MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2
1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó 2
1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ. 2
1.2 Vai trò chính sách tiền tệ. 2
2. Mục tiêu chính sách tiền tệ 2
2.1 Công ăn việc làm cao 2
2.2 Tăng trưởng kinh tế. 3
2.3 Ổn định giá cả 3
2.4 Ổn định lãi suất 3
2.5 Ổn định thị trường tài chính 3
2.6 Ổn định thị trường ngoại hối 4
3. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ 4
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 4
4.1 Công cụ tái cấp vốn 4
4.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc 4
4.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở 5
4.4 Công cụ lãi suất tín dụng 5
4.5 Công cụ hạn mức tín dụng 5
4.6 Tỷ giá hối đoái 5
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH6TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010 VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI. 6
I.THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010 6
1.Thành tựu đạt được. 6
1.1 Năm 2005: Thực hiện chính sách thắt chặt 6
1.2 Năm 2006: Chính sách tiền tệ thắt chặt. 9
1.3 Năm 2007 : Chính sách tiền tệ thắt chặt 10
1.4 Năm 2008: Chính sách tiền tệ thắt chặt vào đầu năm và nới lỏng vào cuối năm 15
1.5 Năm 2009: Chính sách nới lỏng 18
1.6 Năm 2010: Chính sách tiền tệ thắt chặt 20
2. Kết quả chung: 22
3. Tồn tại và nguyên nhân. 23
II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI GIAN TỚI. 24
1. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ 24
2. Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN 25
3. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ 25
4. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác. 25
KẾT LUẬN 27
MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6973 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ ở việt nam trong giai đoạn 2005-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trữ ngoại tệ.
- Bên cạnh việc điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng và cơ cấu lại NHTM:
+ Ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD; sửa đổi cơ chế cho vay, bảo đảm tiền vay của TCTD đối với khách hàng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, quy định về hạch toán kế toán theo hướng giao quyền chủ động cho các TCTD và đánh giá chất lượng tín dụng, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro và bảo đảm an toàn hệ thống.
+ Yêu cầu các NHTM tăng vốn tự có, nâng cao tỷ lệ an toàn tối thiểu; trình Chính phủ ban hành quyết định cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương trong năm 2006 và xây dựng Đề án cổ phần hoá Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long; chỉ đạo các TCTD đẩy nhanh thực hiện các cấu phần về hiện đại hoá công nghệ, quản trị kinh doanh và rủi ro, nâng cao chất lượng nhân sự và phát triển mạng lưới…
c. Kết quả:
Nhìn chung, chính sách tiền tệ năm 2005 đã có những đóng góp tích cực nhất định cho việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cũng còn một số vấn đề chính sách cần được lưu ý.
Trước hết, thị trường tín dụng của các khu vực NHTM nhà nước và cổ phần năm 2005 cho thấy lãi suất cho vay tăng, song ít có tác động hạn chế cầu tín dụng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh và lãi suất thực thấp, mà chỉ chủ yếu làm dịch chuyển phần nào cầu tín dụng bằng ngoại tệ sang cầu tín dụng bằng VNĐ (lưu ý là tốc độ tăng tín dụng bằng ngoại tệ năm 2004 cao hơn nhiều so với năm 2003 và cũng cao hơn tốc độ tăng tín dụng bằng VNĐ). Điều này phần nào phản ánh hiệu lực chính sách lãi suất của NHNN còn hạn chế, do thị trường tiền tệ chưa hoàn thiện và thị trường vốn còn không ít méo mó.
Thêm vào đó, việc điều tiết cung - cầu về vốn và lãi suất của NHNN bị hạn chế do nhiều luồng vốn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, đặc biệt là luồng chu chuyển vốn của khu vực chính phủ. Một ví dụ là năm 2005 tiền gửi ngân sách tại NHNN tăng nhiều, qua đó đã rút một lượng tiền không nhỏ khỏi lưu thông, gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ (đến tháng 9/2005 NHNN bơm tiền qua các kênh tăng khoảng 9%, nhưng thực tế tiền cơ bản chỉ tăng 2,4%). Mặt khác, một lượng tiền gửi của Kho bạc nhà nước được gửi tại các NHTM đang phát huy khả năng tạo tiền mà NHNN khó có thể tính toán chính xác để có thể chủ động điều tiết tiền tệ theo mục tiêu đã định.
Một vấn đề nữa là NHNN cũng đã nhận thức rõ ràng hơn rằng việc sử dụng các biện pháp can thiệp để duy trì tỷ giá ổn định về lâu dài sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, NHNN dường như vẫn chưa có đủ sự tự chủ cần thiết để xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ đủ hiệu lực và một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn. Trên thực tế, NHNN đã thiên về mục tiêu ngắn hạn hơn là cân nhắc đầy đủ hơn đến các mục tiêu dài hạn. Điều này đang hạn chế khả năng điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trước những biến động kinh tế vĩ mô, nhất là trong bối cảnh lạm phát có khả năng còn đứng ở mức tương đối cao trong thời gian tới.
