Đề tài Chính sách tiền tệ- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua-bán các công cụ tài chính ngắn hạn.

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua- bán các chứng từ có giá ngắn hạn của NHTƯ trên thị trường mở.

ởViệt nam, sau nhiều năm tích cực chuẩn bị triển khai, tới ngày 12/7/2000, nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTƯ theo phương pháp gián tiếp.

ở đây ta trình bày vài nét về mục tiêu và nhiệm vụ của CSTT-Xuất phát điểm để NHTƯ đưa ra các công cụ điều hành.

 

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3521 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành CSTT. Theo chiều hướng phát triển của nền kinh tế, những năm tiếp theo khi thị trường tiền tệ đã ổn định và thị trường vốn đã đi vào hoạt động thì công cụ HMTD sẽ được xoá bỏ Công cụ lãi suất: Bên cạnh HMTD, NHTƯ còn sử dụng công cụ lãi suất ấn định dưới các hình thức như: ấn định khung lãi suất, ấn định trần lãi suất cho vay, sàn lãi suất tiền gửi. NHTƯ ấn định trực tiếp trần lãi suất cho vay để khống chế mức lãi suất mà các NHTM áp dụng cho vay với nền kinh tế Khi NHTƯ tăng, giảm trần lãi suất cho vay, NHTM cũng phải tăng, giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu về vốn của các tổ chức kinh tế Công cụ này không phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế sự cạnh tranh của các NHTM. Đặc biệt trong trường hợp NHTƯ ấn định mức lãi suất không phù hợp như mức lãi suất quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, các ngân hàng gặp khó khăn về nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu này, mặt khác nếu mức lãi suất quá cao sẽ làm cầu tiền giảm dẫn đến đầu tưư giảm, hệ thống NHTM sẽ không kịp điều chỉnh theo, bỏ lỡ cơ hội đầu tưư. Khi NHTƯ ấn định lãi suất buộc các NHTM phải chấp hành làm hạn chế tính linh hoạt của thị trường tiền tệ. II. Công cụ gián tiếp: Công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tác động vào mục tiêu trung gian qua việc điều chỉnh các mục tiêu hoạt động 1-Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải gửi tại NHTƯ để thực hiện CSTT quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các TCTD huy động được. Tỷ lệ này gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Từ năm1991, DTBB được áp dụng như là một công cụ chủ yếu để điều hành CSTT ở Việt nam. Theo pháp lệnh ngân hàng, tỉ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Song xét hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ: Tiềm lực của các NHTM Việt nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể nên NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB đối với các NHTM ở nước ta là mức 10%. Lúc đầu, kỷ luật chấp hành tỉ lệ DTBB của các NHTM chưa nghiêm, rất ít NHTM dự trữ đủ 10%, nhất là cácNHTM cổ phần. Để nâng cao tính hiệu lực của các công cụ này, tạo cơ sở cho việc quản lý cung tiền một cách gián tiếp, trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB quy định mức DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM, đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng qui chế phạt đối với những trường hợp không tuân thủ đúng quy định về DTBB. Vào tháng 10/1995, NHNN đã ban hành quy chế DTBB mới nhằm tăng thêm hiệu lực của công cụ này. Theo qui chế mới thì DTBB chỉ được tính đối với các loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống, tỉ lệ DTBB thống nhất ở mức 10% và được áp dụng cho tất cả các NHTM Đến 1/12/1997 Thống đốc NHNN tiếp tục ban hành quyết định về quy chế DTBB. Qui chếDTBB lần này đã được quy định cụ thể hơn, linh hoạt hơn thể hiện ở việc quy định tiền gửi DTBB tại NHNN được tính bình quân trong cả kỳ duy trì. Tỉ lệ DTBB được áp dụng chung cho các NHTM và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%,NHNN không phải trả lãi cho tiền gửi DTBB. Những quy định mới đã khuyến khích các NHTM chủ động hơn trong điều hành nguòn vốn kinh doanh và thực hiện DTBB đúng như quy định phù hợp với mục tiêu điều hành CSTT trong giai đoạn này. Vào cuối năm 1998 đầu năm 1999, NHNN tiếp tục hạ thấp tỉ lệ DTBB đối với các NHTM nhằm mở rộng tín dụng và kích thích đầu tưư. Tuy nhiên, qua vài tháng sau nền kinh tế vẫn tiếp tục có những biểu hiện