MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ CÁC CÔNG CỤ CỦA NÓ 2
I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2
1. Khái niệm về CSTT&Vai trò của chính sách tiền tệ. 2
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 3
3. Nội dung của chính sách tiền tệ. 5
II. CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA NÓ. 6
1. Các công cụ trực tiếp. 7
2. Các công cụ gián tiếp 8
3. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới 10
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Ở VIỆT NAM 12
I. BỐI CẢNH CHUNG 12
II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN 12
1. Giai đoạn 1986 - 1988 13
2. Giai đoạn 1989 - 1991 13
3. Giai đoạn 1992 - 1995 13
4. Giai đọan 1996 - 2000. 14
III. CÁC THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG THỜI GIAN QUA. 16
1. Một số thành tựu của CSTT trong thời gian qua. 16
2. Những kết quả đạt được do việc xd & thực thi CSTT đúng hướng,
phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. 17
IV. NHỮNG TỒN TẠI TRONG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM& NGUYÊN NHÂN 19
1. Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành. 20
2. Tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn tăng không tương xứng với tốc độ tăng
nguồn huy động các loại vốn này. 21
3. Tái cấp vốn và kiểm soát lượng tiền cung ứng. 21
4. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc. 22
5. Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay
nền kinh tế bị tăng chậm. 22
PHẦN III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 23
1. Chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp 23
2. Phát triển thị trường tiền tệ 25
3. Cải cách hệ thống ngân hàng 26
4. Các điều kiện khác. 28
KẾT LUẬN 30
Tài liệu tham khảo 31
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5056 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào đồng Mark Đức. Tuy nhiên nó cung có những mặt hạn chế như làm mất đi tính độc lập của các chính sách tiền tệ; do có sự ổn định của đồng tiền, các nhà đầu tư không lường hết được mọi sự rủi ro và làm luồng vốn đổ vào tăng nhanh, khi vốn bị rút ra một cách bất ngờ thì đây là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng mức độ trầm trọng của các cuộc khủng hoảng; nó cũng loại bỏ đi những dấu hiệu quan trọng cho thấy chính sách tiền tệ đã quá bành trướng nhưng đến khi NHNN nhận ra thì đã muộn.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHNN có thể chọn một tỷ lạm phát không giống các quốc gia khác tuỳ theo sự biến động của sản lượng. Chế độ tiền tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lập tức cho cả công chúng và thị trường về tình trạng của chính sách tiền tệ cũng như ý định của các nhà làm chính sách trong việc kiểm soát lạm phát. Mỹ, Anh, Canada đã không thành công trong việc kiểm soát vì việc theo đuổi chính sách này không được chặt chẽ và mối liên hệ không ổn định giữa khối lượng tiền tệ và các biến mục tiêu như lạm phát. Thế nhưng Đức và Thuỵ Sĩ lại thành công khi áp dụng và do đó hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến ủng hộ mạnh mẽ và nó đang được xem xét như là một chính sách tiền tệ chính của NHTW các nước Châu Âu.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát: Niu Dilân là quốc gia đầu tiên thực hiện theo chính sách này vào năm 1990 tiếp theo là Canada (1991) Anh (1992)...Chính sách này có một số lợi điểm quan trọng. Nó cho phép sử dụng chính sách trong việc đối phó với các cú sốc trong nội địa, ngoài ra nó dễ hiểu và có tính minh bạch cao. NHTW có trách nhiệm công khai về con số mục tiêu lạm phát, nó sẽ cung cấp thông tin cho công chúng và những người tham gia thị trường tài chính cũng như các nhà chính trị, đồng thời nó làm giảm bớt tính không chắc chắn của chính sách tiền tệ, lãi suất và lạm phát. Một đặc tính quan trọng nữa của chế độ tiền tệ này là nó làm tăng tính trách nhiệm của NHTW.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm chứ không công khai: Milton Friedman đã nhấn mạnh tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ khá lớn. Do đó chính sách tiền tệ sẽ mất thời gian khá dài để có thể tác động tới lạm phát. Vì vậy để ngăn chặn lạm phát xuất hiện, NHNN cần phải hành động theo kiểu dự báo đón trước nhằm đưa ra chính sách tiền tệ phù hợp. Lí do cơ bản cho việc sử dụng chiến lược này chính là sự thành công của nó mà điển hình là ở Mỹ trong vài năm gần đây. Một nhược điểm quan trọng của chiến lược náy là nó thiếu tính minh bạch. Nhưng nhược điểm lớn nhất là nó phụ thuộc quá nhiều vào sở thích, năng lực và độ tin cậy của những người có trách nhiệm trong NHNN. Những bất lợi đó có thể làm cho chiến lược hoạt đông không tốt trong tương lai.