Tăng trưởng huy động vốn, tín dụng và tổng phương tiện thanh toán xấp xỉ mức tăng cùng kỳ năm 2004 và có khả năng vượt chỉ tiêu cả năm đề ra ( tăng trưởng tín dụng khoảng 25%, tổng phương tiện thanh toán tăng 22%). Mặt bằng lãi suất thị trường tăng nhẹ so với cuối năm 2004, nhưng không tăng đột biến (lãi suất huy động bằng VND tăng từ 0,03%-0,08%/tháng, lãi suất cho vay tăng ở mức thấp hơn, khoảng 0,05%/tháng so với cuối năm 2004); tỷ giá VND so với USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng 0,73%, dự kiến cả năm 2005 tăng khoảng 1%.
1.2 Năm 2006: Chính sách tiền tệ thắt chặt.
VN vẫn tiếp tục phải đối phó với lạm phát ngày càng tăng cao. Do đó, Chính phủ tiếp tục duy trì và thực hiện linh hoạt chính sách tiền tệ thắt chặt đã áp dụng từ cuối 2005 nhằm kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong năm 2006, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất chính thức nhằm tránh phát tín hiệu làm tăng lãi suất thị trường, giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường, tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý. Kết quả là tổng phương tiện thanh toán năm 2006 đã được giữ ở mức tăng 33,59% so với năm 2005, nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng 29,65% của năm 2005; tín dụng tăng chậm lại nhưng chất lượng tín dụng được nâng cao; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng tăng 22,2%; tốc độ tăng GDP đạt 8,17%, tốc độ tăng CPI giảm còn 6,6%.
1.3 Năm 2007 : Chính sách tiền tệ thắt chặt
a. Bối cảnh kinh tế
Tình hình kinh tế thế giới lại trải qua những xáo trộn mạnh, đặc biệt trên thị trường tài chính do xuất phát từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ và giá dầu tăng lên mức kỷ lục 100 USD/thùng. Trong khi đó, lạm phát ở nền kinh tế VN đang ngày càng gia tăng.
b. Thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ
Các giải pháp điều hành CSTT
- Tăng cường hoạt động thị trường mở.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát.
Điều chỉnh, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp 1,5 – 2 lần, kiểm soát tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ nguyên các mức lãi suất như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại NHNN nhằm ổn định thị trường; bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân kể từ ngày 1/1/2007.
- NHNN đã thực hiện, ban hành Chỉ thị 03/2007/CT – NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện kiểm soát tín dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng, tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng năm 2007 vẫn đạt rất cao, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006.
- Cũng trong năm, bên cạnh việc đưa 144.000 tỷ VND ra thị trường để mua 9 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối; NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ +/- 0,25% lên +/-0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên +/-0,75% nhằm giảm áp lực lạm phát, tăng tính chủ động cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
c. Kết quả:
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Kết quả là tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,48%, nhưng lạm phát cũng tăng từ 7,45% lên 8,3%.
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm trước đây, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
Những thách thức phải đối mặt:
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua đó đã chưa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều như năm nay. Muốn hạn chế gia tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của dòng vốn này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi của dòng vốn này.
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHNN là cực kỳ khó khăn bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dầu vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi hỏi NHNN tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải đối mặt .
1.4 Năm 2008: Chính sách tiền tệ thắt chặt vào đầu năm và nới lỏng vào cuối năm
a. Bối cảnh kinh tế
Trong bối cảnh tình hình thế giới lại rơi vào vòng xoáy khủng hoảng nặng nề hơn. Ở Việt Nam, hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cùng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hóa Việt Nam có hiện tượng “bốc hỏa” về giá. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%. Đến cuối tháng 6 chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước. Chỉ trong 1 năm, VN phải gánh chịu cả hai bối cảnh đối nghịch nhau hoàn toàn: lạm phát tăng cao vào đầu năm và suy giảm kinh tế những tháng cuối năm. Điều này gây ra rất nhiều sức ép cho việc hoạch định chính sách tiền tệ trong năm.
b. Thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ
- Chính sách tiền tệ thắt chặt những tháng đầu năm 2008
Để kiềm chế lạm phát NHTW đã thực hiện đồng thời các công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở đồng thời ban hành những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản…
+ Lãi suất cơ bản thay đổi 3 lần
Lãi suất
Quyết định
Ngày thực hiện
8,25% / năm
1746/QĐ-NHNN ngày 01/12/2005
Ngày 01/12/2005
8,75% / năm
305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008
Ngày 01/02/2008
12% / năm
1099/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008
Ngày 19/05/2008
14% / năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008
Ngày 11/06/2008
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Tăng lên 1% ( ngày 16/01/2008)
+ Nghiệp vụ thị trường mở:
Giai đoạn này xuất hiện hiện tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền. Mở ra một cuộc chạy đua nâng cao lãi suất để hút lượng tiền trong nhân dân. Chỉ trong thời gian vài ngày có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15% /năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng.