khác thường. Trước tình hình đó, NHNN ra quyết định giảm tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM do lãi suất giảm tạo điều kiện để các NHTM giảm lãi suất cho vay,từ đó tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế góp phần đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại Công cụ này có ưu, nhược điểm sau: *Ưu điểm: DTBB là công cụ chủ động của NHTƯ, NHTƯ có quyền quy định mà các NHTM không có quyền phản đối, sự thay đổi tỉ lệ DTBB là tuỳ thuộc vào ý muốn của NHTƯ. Thay đổi một tỉ lệ DTBB sẽ gây tác động mạnh tới thay đổi lượng tiền cung ứng vì NHTƯ chỉ cần thay đổi một tỉ lệ % nhỏ tỉ lệ DTBB thì sẽ dẫn đến thay đổi bội số của lượng tiền cung ứng vì nó tác động đến tát cả các TCTD *Nhược điểm: Tuy nhiên tăng, giảm DTBB không thể thay đổi thường xuyên vì nếu thay đổi thường xuyên sẽ gây xáo trộn hoạt động của các TCTD dẫn đến việc quản lý vốn khả dụng của các NHTM trở nên khó khăn. Tiền gửi DTBB không tính lãi nên sẽ ảnh hưởng đến chi phí của các TCTD, nếu DTBB cao dẫn đến chi phí lớn coi như một khoản thuế đánh vào các TCTD Vì vậy, sử dụng công cụ DTBB là giải pháp tình thế khi cần thiết phải thắt chặt tiền tệ. Hiện nay một số nước không còn chú ý đến công cụ này nữa và có thể quy định mức DTBB bằng 0 hoặc kết hợp với các công cụ khác để thực thi CSTT 2-Công cụ cho vay chiết khấu: Cho vay chiết khấu được coi là một công cụ gián tiếp để giúp NHTƯ các nước thực hiện CSTT của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này ở Việt nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay chiết khấu còn chơa phát triển đầy đủ. Tuy vậy ngay từ năm đầu của quá trình đổi mới để thực hiện CSTT, NHNN đã áp dụng hìmh thức cho vay chiết khấu đối với cácNHTM. Cơ sở để thực hiện chiết khấu là các khế ước tín dụng tức là các văn bản pháp lý ghi nhận một khoản vay với một mức lãi suất vàmột thời hạn nợ nhất định của một DN đối với một NHTM Thông qua việc thế chấp các khế ước tín dụng này, NHNN đã cho vay ngắn hạn đối với các NHTM, nhờ vậy mà các NHTM đã khắc phục được những khó khăn tạm thời trong thanh toán, lại có thể đáp ứng được nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, NHTƯ đã áp dụng lãi suất tái chiết khấu. Đây là loại lãi suất được NHTƯ áp dụng để chiết khấu lại các chứng từ có giá của các NHTM. Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác đôngj vào mặt bằng giá vốn đầu vào của NHTM,gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của NHTM, làm cho hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu, NHTƯ còn quy định hạn mức tái chiết khấu tức là quy định mức cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã quy định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các TCTD vay của NHTƯ Ưu, nhược điểm của công cụ này: *Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu là công cụ có khả năng tác động vào các mục tiêu trung gian của CSTT. NHTƯ chủ động sử dụng công cụ này thể hiện qua việc chủ động quy định lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu cho từng đối tượng cụ thể. Chính sách tái chiết khấu là công cụ linh hoạt, sự nhạy cảm của CSTT với lãi suất sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cơ cấu cho vay của các TCTD với hiệu ứng thông báo mạnh có tác động đến nền kinh tế. NHTƯ có thể dùnh chính sách này để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng cung cấp dự trữ cho hệ thống NHTM khi nó thiếu vốn khả dụng, nhất là trong điều kiện xảy ra khủng hoảng ngân hàng, lúc này cửa sổ chiết khấu giống như cái van an toàn cho hệ thống tiền tệ của quốc gia. *Nhược điểm: Công cụ này không phát huy hiệu quả khi các điều kiện tái chiết khấu không đảm bảo. Nhiều khi NHTƯ không thể chủ động chi phối được số tiền tái chiết khấu vì nó còn phụ thuộc vào nhu cầu vốn của TCTD. Mặt khác, công cụ này còn có ý nghĩa tác động một chiều, khi cần tăng lượng tiền cung ứng thì NHTƯ sẽ điều chỉnh lãi suất thấp để các NHTM có nhu cầu vay và sẽ gặp khó khăn khi cần thu tiền về vì bị ràng buộc bởi thời gian. Hơn nữa, chính sách tái chiết khếu có thể làm lẫn lộn những ý định của NHTƯ do việc thay đổi lãi suất, vì thế để khắc phục phải biết kết hợp công cụ này với các công cụ khác như công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua-bán các công cụ tài chính ngắn hạn. