LỜI MỞ ĐÂU
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
I. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
II. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
III. NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
IV. CÁC CÔNG CỤ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
PHẦN II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. MỘT SỐ THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
1. Những thành tựu đạt được trong thời gian qua
2. Những kết quả đạt được do việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ
II. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Những tồn tại trong cơ chế lãi xuất hiện hành
2. Tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn tăng và không tương xứng với tốc độ tăng nguồn huy động các loại vốn này
3. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung ứng
4. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc
5. Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay nền kinh tế bị tăng chậm
PHẦN III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. ĐIỀU HÀNH CUNG ỨNG TIỀN
II. CHÍNH SÁCH NGOẠI HỐI VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
III. CHÍNH SÁCH HUY ĐỘNG VỐN VÀ TÍN DỤNG
IV. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ
V. CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ CHO CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VI.PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ KHÁC
KẾT LUẬN
37 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lớn các nghiệp vụ thị trường mở theo yêu cầu điều chỉnh cung cầu tiền tệ, đặc biệt khi không thể thực hiện được với công cụ tái chiết khấu.
Muốn sử dụng tốt công cụ trên phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Trong điều kiện đó tiền trong lưu thông hầu hết nằm ở tài khoản của ngân hàng. Vì vậy, công cụ này rất hữu hiệu đối với các nước có nền kinh tế phát triển, có thị trường tài chính hoàn chỉnh. Còn ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ.
Phần II
Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
I. Một số thành tựu đạt được
1. Những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua
Bước sang năm 2000, năm bản lề của thế kỷ 21 và cũng là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm lần thứ 6, cũng là năm có ý nghĩa quan trọng trong việc phấn đấu thực hiện các mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991-2000 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và lần thứ VIII đã đề ra.
Thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kế hoạch năm 2000 sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010.
Để thực hiện những kế hoạch đó chúng ta cần có một cách nhìn nhận, phân tích, đánh giá những bài học thực thi chính sách tiền tệ của nước ta trong thời gian vừa qua. Cho đến nay, chính sách tiền tệ ở nước ta chưa đạt đến độ hoàn thiện và tương xứng với những đòi hỏi mà nền kinh tế đặt ra. Nhưng một cách khách quan và công bằng có đủ cơ sở để thừa nhận sự đóng góp của chính sách tiền tệ và thành tựu to lớn của những năm đầu của công cuộc đổi mới mà đất nước ta đã trải qua đầy khó khăn.
Đánh giá một cách nghiêm túc toàn bộ tiến trình thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam, trên hai phương diện đạt được và chưa đạt được, chính là cách tốt nhất để có được một chính sách tiền tệ đủ sức vượt qua những thách thức và trở ngại mà nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1. Một số thành tựu đã đạt được trong thời gian qua
1.a. Đã tiếp cận, vận dụng những quy luật và nguyên tắc kinh tế thị trường vào xác lập, tổ chức vận hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ đã trở thành công cụ không thể thiếu trong điều hành kinh tế vĩ mô, vai trò cũng như tác dụng của nó đến nền kinh tế ngày càng rõ nét và mạnh mẽ. Nếu như trước đây chính sách tiền tệ chỉ là tên gọi chứ chưa có, thì nay chính sách tiền tệ đã được xác định rõ nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ trong mỗi một giai đoạn, trong từng năm tiến hành cải cách đổi mới đất nước. Tuy nền kinh tế nước ta chưa thực sự là nền kinh tế thị trường, nhưng chúng ta đã tìm ra một chính sách tiền tệ phù hợp thích ứng với điều kiện đất nước. Điều đó thể hiện ở những chỉ tiêu vĩ mô khả quan mà Việt Nam đã đạt được trong suốt thời gian gian qua. Các nguyên lý cơ bản dần dần được quán triệt, đồng thời có những sáng tạo thích nghi với điều kiện thực tế cụ thể.
1.b. Đã xây dựng được một môi trường pháp lý: Nhận thức rõ được vai trò tiền đề và động lực của môi trường pháp lý trong sự nghiệp đổi mới chính sách tiền tệ, hệ thống tiền tệ - tín dụng - ngân hàng, trải qua nhiều thử nghiệm tìm tòi và nắm bắt tín hiệu thực tế, chúng đã bước đầu xác lập được những nhân tố cơ bản của môi trường pháp lý. Từ việc ra đời hai pháp lệnh ngân hàng với tư cách là văn bản luật đầu tiên nhằm điều chỉnh các quan hệ quản lý, kinh doanh tiền tệ, tín dụng, ngân hàng đến nay đã có các luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng đã được quốc hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ 1/10/1998. Những năm gần đây, việc đưa hai luật này vào áp dụng trong thực tế đã được chú trọng hết sức nhằm tạo ra một hành lang pháp lý mới thông thoáng và hiệu quả.