Để tránh tình trạng đổ vỡ hệ thống ngân hàng xảy ra, NHNN đã liên tục thực hiện bơm thêm tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở để đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các ngân hàng, điển hình như việc đưa hơn 39.000 tỷ đồng vào thị trường trong vòng một tuần vào cuối tháng 2/2008. NHNN cũng đã thực hiện việc điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt hơn nhằm ổn định nền kinh tế. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã có 3 lần điều chỉnh nới lỏng biên độ tỷ giá lên mức +/-2% từ ngày 27/6. Đây là một động thái cho chính sách tỷ giá đang cởi mở hơn, phản ánh sát tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
+ Chính sách tỷ giá:
Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08
- Chính sách tiền tệ nới lỏng những tháng cuối năm 2008
Những tháng cuối năm 2008, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật vì lãi suất cao, chi phí nguyên vật liệu cao…
+ Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5 %
Lãi suất
Quyết định
Ngày thực hiện
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008
Ngày 11/06/2008
13%/năm
2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
Ngày 21/10/2008
12%/năm
2559/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008
Ngày 05/11/2008
11%/năm
2808/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
Ngày 21/11/2008
10%/năm
2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
Ngày 05/12/2008
8,5%/năm
3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
Ngày 22/12/2008
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Để chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10/2008, các loại lãi suất chỉ đạo liên tục được NHNN hạ xuống theo một lộ trình thích hợp; tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm, lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc lần lượt tăng lên
Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (QĐ 2811 ngày 20/11/2008), 8%/năm xuống còn 6%/năm (QĐ 2951 ngày 03/12/2008), và cuối cùng còn 5%/năm ( QĐ 3158 ngày 19/12/2008).
+ Nghiệp vụ thị trường mở
Cho phép các NHTM được thanh toán tín phiếu bắt buộc trước hạn và được sử dụng nó làm công cụ tham gia nghiệp vụ thị trường mở; tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay BĐS cũng được phát ra;
+ Chính sách tỷ giá
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000.
NHNN đã điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định
c. Kết quả
Sau hàng loạt các chính sách nới lỏng tiền tệ cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động ngân hàng khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay bắt đầu trở về với nhịp độ bình thường,…Tuy nhiên, hoạt động của thị trường vẫn trong tình trạng chưa có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế có hiện tượng chậm lại, tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập.
1.5 Năm 2009: Chính sách nới lỏng
a. Bối cảnh
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
- Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm là các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ gía
b. Thực thi chính sách tiền tệ:
Các biện pháp chính sách tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
- Thực hiện gói hỗ trợ lãi suất 4% trị giá 17.000 tỷ đồng cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức, cá nhân để sản xuất – kinh doanh. Từ tháng 4/2009, gói hỗ trợ lãi suất này được mở rộng cho các khoản vay trung và dài hạn; đồng thời, sự hỗ trợ lãi suất cũng được thực hiện với các khoản vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn.
- Điều chỉnh giảm và duy trì ổn định lãi suất điều hành ở mức hợp lý từ tháng 2/2009 để vừa giảm mặt bằng lãi suất cho vay, vừa tăng cường nguồn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng của nền kinh tế, theo đó lãi suất cơ bản bằng đồng VN được điều chỉnh giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 5%/năm. Kể từ tháng 12/2009, các mức lãi suất trên được điều chỉnh tăng them 1% cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế.
- Điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 5% xuống 3% kể từ dự trữ tháng 3/2009; tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên từ 2% xuống 1% kể từ dự trữ tháng 1/2009. Đồng thời , điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ mức 8,5%/năm xuống dưới 1,2%/năm; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ mức 1%/năm xuống 0,1%/năm.
- Điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn và lãi suất hợp lý để điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, tăng cung vốn cho thị trường, hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh khoản và giữ ổn định lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
- Thực hiện hoãn đổi ngoại tệ với các NHTM để vừa hỗ trợ vốn VNĐ, giảm bớt tình trạng mất cân đối giữa vốn và sử dụng vốn VNĐ và ngoại tệ của các NHTM, vừa bổ sung thêm nguồn ngoại tệ để NHTM có thể can thiệp thị trường ngoại hối khi cần thiết.
- Mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VNĐ của các NHTM từ +3% lên +5% kể từ ngày 24/3/2009 và điều hành linh hoạt tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với tín hiệu thị trường và mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Từ ngày 26/11/2009, để phù hợp với diễn biến mới trên thị trường ngoại hối và trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá với lãi suất, chỉ số giá tiêu dung và cán cân thanh toán quốc tế, NHNN đã điều chỉnh giảm biên độ ấn định tỷ giá xuống +3%, đồng thời công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng thêm 5,4% từ 26/11/2009.
- Triển khai đồng bộ các giải pháp về điều hành chính sách tín dụng, gồm: xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ, điều chỉnh giảm lãi suất đối với các hợp đồng đã ký kết trước đây về mực lãi suất cho vay hiện hành, không phạt quá hạn đối với các doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn do tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu; điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi sản xuất ( cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay kinh doanh đầu tư chứng khoán, cho vay tiêu dùng)
c. Kết quả
- Tổng phương tiện thanh toán tăng 28,7% và tổng tín dụng cho nền kinh tế tăng 37,7% so với năm 2008. Điều này đã tạo điều kiện cho nhiều d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chính sách tiền tệ 01.doc