Bốn loại chính sách tiền tệ được đề cập trên đây đều có những ưu và nhược điểm riêng của mình. Các kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và tính có trách nhiệm là điều cốt yếu để điều khiển một chính sách tiền tệ nhằm mang lại một kết quả mong muốn trong dài hạn. việc sử dụng loại chế độ nào là tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá và lịch sử của từng quốc gia.
Phần II: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
I. Bối cảnh chung
Sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải đi những bước đầu tiên, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống ngân hàng, vừa định hướng chính sách tiền tệ.
Từ năm 1990, sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành( pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng – Hợp tác xã tín dụng – Công ty tài chính ), hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị trường.
Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: chính sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp vốn, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với sự biến động của lạm phát...; chính sách quản lí ngoại hối và một số công cụ hỗ trợ khác.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện vai trò quản lí thông qua: ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành các chính sách ấy hoạt động có hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng gọn nhẹ có khoa học; củng cố hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, mở rộng quan hệ quốc tế; xây dựng qui chế, cấp giấy phép thành lập và quản lý hệ thống các tổ chức tín dụng đa thành phần; xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn thiện, có hiệu quả, góp phần kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam.
Đến tháng 10 / 1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng: Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức Tín dụng. Hai luật này đã giúp hoạt động của hệ thống ngân hàng được tự do hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
II. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam qua các giai đoạn
Chính sách tiền tệ của NHNN là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6. Thời kì 1986 đến 2000 có thể chia làm 4 giai đoạn
1. Giai đoạn 1986 - 1988
Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt quá tổng cung. Tình trạng thiếu ngân sách xảy ra thường xuyên vì vậy Nhà nước liên tục phát hành tiền để bù thiếu hụt khiến cho nền kinh tế luôn trong trạng thái bát ổn định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số (siêu lạm phát). Xuất phát từ thực trạng đó, nhiệm vụ chống lạm phát đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy đã có hai thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ:
- Đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường
- Thi hành chế độ lãi suất thực dương.
Điều này đã làm nên những thay đổi mạnh mẽ dảo ngược tình hình. Với mục tiêu trực tiếp là đem lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam, những thay đổi trên đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân đối với đồng nội tệ, các quan hệ thị trường được hình thành, tạo ra những cơ sở vững chắc để biến tư tưởng đổi mới trở thành xu hướng thực tiễn.
2. Giai đoạn 1989 - 1991
Các chính sách tiền tệ mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao. Nhưng lạm phát ở mức trên 66% năm 1990 –1991 là không thể tránh khỏi vì nhuồn lực cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi hướng theo hệ thống kinh tế thị trường.
Đi đôi với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi và giảm bội chi, việc tăng cường động viên tài chính và hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng kinh tế cũng được quan tâm thích đáng. Đặc biệt cải cách hệ thống thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác động tích cực trong mở rộng và tập trung kịp thời nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
3. Giai đoạn 1992 - 1995
Đây là giai đoạn nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sự ổn định đã đi vào chế độ dừng. Việc cung ứng tiền tệ cho bội chi ngân sách đã chấm dứt, cải cách thuế đã thay đổi cơ bản thu chi ngân sách Nhà nước, các chính sách kinh tế đưa ra phú hợp vứi nền kinh tế đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường làm cân bằng tổng cung và tổng cầu hàng hoá. Việc điều hành quản lý kinh tế tuy vậy vẫn ở dạng thô. Do vậy nền kinh tế không tránh khỏi những giao động về lạm phát.
Lạm phát giai đoạn 1991-1995
Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiếu hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng đã qui định cơ sở cho việc thành lập hệ thống ngan hàng hai cấp. Bên cạnh đó Nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ giúp kĩ thuật của các tổ chức tài chính quốc tế. cán cân thanh toán đã có chiều hướng thuận lợi.