1.c. Hoạt động tiền tệ ngân hàng có nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Mặc dù việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và ngăn chặn sự lan truyền của khủng hoảng kinh tế - tài chính châu á đối với nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là tích cực. Thực tế các nước chịu sự tấn công mạnh nhất của cuộc khủng hoảng như Inđônêxia, Hàn Quốc... đậm nét trong khi đó các nước nằm ngoài tầm của cuộc khủng hoảng như Việt Nam. Đối phó với sức ép đó và thực hiện việc lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng trong bối cảnh hội nhập hàng loạt các giải pháp tiền tệ - tín dụng đã được ban hành.
Hệ thống ngân hàng hai cấp ngày nay đang đi vào nề nếp, Ngân hàng trung ương đã thực sự trở thành người cho vay cuối cùng, hệ thống NHTM rộng khắp và hoạt động dưới sự chỉ đạo của NHTW. Việc tự chủ kinh doanh và việc xoá sự bao cấp của nhà nước khiến cho các ngân hàng càng ngày càng phải tích cực giảm thiểu chi phí hoạt động, nhằm kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Các ngân hàng đã nâng cấp nhiều về trang thiết bị, đã đưa được vào công nghệ tiên tiến vào quản lý ngân hàng, trang bị hàng loạt các máy vi tính từ NHTW đến các chi nhánh ngân hàng nhà nước địa phương bằng hệ thống thanh toán qua mạng vi tính đã thu được kết quả khả quan. Đây có thể coi là một bước chuyển về chất lượng trong điều hành hoạt động tiền tệ - ngân hàng. Một vài con số đáng được ghi nhận:
Cho đến hết tháng 6-1999, huy động vốn của hệ thống ngân hàng tăng 9,3% so với đầu kỳ. Ngân hàng ngoại thương đạt 34% đối với đồng nội tệ và 10,6% đối với đồng ngoại tệ. Tổng dư nợ nền kinh tế tăng 6% trong đó tín dụng trung và dài hạn chiếm trên 40% tổng dư nợ và đạt 45,8% trên địa bàn Hà Nội. Phải khẳng định rằng những kết quả đó là rất đáng khích lệ, bởi vì, các lợi thế có được như sự ổn định tương đối của nền kinh tế - chính trị - xã hộ, chi phí vốn thấp và tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Do phương hướng điều hành một chính sách tiền tệ lỏng đã được đặt ra ngay từ đầu năm.
2. Những kết quả đạt được do việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế
2.1. Về chính sách lãi xuất và các công cụ bổ trợ
Do vốn vay chiếm tới 80-90% tổng vốn sản xuất nên việc giảm lãi xuất đã được đặt ra nhằm giảm chi phí hoạt động của nền sản xuất. Tuy nhiên, do hệ thống ngân hàng cũng ở tình trạng rất khó khăn nên lúc đầu, việc hạ lãi xuất chỉ áp dụng đối với các ngân hàng mậu dịch quốc doah (chỉ thị 1/1999/CT-NHNN 29/1/1999 quy định trần lãi xuất tín dụng của các ngân hàng mậu dịch quốc doanh áp dụng đối với khách hàng khu vực thành thị sẽ giảm từ 1,2 xuống 1,1% tháng đối với tín dụng ngắn hạn và từ 1,25 xuống 1,15% tháng đối với tín dụng trung - dài hạn). NHNN đã tiến hành giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (quyết định số 52/1999/QĐ-NHNN ngày 10/2/1999). Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc được coi là bước đệm cho việc hạ lãi xuất đồng loạt vào 31/5/99.