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua- bán các chứng từ có giá ngắn hạn của NHTƯ trên thị trường mở. ởViệt nam, sau nhiều năm tích cực chuẩn bị triển khai, tới ngày 12/7/2000, nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTƯ theo phương pháp gián tiếp. ở đây ta trình bày vài nét về mục tiêu và nhiệm vụ của CSTT-Xuất phát điểm để NHTƯ đưa ra các công cụ điều hành. ỏ góc độ khái quát, CSTT là những mục tiêu và những giải pháp đồng bộ mà NHTƯ sử dụng trong điều hành nhằm tác động vào khả năng sẵn có và giá của vốn khả dụng, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng trong nền kinh tế. Nói cách khác, CSTT phải nhằm vào mục tiêu bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng bằng cách kiểm soát các kênh bơm và rút tiền NHTƯ trong lưu thông. Theo thuật ngữ tiền tệ, đây là nhiệm vụ kiểm soát lượng tiền cung ứng được điều tiêt qua hai kênh bao gồm kênh tín dụng và kênh mua bán. Các tăng hay giảm tiền cung ứng qua các kênh này đều có những ưu nhược điểm khác nhau phụ thuộc vào điều kiện khách quan của nền kinh tế và khả năng cho phép của NHTƯ. Theo đánh giá của các chuyên gia NHTƯ, điều tiết lượng tiền cung ứng qua nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu thế hơn các kênh khác. Tại đây NHTƯ đóng vai trò người chủ trì có điều kiện thực hiện ý đồ kiểm soát của mình một cách chủ động. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường thứ cấp giữa một bên là NHTƯ với một bênkhác là các TCTD, làm lượng tiền biến thiên chỉ theo một chiều hoặc tăng giảm phù hợp với yêu cầu can thiệp của NHTƯ. Hoạt động thị trường mở bao quát toàn bộ những nội dung quyết định tính hiệu quả của nó. Nội dung đầu tiên được đề cập đến hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là phạm vi thành viên tham gia nghiệp vụ này. Có 3 điều kiện để xem xét phạm vi thành viên Thứ nhất: NHTƯ muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi, về lý thuyết thành viên tham gia mua bán trong trường hợp này được mở rộng không những chỉ gồm các TCTD mà còn các tổ chức khác, thậm chí cả các cá nhân miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi Thứ hai: Nừu cơ sở pháp lý cho phép các TCTD hoạt động đa năng như hệ thống TCTD của VN hiện nay thì phạm vi thành viên tham gia mở rộng đến TCTD là đủ. Thứ ba: Theo quyết định số 85/2000 ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở thì thành viên tham gia trước hết phải là TCTD có đủ các điều kiện mở tài khoản tiền gửi tại NHTƯ, có hệ thống mạng vi tính kết nối với NHTƯ vay phải được NHTƯ cáp giấy công nhận thành viên. Nội dung thứ hai: Là phạm vi hàng hoá được sử dụng giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở, về nguyên tắc mọi tài sản có thể mua bán trên nghiệp vụ này vì chúng đều là những tài sản thế chấp. Tuy nhiên khác với tái cấp vốn là thông qua hình thức cho vay có bảo đảm ở chỗ, tài sản thế chấp trên nghiệp vụ thị trường mở phải là tài sản có khả năng thanh khoản cao, đảm bảo quản lý dễ dàng đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý mong muốn. Tài sản hội tụ đủ các điều kiện như vậy chỉ có thể là các giấy tờ có giá. Hiện nay các công cụ được sử dụng để giao dịch trên thị trường mở là các tín phiếu kho bạc nhà nước, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Về lâu dài, khi điều kiện pháp lý cho phép phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ bao gồm các loại ngắn hạn mà cả các loại trung, dài hạn có thể được xem xét làm công cụ giao dịch với điều kiện công cụ đó có khả năng thanh khoản cao. Nội dung thứ ba: Là vấn đề giá và lãi suất bao gồm giá mua, bán trên nghiệp vụ thị trường mở. Giá và lãi suất là hai đại lượng ngược chiều nhau. Khi mua giấy tờ có giá, người mua cần mua với loại có giá thấp tức lãi suât cao, còn khi bán người bán muốn bán với giá cao tức lãi suất thấp. Giá của giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung. Vì vậy lãi suất cũng là một mục tiêu mà NHTƯ cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu trên nghiệp vụ thị trường mở. Đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng trên nghiệp vụ này tuỳ thuộc vào mục tiêu của NHTƯ. Muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng ở đó lãi suất cố định do NHTƯ chỉ đạo. Khi mục tiêu của CSTT nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo một khối lượng mong muốn thì thực hiện theo phương thức đấu thầu lãi suất, ở đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu của thị trường còn lãi suất trúng thầu sẽ được xác định tại điểm đạt được khối lượng tiền cần bơm vào hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông. Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu khối lượng và lãi suất trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có giá. Giá của giấy tờ có giá. Có 3 khái niệm: Giá tại thời điểm mua bán gọi là giá hiện tại Giá sau một thời gian được bán/mua lại theo hợp đồng mua lại gọi là giá tương lai và mệnh giá của giấy tờ có giá đó. Giá của giấy tờ có giá được tính theo hình thức chiết khấu như sau: GiáGiá hiện tại = Mệnh giá: ( 1+ thời gian còn lại x lãi suất) 365 Giá tương lai =Giá hiện tại x(1+ thời hạn hợp đồng x lãi suất) 365 Nội dung thứ tư: Là phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà các công cụ khác không thể có được. Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp với yêu cầu của CSTT.Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng không thay đổi biểu hiện mộy sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì sẽ áp dụng phương thức giao dịch là mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá nhằm tạo ra một sự chuyển ddộng tiền tệ ban đầu cần thiết. Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân để đảm bảo hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng trên nghiệp vụ thị trường mở sẽ là phương thức mua bán có kỳ hạn gọi là hợp đồng mua lại. Nội dung thứ năm: ảnh hưởng tới hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở đó là trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hànhCSTT, đặc biệt là giữa nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ cho vay tái cấp vốn không có bảo đảm bằng giấy tờ có giá hoặc giấy tờ có giá chất lượng thấp, thực chất là cho vay tái cấp vốn theo chỉ định của ta hiện nay là một loại tín dụng không phải ai cũng được quyền vay. Vì vậy TCTD được vay sẽ có nhiều lợi thế trong giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở một khi tổ chức đó tìm được nguồn vay với giá rẻ có thể sử dụng để mua giấy tờ có giá với lãi suất có lợi hơn trên nghiệp vụ thị trường mở. Điều này không những tạo ra một sân chơi thiếu bình đẳng giữa các thành viên mà còn làm cho mục tiêu kích cầu tín dụng không thực hiện được. Để chống sự lạm dụng này, NHTƯ các nước thường xét đơn xin vay rất nghiêm ngặt, mặt khác áp dụng cơ chế nâng lãi suất ở thị vay để kích thích các TCTD ơu tiên bán giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở. Khi lượng giấy tờ có giá không còn để bán lúc đó NHTƯ mới giảm dần lãi suất vay đến mức ngang băngf lãi suất trên thị trường mở. Nội dung cuối cùng góp phần không nhỏ để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả đó là công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán. Việc kết nối theo một chương trình phần mềm hiện đại trong nội bộ NHTƯ với các ban điều hành, các uỷ viên và người trực tiếp điều hành sàn giao dịch để bảo đảm thực hiện các công đoạn giao dịch. Tóm lại, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của CSTT hoạt động thông qua việc mua hoặc bán các giấy tờ có giá trên thị trường thứ cấp giữa NHTƯ và các TCTD nhằm bơm vào hoặc rút tiền khỏi lưu thông theo mục tiêu mở rộng hay thu hẹp tín dụng, từ đó tác động gián tiếp lên mặt bằng lãi suất trên thị trường vốn ngắn hạn. Sự lựa chọn công cụ trong việc điều hànhCSTT: Đối với bất kỳ một NHTƯ nào, việc bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền bao giờ cũng là chức năng quan trọng nhất.Muốn hoàn thành tốt trọng trách này, NHTƯ phải điều hành CSTT thông qua các chính sách và công cụ. Ngoài các chính sách vĩ mô, thông thường NHTƯ các nước thường sử dụng 3 công cụ quan trọng nhất đó là: Nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc, trong đó nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất. Sở dĩ nghiệp vụ thị trường mở được coi là quan trọng nhất trong điều hành CSTT của NHTƯ bởi vì nó là nhân tố quyết định đầu tưiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở của tiền tệ, ngoài ra nó còn thể hiện nhỡng ưu điểm nổi bật sau: -Nghiệp vụ thị trường mở phát sinh theo ý tưởng chú đạo của NHTƯ trong đó NHTƯ hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không nhận thấy được. -Nghiệp vụ thị trường mở cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. Ngược lại, nếu có yêu cầu thay dổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ ở quy mô lớn NHTƯ cũng có đủ khả năng đáp ứng được. -Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều: Nếu NHTƯ có mắc phải sai sót nào đó trong qua trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thì có thể ngay tức khắc sữa chữa sai sót đó. -Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao. Giao dịch trên thị trường mở hầu như khômg gặp rủi ro, xét trên góc độ của cả NHTƯ lẫn các NHTM bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên thị trường mở đều là những giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao, không có rủi ro tài chính. -Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục tài chính. Hiện nay, ở VN nghiệp vụ thị trường mở mới đi vào hoạt động chưa lâu, hàng hoá trên thị trường này còn rất hạn chế. Tuy nhiên việc xuất hiện nghiệp vụ thị trường mở là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tới tự do hoá lịch sử ở nước ta. Từ nay, NHNN Việt nam có thêm một công cụ mới-công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta. IV-Vai trò của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của CSTT: 1-Về lãi suất: Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở VN có thể chia thành các giai đoạn sau: Giai đoạn 1986-1990, 1991-1995, 1996-8/2000, 8/2000 trở đi: Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới tự do hoá lãi suất. Do trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò chủ đạo, định hướng cho các TCTD ấn định mức lãi suất kinh doanh vì thế 5/8/2000 theo QĐ 241 của Thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng với biên độ. Chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho cácTCTD hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. Ngày 29/5/2001 Thống đốc NHNN ra quyết định 718 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ. Theo đó các TCTD được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. Đây là một bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt-đặt tiền đề hết sức quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt nam. 2-Về tỷ giá hối đoái: Giai đoạn: Trước 3/1989, 3/1989-8/1981, 8/1981-1994, 10/1994-2/1999, từ 25/2/1999 đến nay. Về bản chất thì chính sách tỷ giá hối đoái giai đoạn này cũng giống nhơ giai đoạn trước 2/1999, tuy nhiên điểm khác biệt ở đây là biên độ được điều chỉnh giảm từ7% xuống còn 0,1% và hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các TCTD quy định tỷ giá mua và bán. Tức là tỷ giá liên NH mà NHNN công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của NHNN. 3-Về dự trữ bắt buộc: Giai đoạn 3/1991-9/1995 và từ 9/1995 trở đi. Kể từ khi ban hành QĐ240ngày19/9/1995 mức DTBB được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi có kỳ hạn <12 tháng. Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ DTBB với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ DTBB được qua định ở mức cao,điều này cho thấy đã có sự phối hợp vận dụng công cụ tỷ lệ DTBB với các công cụ khác của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước. 4-Về tái cấp vốn: Trong giai đoạn trước 3/1997, NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước xin tái cấp vốn. Cính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động và có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ 3/1997 cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác lập một cách độc lập và đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được NHNN quan tâm trong việc điều tiết cung ứng tiền. 5-Về nghiệp vụ thị trường mở: Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000, tham gia thị trường này là NHNN, các TCTD. Tuy nhiên đến nayNHNN chỉ cấp phép