MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương I : Sự ra đời và phát triển của chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng.
1.Bối cảnh ra đời của chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng
2.Quá trình phát triển của chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng
2.1.Khái niệm tư nhân hoá.
2.2.Quá trình tư nhân hoá.
Chương II : Chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng của thủ tướng Koizumi
1.Cơ sở hình thành chính sách
2.Chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng của Thủ tướng Koizumi
2.1.Chính sách tư nhân hoá ngành bưu điện
2.2.Chính sách tư nhân hoá hệ thống y tế và phúc lợi xã hội
2.3.Chính sách tư nhân hoá hệ thống giáo dục.
2.4.Các lĩnh vực tư nhân hoá được tiến hành từ trước.
Chương III : Tác động của chính sách tư nhân hoá ngành công cộng đến nền chính trị, kinh tế, xã hội Nhật Bản.
1.Tác động về chính trị.
2.Tác động về kinh tế.
3.Tác động về mặt xã hội.
Chương IV : Những đánh giá, phân tích về chính sách tư nhân hoá của hệ thống công cộng của thủ tướng Koizumi.
1.Những mặt tích cực.
2.Những mặt còn hạn chế.
3.Bài học ứng dụng với thực tế của Việt Nam
3.1.Thực trạng kinh tế Việt Nam.
3.2.Bài học ứng dụng cho Việt Nam.
KẾT LUẬN
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2030 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng của thủ tướng Koizumi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các quan chức địa phương. Thủ tướng Koizumi lập luận rằng tư nhân hoá ngành bưu điện sẽ giúp giải phóng các nguồn quỹ để thúc đẩy nền kinh tế. Còn những người chỉ trích thì bình luận việc này sẽ làm mất nhiều công ăn việc làm và khiến cho nội bộ Đảng Dân chủ Tự do (LDP) suy yếu.
Trước tình hình căng thẳng đó Thủ tướng Koizumi đã đưa ra nhiều thoả hiệp ở mức độ nhất định như : Việc Hạ nghị viện thông qua tháng 7/2002 thành lập công ty bưu điện công cộng tiến tới tư nhân hoá và để ngỏ các dịch vụ chuyển phát thư từ, bưu điện cho các công ty tư nhân. Phản ánh của quần chúng là dư luật này “thiếu thực chất” bởi sẽ không có một công ty tư nhân nào bước vào nổi khi quyền hành vẫn nằm trong tay chính phủ. Hơn nữa vấn đề cốt lõi trong hệ thống bưu điện còn phải cải cách là dịch vụ gửi tiền và bảo hiểm nhân thọ thì chưa được đề cập tới.
Dự luật này tiếp tục được đưa ra trước quốc hội vào tháng 8 năm 2005 nhưng bị Thượng nghị viện Nhật Bản bác bỏ. Điều này đã khiến thủ tướng Koizumi tức giận thực sự ông đã lên tiếng giải tán Hạ nghị viện và kêu gọi một cuộc tổng tuyển cử sớm vào ngày 11/9/2005. Kết qủa là ông Koizumi đã thắng lớn trong cuộc bầu cử và chính sách tư nhân hoá ngành bưu điện của ông được thông qua.
Tư nhân hoá ngành bưu điện(7)
Kế hoạch tư nhân hóa ngành bưu điện mới được công bố là sẽ tách làm 3 công ty chuyên trách và 1 ngân hàng với vốn khổng lồ là 227 tỷ yên (2 tỷ USD) mang tên Yucho. Ba đơn vị còn lại gồm công ty bưu phẩm, công ty dịch vụ bưu điện và công ty bảo hiểm có số vốn điều lệ khoảng 115 tỷ yên. Cùng với Yucho, công ty bảo hiểm dự kiến sẽ niên yết trên sàn chứng khoán Tokyo vào năm 2011. Ông Yoshifumi Nishikawa (Chủ tịch tập đoàn bưu điện Nhật Bản) dự tính 4 công ty sẽ có lợi nhuận năm tài khoá đầu tiên (kết thúc 31/3/2008) vào khoảng 629 tỷ yên. Kế hoạch tư nhân hoá ngành bưu điện sẽ kéo dài trong 10 năm, bắt đầu từ năm 2007.[7]
2.2.Tư nhân hoá hệ thống y tế và phúc lợi xã hội
Thủ tướng Koizumi khi còn là Bộ trưởng bộ y tế(6)
Cựu thủ tướng Joinichi Koizumi đã đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng bộ y tế trong 3 lần vào các năm 1988, 1989, 1996. Vì vậy có thể nhận thấy ông là người rất am hiểu về hệ thống y tế và phúc lợi xã hội. Trong chương trình cải cách do chính quyền của thủ tướng Koizumi tiến hành, vấn đề cải cách trong hệ thống phúc lợi xã hội Nhật Bản cũng đang đặt ra nhiều câu hỏi gây tranh cãi. Thực tế đây là một vấn đề khó và động chạm không chỉ là tới đông đảo người dân Nhật mà nó còn liên quan tới giới chính trị Nhật Bản. Trong chính sách cải cách của mình, Thủ tướng Koizumi phần lớn tập trung vào 2 nỗ lực chính là làm lành mạnh hoá hệ thống bảo hiểm y tế nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho chính phủ và kêu gọi sự tham gia của khối tư nhân vào hoạt động dịch vụ này. Kế hoạch cải cách này đựơc xây dựng nhằm cứu vãn chế độ bảo hiểm y tế trên toàn quốc đang trong tình trạng thâm hụt tài chính hàng trăm tỷ yên một năm. Số tiền này vẫn tiếp tục dược chính phủ bao cấp mà chưa có một biện pháp hữu hiệu nào thay thế. Đặc biệt là các chi phí bảo hiểm y tế cho người già và các phúc lợi xã hội đang ngày càng gia tăng.