Trong suốt thời gian qua, lãi xuất đã thực sự là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ đắc lực. Đặc điểm sử dụng lãi xuất ngân hàng nhà nước mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng cường vốn đầu tư phát triển kinh tế và thực hiện một số chính sách xã hội. Cho đến nay, ta đã thực thi và hoàn thiện dần cơ chế lãi xuất dương và đang trên con đường tiến tới tự do hoá lãi xuất. Mà một trong những quyết định có tính chất bước ngoặt trên con đườnh tự do hoá lãi suất đó là việc NHNN bãi bỏ việc công bố lãi suất trần cho vay mà thay vào đó là áp dụng lãi suất cơ bản ,các TCTD ấn định lãi xuất cho vay trên cơ sở lãi xuất cơ bản cộng với một biên độ nhất định., cụ thể là:
Đối với đồng Việt Nam lãi suất cơ bản là 0,75 %/ tháng, biên độ dao động là 0,3%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn.
Đối với đồng USD lãi suất cho vay ngắn hạn được xác định trên cơ sở lãi suất SIBOR( lãi suất cho vay bằng USD của thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore) kì hạn 3 tháng, biên độ dao động là 1%/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn được xác định trên cơ sở lãi suất SIBOR 6 tháng, biên độ dao động là 2,5 %/ năm.
Việc vận dụng những công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều đó là hoàn toàn phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta đi lên từ một xuất phát điểm tương đối thấp như nước ta. Việc xây dựng nền móng và tiến dần lên sử dụng các công cụ gián tiếp cũng được chú trọng và đạt nhiều thành tích đáng kể. Công cụ lãi xuất đã nói trên cũng đã tiếp cận dần với lãi xuất thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng linh hoạt và phản ánh được cung cầu vốn trên thị trường. Công cụ dự trữ bắt buộc đã được áp dụng chặt chẽ hơn và có quy định xử phạt rõ ràng. Lãi xuất tái chiết khấu cũng đang được nghiên cứu áp dụng sao cho nó trở thành công cụ chính thay cho lãi xuất tín dụng hiện nay. Thị trường mở đã bắt đầu hoạt động từ 12-7-2000, đồng thời chúng ta cũng tạo ra được một số công cụ để sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
2.2. Về tỷ giá
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong những nằm đầu, Nhà nước vẫn duy trì chính sách hai tỷ giá - tỷ giá do Nhà nước quy định và tỷ giá thị trường tự do. Tỷ giá nhà nước thường thấp hơn thị trường tự do. Với sự duy trì hai tỷ giá cùng với sự khan hiếm ngoại tệ mạnh, nạn đầu cơ ngoại tệ, nâng tỷ giá đã phát triển mạnh. Nhà nước vừa không điều hành được tỷ giá, vừa không dự trữ được ngoại tệ. Việc ấn định tỷ giá gần với tỷ giá thị trường có ý nghĩa quan trọng và còn mang tính chiến lược về kinh tế.
Do đồng tiền của các nền kinh tế châu á có xu hướng ổn định ở mức giá trị thấp so với các ngoại tệ mạnh, nên sức cạnh tranh yếu kém của hàng hoá Việt Nam một phần cũng xuất phát từ chế độ tỷ giá VND. Cùng với các bài học rút ra từ việc điều hành tỷ giá của các nước khủng hoảng, sự ra đời của Luật ngân hàng, vấn đề quản lý ngoại hối được thực hiện nghiêm minh và đặc biệt là sự cải thiện trong việc kiềm chế lạm phát thời gian qua. Thị trường hoá chế độ tỷ giá đã được đặt ra. Quyết định 64/QĐ NHNN ngày 25/2/1999 quy định: “NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân hình thành ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất”.
Trên thị trường, tỷ giá có tăng chút ít vào 2 ngày sau khi quyết định 64 được công bố, tới khoảng 14.150VND/USD ngày 26/2/1999. Nhưng sau đó tỷ giá đã giảm xuống và ổn định ở mức 13.950VND/USD. Như vậy, cơ sở pháp lý cho việc điều tiết tỷ giá của NHNN trên cơ sở thị trường đã được xác lập, góp phần tạo thế ổn định cho sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu. Sự ổn định của tỷ giá sau khi điều chỉnh cơ chế điều hành tỷ giá phần nào phản ánh sự thành công của hoạt động quản lý tiền tệ - ngân hàng.
2.3. Thị trường tín dụng
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng đã được cải thiện theo hướng thị trường, nhưng thực tế sự nôn nóng trong việc vực dậy nền kinh tế đã mở rộng hoạt động tín dụng bao cấp đối với hầu hết các khu vực kinh tế.