Bên cạnh những thành tựu đạt được như kiềm chế lạm phát, quản lí ngoại hối, chính sách lãi xuất... việc điều hành chính sách tiền tệ cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Cụ thể:
- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế thị trường: lãi suất còn cao và chưa được điều chỉnh khéo léo, linh hoạt phù hợp với yêu cầu đặt ra của nền kinh tế; công cụ dự trữ bắt buộc chưa phát huy hết tác dụng; cán cân thanh toán còn bị thâm hụt lớn; việc chi tiêu ngân sách còn gặp nhiều bất cập, đôi khi gây ra những ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
- Trên thực tế vẫn xảy ra hiện tượng phát hành để bù đắp chi tiêu gây ra hiện tượng lạm phát ngoài dự kiến.
- Công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ là hoạt động thị trường mở trong khi thị trường tín phiếu kho bạc hình thành chậm làm cho NHNN khó khăn trong việc điều hành công cụ này.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính nhiều khi chưa ăn khớp nhịp nhàng.
4. Giai đọan 1996 - 2000.
Trong giai đoạn này mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính trong giai đoạn này, mục tiêu kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn so với mục tiêu kiểm soát, ổn định kinh tế, tốc độ tăng trưởng đồng đều trong các năm, tỷ lệ lạm phát giao động không quá mạnh. Cố gắng đạt cán cân thanh toán quốc tế từ thiếu hụt tới cân bằng vá tiến tới thặng dư. Đảm bảo trạng thái cân bằng ngân sách, tăng thu giảm chi nhất là các khoản chi điều hành để tập trung cho đáu tư công cộng.
Một số nội dung chính trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ trong thời kì này:
- Hạn mức tín dụng: việc đưa ra hạn mức tín dụng sẽ tạo ra những nhân tố khó khăn cho các NHTM. Mặc dù công cụ này đã được áp dụng từ năm 1994 và đã có những tác đọng hiệu quả nhưng từ quý II năm 1998 NHNN đã không áp dụng công cụ này như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.
- Dự trữ bắt buộc: theo quy chế dự trữ bắt buộc được ban hành theoQuyết định số 1991/1999/QD-NHNN1 năm 1997, NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng(6%_đối với tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn;6% trung và dài hạn). Đồng thời cũng qui định trả lãi cho dự trữ vượt quá, mức phạt nếu tổ chức tín dụng thiếu khoản dự trữ bắt buộc. Những quy định này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ đọng trong điều hành nguồn vốn kinh doanh và thực hiện dự trữ bắt buộc đúng như quy định phù hợp mục tiêu hành chính sách tiền tệ.
- Tái cấp vốn: thông qua hình thức cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM, NHNN thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các NHTM. Năm 1998 lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ 1% tháng lên 1,1% tháng. Năm 1999, cùng với việc giảm trần lãi suất cho vay lãi suát tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85% tháng.
- Lãi suất: thời kì này đánh dấu sự thay đổi căn bản về điều hành lãi suất thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế của Việt nam. NHNN điều hành chính sách lãi suất thông qua mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chée theo tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35% tháng. Trong phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được công bố, các ngân hàng thương mại được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầuvề vốn và đặc điểm kinh doanh riêng.
- Nghiệp vụ thị trường mở: ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên. Công cụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có ưu điêmr hơn hẳn các công cụ khác, cho phép NHNN chủ động linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ. Do vậy việc áp dụng công cụ thị trườnt mở đánh dấu bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN từ việc sử dụng những công cụ cứng nhắc mang tính hành chính sang công cụ linh hoạt và hiệu quả hơn.
Tỉ lệ tăng tổng phương tiện thanh toán (%)
Tỉ lệ tăng
lượng tiền
cung ứng (%)
Tỉ lệ tăng dư nợ tín dụng (%)
Tỉ lệ tăng vốn huy động (%)
1996
22,7
22,7
1997
26,1
26,1
22
25,7
1998
23,9
25,6
16,4
34
1999
39,25
39,3
19,2
34
2000
20
25
21
25
Để triển khai và thực hiện thắng lợi CSTT trong giai đoạn tiếp theo, giai đoạn 2001-2005,2005-2010 góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từ năm 2001 đến 2010. Muốn vậy, chúng ta cần có cách nhìn nhận, phân tích,đánh giá những bài học thực thi CSTT ở nước ta trong thời gian qua
Từ quá trình thực hiện CSTT ở nước ta chúng ta cần rút ra được các bài học kinh nghiệm,thấy được thành công cũng như hạn chế của quá trình thực hiện CSTT ở Việt nam để từ đó có một CSTT đủ sức vượt qua các thách thức và trở ngại.
III. Các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua.
Cho đến nay, CSTT ở nước ta chưa đạt đến độ hoàn thiện và tương xứng với những đòi hỏi mà nền kinh tế đạt ra. Nhưng một cách khách quan và công bằng mà nói thì chúng ta đã có đủ cơ sở để thừa nhận sự đóng góp to lớn của CSTT vào thành tựu to lớn của những năm đầu trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng và nhân dân ta.
1. Một số thành tựu của CSTT trong thời gian qua.
a. Đã tiếp cận và vận dụng những quy luật,nguyên tắc của KT thị trường vào xác lập tổ chức vận hành CSTT. CSTT đã trở thành công cụ không thể thiếu trong điều hành KT vĩ mô, Vai trò của nó đối với nền KT ngày càng rõ nét và mạnh mẽ.
Nếu như trước đây,CSTTchỉ là tên gọi chứ chưa có thì nay CSTT đã xác định được rõ nội dung, nhiệm vụ, mục tiêu trong từng giai đoạn của công cuộc cải cách KTXH của nước ta.Tuy nền kinh tế nước ta chưa thực sự là nền KT thị trường nhưng chúng ta đã tìm được một CSTT phù hợp thích ứng với điều kiện đất nước. Điều đó thể hiện ở những chỉ tiêu vĩ mô khả quan mà Việt Nam đã đạt được trong suốt thời gian qua.ác nguyên lý cơ bản dần dần dược quán triệt,đồng thời có những sáng tạo thích nghi với điều kiện thực tế cụ thể.
b. Đã xây dựng được một môi trường pháp lý thuận lợi, nhận thức rõ vai trò tiền đề và động lực của môi trường pháp lý trong sự nghiệp đổi mới CSTT,hệ thống tiền tệ_tín dụng_ngân hàng.Trải qua nhiều thử nghiệm, tìm tòi, nắm bắt tín hiệu thực tế chúng ta đã bước đầu xác lập ngững nhân tố cơ bản của môi trường pháp lý,từ việc ra đời hai pháp lệnh NH với tư cách là những văn bản luật đầu tiên nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp lý,kinh doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng,cho đến nay đã có luật NHNN,luật Các tổ chức tín dụng đã được quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/10/1998.Những năm gần đây, việc đưa hai bọ luật này vào áp dụng trong thực tế đã được chú trọng hết sức nhằm tạo ra một hành lang pháp lý mới thông thoáng và có hiệu quả.
c. Hoạt động tiền tệ, ngân hàng có nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Hệ thống ngân hàng hai cấp ngày nay đang đi vào nề nếp, NHNN đã thực sự trở thành người cho vay cuối cùng, hệ thống NHTM rộng khắp và hoạt động dưới sự chỉ đạo của NHNN. Việc tự chủ kinh doanh và xoá bao cấp khiến cho các ngân hàng càng ngày càng phải giảm thiểu chi phí hoạt động, nhằm kinh doanh có hiệu quả nhất. Các NH đã nâng cấp nhiều về trang thiết bị, đưa công nghệ tiên tiến vào hoạt động quản lý, xây dựng một hệ thống thanh toán thông qua mạng lưới vi tính hiện đại.Đây có thể coi là một bước biến chuyển khả quan về chất lượng trong điều hành hoạt động tiền tệ-ngân hàng của nước ta.
2. Những kết quả đạt được do việc xd & thực thi CSTT đúng hướng, phù hợp với diễn biến của nền kinh tế.
a. Chính sách lãi suất.
Trong suốt thời gian qua, lãi suất đã thực sự là một công cụ điều hành CSTT rất đắc lực. Đặc điểm sử dụng lãi suất NHNN mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng cường vốn đầu tư phát triển KT và thực hiện một số chính sách XH.Cho đến nay, ta đã thực thi và hoàn thiện dần dần cơ chế lãi suất dương và đang trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất. NHNN đã công bố cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất trong kinh doanh theo một phạm vi nhất định,vào 1/1/1996. Luật ngân hàng nhà nước (10/1998) quy định tại diều 18: ”NHNN công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”& tại điều 19 quy định: “lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”.
Những thành công trên là kêt quả của cả một quá trình từ diều chỉnh lãi suất một cách tình thế sang một cách chiến lược có tính lâu dài cho cơ chế lãi suất.