hoạt động cho 12 thành viên, hàng hoá cho nghiệp vụ này còn rất hạn chế chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN, tổng khối lượng của 2 loại tín phiếu này đang được các NHTM nắm giữ khoảng 3000 tỷ đồng trong có 1000tỷ là tín phiếu của NHNN, trong phiên giao dịch đấu thầu đầu tưiên đã có 300 tỷ đồng tín phiếu được mua-bán. Trên thị trường mở, NHTƯ đặt ra yêu cầu mua-bán nên hoàn toàn chủ động tuỳ theo ý đồ can thiệp của họ. Ngoài ra thị trường mở còn cho phép không chỉ cung cấp vốn khả dụng cho giới NH mà còn rút ra khỏi thị trường tiền tệ. Điều đó cho phép NHTƯ kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng ngân hàng cũng như lãi suất trên thị trường. Phần III Thực trạng và những tồn tại từ hoạt động của chính sách tiền tệ Việt nam Kể từ thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của NHNN đã được đổi mới sâu sắc và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Nhờ đổi mới toàn diện CSTT từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu, đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, lạm phát bị đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Để có được kết quả đó, bản thân công tác hoạch định cà điều hành CSTT cũng trải qua không ít khó khăn, không ngừng được đổi mới để hoàn thiện. I-Những thành quả đạt được từ hoạt động của chính sách tiền tệ: 1-Góp phần tăng trưởng kinh tế: Để tăng trưởng kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu thì một trong những điều kiện cơ bản là các ngành kinh tế phải có vốn đầu tưư để phát triển sản xuất, kinh doanh. Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng cho đến nay, hệ thống ngân hàng đã không ngừng tăng cường và mở rộng nguồn vốn tín dụng để cung cấp vốn đầu tưư cho các DN và các hộ gia đình. Điều đó đã giúp nền kinh tế Việt nam nói chung cũng như từng ngành sản xuất nói riêng đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định trong nhiều năm. Xét trên giác độ vĩ mô thì thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ, NHNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tês ở hai khía cạnh: Thứ nhất: Chính sách tiền tệ đã góp phần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổ định để thu hút được nguồn vốn ddáng kể cho đầu tưư. Thứ hai: Gián tiếp tạo vốn và kích thích đầu tưư để phát triển kinh tế. Vai trò tạo vốn một cách gián tiếp của NHNN thể hiện như sau: Do nguồn vốn trong nước để cung cấp cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng lấy từ hai nguồn vốn: Nguồn vay từ NHNN và nguồn huy động từ nền kinh tế. Với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam những năm qua là “thắt chặt” cung tiền để chống lạm phát cho nên lãi suất cho vay chiết khấu thường ở mức cao buộc các TCTD phải có nhiều hình thức đa dạng và linh hoạt để huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, với việc sử dụng linh hoạt và mềm dẻo chính sách lãi suất trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, NHNN thực sự đã thành công trong vai trò người “cầm chịch” để các tổ chức tín dụng điều chỉnh mức lãi suất huy động một cách hợp lý. Mức lãi suất huy động trong từng thời kỳ có thể tăng giảm tuỳ theo diễn biến của nền kinh tế, nhưng cũng vừa đủ cho các TCTD có lợi nhuận trong kinh doanh tiền tệ đồng thời vẫn đủ hấp dẫn đối với người gửi tiền trong nước. Nhờ những cố gắng đó của hệ thống ngân hàng mà nguồn vốn huy động từ trong nước đã tăng liên tục trong nhiều năm. Cùng với sự tăng lên của nguồn vốn huy động trong nước, nguồn vốn huy động từ nước ngoài cũng được hệ thống ngân hàng khai thác triệt để, nhằm đáp ứng chiến lược vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế và CNH - HĐH đất nước. Sau khi nhà nước ban hành luật đầu tưư nước ngoài ( tháng 12 - 1987 ) đã mở ra một triển vọng mới trong việc thu hút nguồn vốn đầu tưư trực tiếp của nước ngoài. Đặc biệt từ năm 1993 đến nay, nhờ khai thông tín dụng với quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới, NHNN Việt nam đã đàm phán, ký kết được nhiều hiệp định tín dụng quan trọng cho các dự án phát triển kinh tế. Có thể nói rằng: Những thành tựu đổi mới của nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72186.DOC
Tài liệu liên quan