Với quy chế 324, cơ chế cải thiện từng bước. Tính hiệu quả được đề cao trong các quyết định tín dụng; thời hạn tín dụng được điều cỉnh theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh, đối tượng vay tín dụng được mở rộng... Song hoạt động tín dụng thực tế vẫn bế tắc. Cho đến 31/3/99, tăng trưởng tín dụng và lãi xuất thực tế mà các ngân hàng cơ sở cho vay đã giảm mạnh. Trước thực trạng đó, cùng với việc đẩy mạnh thực hiện CNH-HĐH- nông nghiệp - nông thôn, cấp tín dụng không cần thế chấp đã được mở rộng theo quyết định 67/QĐ-TTg ngày 31/3/99 và quyết định 148/QĐ-TTg ngày 7/7/99 đã cụ thể hoá vấn đề này với nội dung cụ thể là các hộ nông dân được vay không cần thế chập tới 10 triệu VND. Kết quả khảo sát cho thấy trong 3 tháng 4,5,6 dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn đã tăng mạnh tăng 7%, ngân hàng công thương tăng 8% và ngân hàng ngoại thương 25%.
2.4. Về thị trường tài chính thứ cấp
Quyết định số 140/QĐ-NHNN 14 ngày 19/4/1999 (có hiệu lực sau 15 ngày) về việc mua bán nợ giữa các Tài chính tín dụng cũng là một tư tươngr hoàn toàn mới trong việc điều hành hoạt động tiền tệ và ngân hàng. Thực chất của quy chế này là tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành thị trường thứ cấp các tài sản của hệ thống tài chính tín dụng. Mặc dù thời gian hoạt động chưa nhiều để có thể đánh giá được hoạt động mua, bán nợ giữa các tài chính tín dụng, nhưng có thể khẳng định được sự tồn tại cũng như những tác dụng tích cực của cơ chế này.
Thứ nhất, đối với thị trường tài chính sự ra đời của các thị trường thứ cấp là một tất yếu và sẽ có tác dụng tích cực đối với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, trong điều kiện việc tạo các nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế tương đối hạn chế, mà nhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn, thì việc hình thành thị trường thứ cấp là các tài sản có của hệ thống tài chính tín dụng sẽ có tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi thời hạn giữa các nguồn vốn ngắn hạn sang các khoản tín dụng trung - dài hạn.
Bên cạnh đó, việc thiết lập môi trường pháp lý cho thị trường thứ cấp các tài sản có của hệ thống các trung gian tài chính còn có tác dụng tích cực đối với việc tối đa hoá hiệu suất sử dụng vốn, qua đó góp phần giảm lãi xuất tín dụng và tạo điều kiện cho NHNN thực hiện chức năng ngoài cho vay cuối cùng hiệu quả hơn.
2.5. Kiềm chế lạm phát, ổn định tương đối sức mua của đồng Việt Nam
Cho đến nay, không ai có thể phủ nhận được những thành quả trong việc kiềm chế lạm phát của chính phủ Việt Nam trong thời gian vừa qua mà trong đó chính sách tiền tệ có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát đó.
Trong những năm cuối thập kỷ 80, lạm phát ở Việt Nam luôn ở mức rất cao, còn nền kinh tế tăng tương đối chậm. Nhưng từ đầu thập niên 90 cho đến nay, với việc đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ nên lạm phát đã được giảm thấp và kiềm chế. Năm 1994 (lạm phát 14,4%), năm 1995 (lạm phát 12,7%), năm 1996 (lạm phát 4,5%), năm 1997 (lạm phát 3,6%)... Trong khi đó nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định: năm 1994 (8,8%), năm 1995 (9,5%), năm 1997 (9%). Tháng 6 năm 1998 (6,64%).
Điều đó cho thấy nước ta với điểm xuất phát năm sau cao hơn năm trước, nhịp độ tăng trưởng chẳng những không lùi mà nó vẫn tiếp tục tăng khá cao, đồng thời tỷ lệ lạm phát được kéo xuống. Điều đó khẳng định rằng chính sách tiền tệ của chúng của chúng ta là phù hợp và hiệu quả.
Ngược lại, với xu hướng giảm lạm phát là sự gia tăng nhanh chóng của khối lượng huy động tiết kiệm và khối lượng cho vay so năm 1995 với 1991 số dư tiền gửi tiết kiệm tăng khoảng 3 lần, khối lượng cho vay tăng hơn 4 lần tổng dư nợ đầu tư cho nền kinh tế tăng hơn 50%. Một dấu hiệu đáng khích lệ không kém là cơ cấu tiền vay, tiền gửi ngân hàng dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng nguồn dài hạn. Còn có thể kể ra những đóng góp khác của chính sách tiền tệ trong việc tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, xoá đói giảm nghèo...
