ thống pháp luật còn thiếu những quy định toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt đôngj, tiếp theo kà những hạn chế của chính ngành ngân hàng trong mọi hoạt đọng, chu chuyển nguồn vốn của các doanh nghiệp.
Thư hai, hiện nay những người có tiền nhãn rỗi chưa dùng hết thì chưa tìm kiếm được những địa chỉ tin cậy, bản thân từng ngân hàng chưa khăng định được những khoản tiền dai hạn thì lợi ích của người gửi tiền đựoc đảm bảo lâu dài như thế nào, lợi nhuận bao nhiêu..
Thứ ba, các ngân hàng còn thiếu các công cụ huy đọng vốn dài hạn và thiếu thị truờng thứ cấp để luân chuyẻen và tạo thành tính thanh khoản dễ dàng của các công cụ này.
3. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung ứng
Thực hiên mục tiêu của chính sách tiền tệ. NHNN đã sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn như là công cụ để điều tiết việc mở rộng hay thu hẹp tổng khối luợng tiền hay tổng phương tiên thanh toán trong nền kinh tế. Từ tổng khối lưọng tiền cung ứng đựoc phép tăng lên hàng năm NHNN kiểm soát chặt chẽ khối lưọng tín dụng tương ứng cho các NHTM qua nghiệp vụ tái cấp vốn. Tuy nhiên, do trong nền kinh tế chưa lưu thông hối phiếu và thương phiế nên NHNN chưa có điều kiện thực hiện tái cấp vốn qua tái chiết khấu các kỳ phiếu thương mại, cũng như chưa tái cấp vốn qua các thế chấp bằng những chứng từ có giá. Trên tầm vĩ mô NHNN vẫn chua kiểm soát đượ toàn bộ các kênh tín dụng nằm ngoài ngân hàng, như khối lưọng tín dụng của tổng cục đầu tư và hệ thống kho bạc. Đay là một mảng của tổng phương tiện thanh toán cần nằm trong sự kiểm soát của NHNN.
4. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc
Từ năm 1991, dự trữ bắt buộc được áp dụng như một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ theo pháp lệnh ngân hàng, tỷ lệ dự trũ bắt buộc có thể ở mức 10 - 35% tổng nguồn vốn huy động của cá NHTM. Song xét hoàn cảnh thực tế, tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và mức lạm phát đã đuợc kiềm chế cho NHNN Việt Nam quyéet định dự trữ bắt buộc ở mức 10%. Tỷ lệ này từ năm 1991 tới nay, nhưng kỷ luật chấp hành của các NHTM chưa nghiêm nên tác dụng của các công cụ này kém hiệu quả.
5. Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay trong nền kinh tế bị tăng chậm
Năm 1998, như đã biết tổng nguồn vốn huy đọng qua hệ thống ngân hàng có hướng tăng chậm lại. Nếu như năm 1997 huy đọng vốn tăng 31,5% (qua hệ thống ngân hàng) thì năm 1998 chỉ còn 25%, 3 tháng đầu năm 1999 chỉ còn 4,16% so với đầu năm (Quý I năm 98 tăng 5,9%). Thực trạng của nền kinh tế xã hội nước ta nhất là sự tác động của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ khu vực, đã làm cho nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế bị suy giảm nghiêm trọng. Thị trường tiêu thụ sản phẩm thu hẹp cũng khiến tốc đọ chu chuyển vốn trong nền kinh tế bị chậm lại, hiệu quả kinh doanh và các nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng. Tất cả những điều này đã dẫn đến dư nợ cho vay của các tố chức tín dụng cũng có xu hưóng tăng chậm lại. Năm 1997 dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng tăng 27,2%. Năm 1998 là 19% quý I năm 1999 là 0,8%
Phần III
Những giải pháp nhằm hoàn thiện
chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay
I. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đến kinh tế thế giới và Việt Nam
Đó là cơn bão (Khủng hoảng tài chính - Tiền tệ bùng nổ tại châu á chắc hẳn mọi người còn nhớ. Tại Thái Lan vào 2/7//1997 sau đó tràn qua các nước Philipin, Maliaxia, Indonxia,Hàn quốc, Nhật bản.. Và gần như tàon khu vực đều bị ảnh hưỏng nặng nề. Nguyên nhân cơn bão đã đựoc các nhà kinh tế phân tích, nghiên cứu gần bốn năm qua. Xin nêu lên các nguyên nhân cơ bản như :Nền kinh tế phát triển với tốc độ rất cao vượt quá khả năg nội tại của nền kinh tế, Chính sách đầu tư bất hợp lý và không hiệu quả, chất lượng kém, nợ quá hạn tăng nhanh, hệ thống ngân hàng tư nhân kém hiệu quả, vai trò quản lý kinh tế của chính phủ yếu, tình trạng tham nhũng bê bối gia tăng, thi hành chính sách tự do hoá thị trương tài chính, đồng tiền gần như buộc chặt với đồng USD 13 năm không đổi, Cán cân thương mại từ nhập siêu cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao. Ví dụ như :Năm 1996 ở Thái Lan là 9,1% GDP, Indinonexia là 3,5% GDP Malaixia là 8,6% GDP. Nợ nước ngoài quá lớn (Hàn quốc 153 tỷ USD Indonexia 133,3tỷ USD, Thái lan 92,9tỷ USD, Philippin 39,4 tỷ USD, Malaisia 28,9 tỷ USD).
Dự trữ ngoại tệ thấp Indonexia 19,3 tỷ USD, Thái lan 28tỷ USD Philippin 8,3tỷ USD Maláiia 21,1tỷ USD)dân chúng không tin tưởng ở chính phủ, dễ bị hoảng loạn, bị các nhà đầu cơ chứng khoán tấn công (Geogre Soros vào tháng năm 1997).
Tác động của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ đến kinh tế Việt Nam.
Việt Nam nằm trong khu vực xảy ra cơn bão tiền tệ, vả lại có những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh khủng hoảng tài chính điều có tại Việt Nam.
Nền kinh tế phát triển cao, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả kinh tế kém, năng suất lao động thấp đặc biệt là trong doanh nghiệp nhà có khoảng 63% doanh nghiệp nhà nước hoạt nđộng không có hiệu quả, trong đó có 35% doanh nghiệp nhà nước thua lỗ.
Đầu tư quá nhiều vào lĩnh vực bất động sản (khách sạn nhà hàng, văn phòng cho thuê,đất đai.. ) đến nay đã có dầu hiệu cung vượt cầu.
Hệ thống ngân hàng yếukém, chất lượng tín dụng yếu kém, nợ quá hạn cao (năm 1997 tại các ngân hàng tại các ngân hàng ở thành phố Hồ Chí Minh là 19,3%, cả nước khoảng 10%) Ngân sách nhà nước bội chi ở cấp độ cao năm 1997 là 3,5% GDP tăng gấp 3 lần so với năm 1996 (1,2% GDP).
Cán cân thương mại nhập siêu với mức gia tăng năm 1994 là 1771,8 triệu USD, năm 1995 là 2706,5 triệu USD, năm 1996 là 3859,3 triệu USD, năm 1997 là 2370 triệu USD, làm cho cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0687.doc