Việc vận dụng các công cụ trực tiêp của chính sách tiền tệ vẫn rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của nước ta. Việc xây dựng nền móng và tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp cũng được chú trọng và đạt nhiều thành tích đáng kể.
b. Chính sách tỷ giá.
Trong những năm dầu của thời kì đổi mới, Nhà nước vẫn duy trì chính sách hai tỷ giá:tỷ giá do NHNN quy định& tỷ giá do thị trường quy định.Cùng với nó lạn khan hiếm ngoại tệ mạnh làm cho nạn đầu cơ xuất hiện làm tỷ giá tăng mạnh.
Nhà nước vừa không điều hành được tỷ giá vừa không dự trữ được ngoại tệ mạnh.Vì vậy, việc ấn định tỷ giá gần vơi tỷ giá trên thị trường có ý nghĩa quan trọng và mang tính chiến lược về kinh tế. Ngày 25/2/1999 NHNN ra quyết định 64/QĐ NHNN “NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân hình thành ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất”. Như vậy Cơ sở pháp lý cho việc điều hành tỷ giá của NHNN trên cơ sở thị trường đã được xác lập, góp phần tạo thế ổn định cho sản suất trong nước và khuyến khích xuất khẩu.Sự ổn định của tỷ giá sau khi điều chỉnh cơ chế điều hành tỷ giá phần nào phản ánh sự thành công của hoạt động quản lý tiền tệ _ngân hàng.
c. Thị trường tín dụng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng đã được cải thiện, song hoạt động tín dụng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Với quy chế 324, cơ chế cải thiện từng bước: tính hiệu quả được đề cao trong các quyết định tín dụng, thời hạn tín dụng được điều chỉnh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, đối tượng cho vay được mở rộng,thủ tục nới lỏng...đã làm cho hiệu quả tín dụng tăng lên đáng kể.
d. Thị trường tài chính thứ cấp.
Quyết định số 140/QĐ NHNN ra ngày 19/4/1999( có hiệu lực sau 15 ngày) về mua bán nợ giữa các tổ chức tài chính tín dụng cũng là một tư tưởng hoàn toàn mới trong việc điều hành hoạt động tiền tệ ngân hàng. Thực chất của quy chế này là tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành thị trường thứ cấp các tài sản của hệ thống tài chính tín dụng. Mặc dù thời gian hoạt động chưa nhiều để có thể đánh giá được hoạt động mua bán nợ giữa các tổ chức tài chính tín dụng, nhưng có thể khẳng định được sự tồn tại cũng như tác dụng tích cực của cơ chế này.
Thứ nhất,đối với thị trường tài chính, Sự ra đời của thị trường thứ cấp là một tất yếu vãe có tác dụng tích cực đối với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, trong điều kiện tạo các nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế tương đối hạn chế, thì việc hình thành thị trường thứ cấp làm các tài sản có của hệ thống TCTD sẽ có tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi thời hạn giữa các nguồn vốn ngắn hạn sang các khoản tín dụng trung và dài hạn.
Hơn thế nữa, Việc thiết lập môi trường pháp lý cho thị trường thứ cấp các tài sản có của hệ thống trung gian TC, còn có tác dụng đối với việc tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn qua đó góp phần giảm lãi suất tín dụng và tạo điều kiện cho NHNN thực hiện làm người cho vay cuối cùng hiệu quả hơn.
e. Kiềm chế lạm phát ổn định sức mua đồng VNĐ.
Không một ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của CSTT trong việc kiềm chế lạm phát của chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Từ khi đổi mới đến nay, nhờ CSTT và hoạt động NH được cải thiện đổi mới mà lạm phát đã giảm thấp và được kiềm chế( Năm 1994 tỷ lệ lạm phát là 14,4%; năm 1995 là 12,7%; năm 1996 là 4,5%; năm 1997 là 3,6%..).trong khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vẫn khá ổn định và ở mức cao.
Ngoài các thành công đã nêu trên, CSTT còn đóng góp rất nhiều vào các lĩnh vực khác như: tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, xoá đói giảm nghèo..
Tuy vậy, chúng ta cần làm rõ cốt lõi của tất cả các thành tựư đã đạt được. Điểm mấu chốt nằm trong sự phù hợp của hướng tiếp cận đến CSTTvới lôgic của tiến trình đổi mới. Có 3 đặc trưng chinh thể hiện sự phù hợp đó:
Một là, CSTT quán triệt đi theo đường lối chuyển sang kinh tế thị trường.