Tuy vậy, cần lãm rõ cốt lõi của tất cả các thành tựu đạt được. Điểm mấu chốt nằm trong sự phù hợp của hướng tiếp cận đến chính sách tiền tệ với lôgic của tiến trình đổi mới.
Có 3 đặc trưng chính thể hiện sự phù hợp đó:
Một là, chính sách tiền tệ quán triệt đi theo đường lối chuyển sang kinh tế thị trường mở cửa.
Hai là, nỗ lực để chính sách tiền tệ thực sự trở thành công cụ điều hành kinh tế vĩ mô hữu hiệu trong tay nhà nước.
Ba là, sự đồng hướng và phù hợp của chính sách tiền tệ với tất cả các chính sách kinh tế vĩ mô khác được áp dụng trong quá trình đổi mới.
ở những mức độ khác nhau, cả 3 đặc trưng này đều chứa đựng trong từng giải pháp tiền tệ đã nói trên. Tổ hợp chúng lại đó là lời giải thích đầy đủ hơn cả về thành công của chính sách tiền tệ của toàn bộ quá trình chuyển đổi nền kinh tế nhìn từ góc độ chính sách tiền tệ. Với cách tiếp cận đó, chính sách tiền tệ đã góp phần to lớn vào việc thực hiện hai mục tiêu khôi phục ổn định và thức đẩy tăng trưởng kinh tế.
II. Tồn tại và nguyên nhân
Trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ thời gian qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những bộc lộ yếu kém. Có thể tóm tắt những mặt còn tồn tại, hạn chế của chính sách tiền tệ của nước ta trong thời gian qua như sau:
Việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam mới dừng ở điểm “sơ khai”, “xuất phát”. Thông thường NHNN dựa vào những tín hiệu của nền kinh tế để xác định lượng tiền cung ứng trình chính phủ phê duyệt, bổ sung, điều chỉnh. Vẫn mang nặng tính “đối phó” trước mắt mà còn chưa có được tính “chiến lược lâu dài” nên dễ bị động, hiệu quả và độ tin cậy thấp.
Việc thực thi các công cụ chính sách còn nhiều mặt hạn chế:
+ Hạn mức tín dụng **** NHNN có quy định cho các NHTM nhưng tốc độ tăng dư nợ chậm. Do đó, ý nghĩa thực của công cụ này trước thực tế hiện nay chưa phát huy được tác dụng.
+ Nghiệp vụ thị trường mở mới ở giai đoạn thí điểm, dự báo vốn khả dụng.
+ Công cụ lãi xuất được sử dụng thường xuyên, linh hoạt hơn đã theo tín hiệu thị trường để điều chỉnh. Tuy nhiên, có lúc lãi xuất thay đổi còn chậm so với thực tế, đồng thời có thời kỳ lại liên tục điều chỉnh gây khó khăn cho người gửi cũng như người vay, dễ hoang mang, thiếu ổn định về tâm lý... Việc tính toán điều chỉnh lãi xuất mới chỉ dựa vào hiệu ứng về hình thức biểu hiện của chỉ số giá cả tăng, giảm (nặng về quan điểm “trọng tiền”. Chỉ số lạm phát = chỉ số tăng giá cả bình quân = lãi xuất tăng). Trong khi còn nhiều yếu tố tác động khác làm cho giá cả biến động nhưng chưa được phân tích một cách sâu sắc và chưa lượng hoá thành các tiêu chí cụ thể để xử lý tổng thể. Chẳng hạn, nếu sức mua của dân giảm (do nhiều nguyên nhân khác nhau) sẽ dẫn đến giá cả giảm (nhìn theo góc độ cung cầu) hoặc ngược lại. Trong trường hợp này, nếu không phân tích đầy đủ, tìm hiểu kỹ nguyên nhân dẫn đến sức mua giảm của dân cư, mà dừng ở mức cảm nhận, dự đoán để quyết định việc thay đổi lãi xuất giảm thì chưa đủ độ tin cậy đảm bảo tính xác thực, khách quan của sự biến động đó. Rất có thể bất lợi khi điều chỉnh.
Mặt khác, yếu tố tâm lý, sở thích của người dân trong từng điều kiện cụ thể cũng tác động đến quan hệ cung cầu (có những tác động “giả”). Vậy điều cần phải làm là tìm tín hiệu thực và phải lượng hoá các yếu tố tác động cụ thể.
+ Công cụ tỷ giá, lâu nay NHNN sử dụng để điều chỉnh tăng giảm biên độ quan hệ tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ. Như chúng ta đã biết, lý thuyết xác định tỷ giá căn cứ vào giá cả bình quân của một số loại giá cả hàng hoá chủ yếu mỗi nước. Có nghĩa, khi giá cả bình quân của mỗi nước thay đổi sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá. Đối với Việt Nam, việc xác định tỷ giá chủ yếu vẫn dựa vào hiện tượng giá cả biến động và dự đoán những tác động để xác định và điều chỉnh. Việc đưa ra những cơ sở, tiêu thức và một phương pháp tính toán cụ thể cho từng yếu tố tác động (đo bằng lượng giá trị) vẫn đang là những vấn đề trăn trở.
Chưa có biện pháp hữu hiệu tập trung các nguồn lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thị trường tiền tệ chưa phát triển
Hoạt động ngân hàng còn nhiều biểu hiện chưa lành mạnh
(Quy định, quy chế chưa được chấp hành nghiêm chỉnh...)
Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính quốc gia chưa thực sự ăn khớp với nhau. Chúng ta tìm hiểu sâu hơn về từng khía cạnh cụ thể sau.
1. Những tồn tại trong cơ chế lãi xuất hiện hành
Tháng 6/1992 đã được NHNN coi là một mốc quan trọng, đánh dấu sự chuyển giai đoạn từ chính sách lãi xuất âm sang chính sách lãi xuất thực dương, chấm dứt khâu cuối cùng của sự bao cấp qua tín dụng, bắt đầu chính sách lãi xuất tín dụng hoạt động theo cơ chế thị trường, nhưng thực tế hoạt động lại hoàn toàn khác.
NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi xuất của NHTM, vẫn còn quy định nhiều mức lãi xuất khống chế khác nhau. Bắt đầu là khung lãi xuất rời bây giờ là lãi suất cơ bản và chênh lệch lãi xuất. Cho đến nay, hầu như NHTM ở nước ta chưa tạo được nhiều nguồn vốn dài hạn, thể hiện ở lãi xuất ngân hàng còn mang nặng tư duy kinh tế thời bao cấp, người gửi tiền dài hạn muốn lãi xuất cao, người vay vốn dài hạn đòi lãi xuất thấp.
Còn có sự chênh lệch lớn giữa lãi xuất tín phiếu kho bạc và lãi xuất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng nên nhiều khi ảnh hưởng lớn đến hoạt động nguồn vốn của ngân hàng. Ta biết rằng, tín phiếu kho bạc là do một cơ quan thuộc bộ máy quản lý tài chính nhà nước (kho bạc nhà nước) thay mặt chính phủ phát hành nhằm huy động tiền mặt trong xã hội theo yêu cầu cân đối ngân sách nhà nước từng thời kỳ, việc vay này, không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, bởi vậy, thường có mức lãi xuất cao hơn lãi xuất tiền gửi ngân hàng. Vì vậy, tín phiếu kho bạc đã thu hút được người cho vay (mua) hơn là gửi tiền vào ngân hàng, làm cho ngân hàng khó khăn vì giảm phần nào vốn huy động, làm ảnh hưởng đến quy mô tín dụng đã được định trước theo kế hoạch, ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch tài chính và nghĩa vụ với NHNN và sâu hơn nữa là phá vỡ sự kiến thiết mặt bằng lãi xuất tín dụng. Có thể nó, do sự nghèo nàn về chủng loại các sản phẩm đầu tư tài chính đã dẫn đến tình trạng, tiền gửi tiết kiệm ngân hàng vẫn tăng trong khi lãi xuất huy động liên tục giảm xuống. Đứng trước tình trạng này, hệ thống ngân hàng cho rằng nhà nước cần phải thực hiện chính sách bội chi ngân sách cao hơn. Trong đó ngân sách nhà nước chỉ cấp một phần vốn cho các công trình lớn, phần còn lại để chủ công tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài (vay các ngân hàng thương mại).