Hai là, Nỗ lực để CSTT thực sự trở thành công cụ điều hành KT vĩ mô hữu hiệu trong tay nhà nước.
Ba là, Sự đồng nhất và phù hợp của CSTT với tất cả các chính sách kinh tế vĩ mô khác được áp dụng trong quá trình đổi mới.
Tại các mức độ khác nhau, cả 3 đặc trưng trên đều chứa đựng trong từng giải pháp tiền tệ đã nói ở trên. Tổ hợp chung lại là lời giải thích đầy đủ hơn cả về thành công của chính sách tiền tệ trong toàn bộ quá trình chuyển đổi nền kinh tế nhìn từ góc độ CSTT. Với cách tiếp cận đó, CSTT đã góp phần to lớn vào việc thực hiện hai mục tiêu khôi phục ổn định& thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình thực thi CSTT thời gian qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những bộc lộ yếu kém.
IV. Những tồn tại trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam& nguyên nhân
Chính sách tiền tệ của NHNN thời gian qua đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ đang bộc lộ những thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính – tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô trong đó có chính sách tiền tệ, đe doạ sự ổn định kinh tế về trung và dài hạn. Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Có thể nêu một số điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Việc xây dựng và điều hành CSTT của Việt Nam mới dừng ở diểm “sơ khai”,”xuất phát”. Thông thường NHNN dựa vào các tín hiệu của nền kinh tế để xác định lượng tiền cung ứng trình CP phê duyệt, bổ sung, diều chỉnh; Vẫn mang nặng tính đối phó trước mắt mà còn chưa có tính chiến lược lâu dài nên dễ bị động, hiệu quả và độ tin cậy thấp.
Thứ hai, kinh doanh của hầu hết các NHTM còn gò bó, thiếu chủ động, tự chủ. Phần lớn các NHTM cổ phần hiện nay đều trong tình trạng thua lỗ. Nguồn vốn tín dụng còn hạn hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn phân tán, hiệu quả thấp. Rủi ro tín dụng ngân hàng là đáng lo ngại và luôn luôn thường trực.
Thứ ba, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển, chưa có những điều kiện căn bản để từng bước tự do hoá lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái. Thị trường vốn mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung cấp vốn đầu tư trung dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu kém. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn daì hạn nói chung mới bắt đầu và còn gặp không ít khó khăn. Đó là những trở ngại lớn cho NHNN tiến hành các hoạt động nghiệp vụ trên thị trường nhằm đạt được mục tiêu kinh tế của đất nước.
Thứ tư, sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng từ nợ nước ngoài cũng như gánh nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây. Thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên chính khiến đồng tiền Việt Nam bị quá cao, kích thích tâm lí tích trữ dưới dạng ngoại tệ. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay...
Chúng ta hãy xem xét những bất cập đó thông qua các khía cạnh sau:
1. Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành.
Tháng 6/1992 là một mốc quan trọng, đánh giá sự chuyển giai đoạn từ chính sách lãi suất âm sang CSLS thực dương, chấm dứt khâu cuối cùng của sự bao cấp tín dụng, bắt đầu CSLS tín dụng hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhưng thực tế hoạt động lại chưa được như mong muốn.
NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi suất của các NHTM, vẫn còn quy định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau. Bắt đầu là khung lãi suất rời bây giờ là trần lãi suất và chênh lệch lãi suất. Cho đến nay, hầu như NHTM ở nước ta chưa tạo được nhiều nguồn vốn dài hạn, thể hiện ở lãi suất ngân hàng còn mang nặng tư duy kinh tế thời bao cấp, người gửi tiền dài hạn muốn lãi suất cao, người vay vốn ngắn hạn đòi lãi suất thấp.Mức lãi suất quy định trong cả nước chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường.Hiện nay, việc quy định mức lãi suất thông nhất chưa tạo được sự mền dẻo linh hoạt theo yêu cầu từng vùng từng khu vực. Cũng như thị trường hàng hoá,thị trường vốn, mức cung cầu về vốn ở từng vùng, khu vực khác nhau đòi hỏi giá cả của vốn cũng khác nhau.Vì vậy mà q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72999.doc