Việc xử lý mối quan hệ giữa lãi xuất và tỷ giá hối đoái bằng việc tăng nhẹ dần lãi xuất cho vay bằng VND và điều chỉnh lãi xuất tiền gửi bằng ngoại tệ trong năm 1998 là kịp thời, góp phần điều hoà thị trường nội, ngoại tệ hạn chế chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ.
Tuy nhiên, việc tăng nhẹ trần lãi xuất cho vay bằng VND sẽ gây thêm khs khăn cho sản xuất kinh doanh trong nước, nhất là khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái. Mặt khác, lãi xuất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng tuy có giảm từ 1 á 15%/năm nhưng tỷ giá lại điều chỉnh tăng 15% (theo tỷ giá chính thức) tăng 13% (theo tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng). Hơn nữa, lãi xuất tổng tiền vay ngoại tệ giảm nhưng tỷ giá hối đoái tăng làm hạn chế nhu cầu vay bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất kinh doanh dẫn tới tình trạng nền kinh tế thiếu vốn.
2. Tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn tăng và không tương xứng với tốc độ tăng nguồn huy động các loại vốn này.
Trong vòng quay kinh tế thị trường, nhu cầu vốn là rất cao, thì nguồn vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm cho đầu tư còn hạn hẹp, vốn tự có của doanh nghiệp rất nhỏ, do vậy các doanh nghiệp khi cần vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh đều trong chờ vào nguồn vốn trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, nguồn vốn chủ yếu của các NHTM là nguồn vốn ngắn hạn (chiếm tới 90%) nên các NHTM không đáp ứng được nhu cầu vốn trung và dài hạn. Tình trạng này chưa có giải pháp tối ưu, mới chỉ có giải pháp tình thế là ngành ngân hàng cho phép “Trích 20% tổng nguồn vốn ngắn hạn sang cho vay trung hạn”, còn doanh nghiệp thì “lấy ngắn nuôi dài”. Sở dĩ tình trạng trên tồn tại là vì:
Thứ nhất, yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng là thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay ở giai đoạn sơ khai, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần tuý. Mặt khác hệ thống luật pháp còn thiếu những quy định toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt động, huy động vốn, tiếp theo là những hạn chế của chính ngành ngân hàng trong việc kiểm soát mọi hoạt động, chu chuyển tiền vốn của các doanh nghiệp.
Thứ hai, hiện nay những người có tiền nhàn rỗi chưa dùng hết thì chưa tìm kiếm được những địa chỉ tin cậy, bản thân từng ngân hàng chưa khẳng định được những khoản tiền gửi dài hạn thì lợi ích của người gửi tiền được đảm bảo lâu dài như thế nào, lợi nhuận là bao nhiêu...
Thứ ba, các ngân hàng còn thiếu các công cụ huy động vốn dài hạn và thiếu thị trường thứ cấp để luân chuyển và tạo ra tính thanh khoản dễ dàng của các công cụ này.
3. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung ứng
Thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. NHNN đã sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn như là công cụ để điều tiết việc mở rộng hay thu hẹp tổng khối lượng tiền hay tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Từ tổng khối lượng tiền cung ứng được phép tăng lên hàng năm NHNN kiểm soát chặt chẽ khối lượng tín dụng tương ứng cho các NHTM qua nghiệp vụ tái cấp vốn. Tuy nhiên, do trong nền kinh tế chưa lưu thông hối phiếu và thương phiếu nên NHNN chưa có điều kiện thực hiện taí cấp vốn qua tái chiết khấu các kỳ phiếu thương mại, cũng như chưa tái cấp vốn qua thế chấp bằng những chứng từ có giá. Trên tầm vĩ mô NHNN vẫn chưa kiểm soát được toàn bộ các kênh tín dụng nằm ngoài ngân hàng, như khối lượng tín dụng của Tổng cục đầu tư và hệ thống kho bạc. Đây là một mảng của tổng phương tiện thanh toán cần nằm trong sự kiểm soát của NHNN.
4. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc
Từ năm 1991, dự trữ bắt buộc được áp dụng như một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ theo pháp lệnh ngân hàng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể ở mức 10% đến 35% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Song xét hoàn cảnh thực tế, tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và mức lạm phát đã được kiềm chế cho NHNN Việt Nam quyết định dự trữ bắt buộc ở mức 10% và có giảm xuống phù hợp từng thời điểm nhất định . Nhưng kỷ luật chấp hành của các NHTM chưa nghiêm nên tác dụng của các công cụ này kém hiệu quả.
5. Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0703.doc