Trước tình hình như vậy, Thủ tướng Koizumi đang kêu gọi khu vực tư nhân tham gia cải cách chế độ phúc lợi xã hội. Chỉ có sự tham gia của khu vực tư nhân vào hoạt động cung cấp dịch vụ nói trên thì mới làm nâng cao hiệu quả việc cung cấp dịch vụ, tạo thêm công ăn việc làm và làm giảm bớt gánh nặng tài chính của nhà nước. Các công ty tư nhân sẽ có thêm các cơ hội trong hoạt động kinh doanh cung cấp dịch vụ chăm sóc người già và hoạt động phúc lợi khác nữa. Đặc biệt chính phủ cũng đang xem xét các kế hoạch xây dựng cơ chế cùng phối hợp giữa nhà nước và khu vực tư nhân trong việc duy trì các cơ sở cung cấp dịch vụ hiện có và mở rộng các cơ sở mới. Theo quan điểm của Ban Cải cách kinh tế của Thủ tướng Koizumi, phúc lợi và các lĩnh vực phúc lợi xã hội khác là các hoạt động dịch vụ không thể có lợi nhuận và mang tính từ thiện vì tình hình dân số Nhật Bản ngày càng có xu hướng lão hoá rõ nét.
Bảng 5:Thay đổi trong cơ cấu dân số Nhật Bản 1920-1999
Năm
1920
1930
1940
1950
1960
1970
1980
1990
1999
Tổng dân số
55,963
64,450
64,450
84,115
84,115
94,302
104.665
123,611
126,686
chỉ số già hoá(%)
14,4
13,0
13,0
13,1
13,9
19,0
29,4
66,2
113,0
Nguồn : Cục quản lý và phối hợp, theo Ashahi Sinbun,Japan Almanac 2001 ,p.59
Tình hình kinh tế Nhật Bản đang trên đà suy thái trầm trọng. Cơ chế “nhà nước phúc lợi” từ những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai đã không còn phù hợp với tình huống thực tại. Giải pháp cho phép các công ty tư nhân tham dự vào việc cung cấp các dịch vụ phúc lợi là một lối thoát được cho là hữu hiệu hiện nay. Các dịch vụ phúc lợi sẽ chấm dứt tình trạng cung cấp dịch vụ trên cơ sở từ việc nhận được nguồn tài trợ cho không.
Việc xây dựng một cơ cấu công ty kiểu mới đặc biệt trong việc kinh doanh cung cấp dịch vụ chăm sóc người có tuổi là một thực tế đòi hỏi phải chấp nhận. Các dịch vụ tư nhân trên cơ sở chi trả tài chính tương ứng cho phép đáp ứng được cả hai nhu cầu về chất lượng và về hình thức. Do sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các công ty sẽ thúc đẩy các công ty phải nỗ lực đưa ra những dịch vụ tốt và giá thành rẻ kích thích sự tiêu dùng của người dân. Mặt khác việc Chính phủ không cần quan tâm quá nhiều đến các công ty này sẽ giúp cho việc quản lý hành chính gọn nhẹ hơn, công bằng hơn. [
2.3.Tư nhân hóa hệ thống giáo dục
Đổi mới giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực – yếu tố quyết định tương lai của đất nước luôn được Chính phủ Nhật coi là chương trình ưu tiên và tiến hành song song với sự điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế trong mỗi thời kì. Trong chương trình cải cách của mình Thủ tướng Koizumi khuyến khích sự tham gia rộng rãi của khu vực tư nhân vào việc đào tạo đại học, mở rộng quyền tự chủ cho các trường trong việc huy động và sử dụng kinh phí giáo dục, quản lý nhân sự, tuyển sinh biên soạn sách giáo khoa và các chương trình dạy và học, thúc đẩy cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ và khu vực tư nhân. Trong đó chính phủ có vai trò định hướng xây dựng khuôn khổ pháp lý, có biện pháp trợ giúp tài chính và thực hiện chế độ ưu đãi về thuế…cho các hoạt động nghiên cứu của các trường đại học, các viện nghiên cứu.[2.201] Còn các doanh nghiệp được khuyến khích đầu tư và đặt hàng cũng như mở cửa các cơ sở nghiên cứu và sản xuất của mình để các trường đại học và các viện nghiên cứu đến hợp tác và thử nghiệm. Mục đích của sự phối hợp này là để có thể nhanh chóng chuyển những phát minh, thành tựu khoa học trong các trường đại học và các viện nghiên cứu thành các ứng dụng một cách hiệu quả nhất.
2.4.Các lĩnh vực tư nhân hoá được tiến hành từ trước
Chính phủ tiến hành bán cổ phần còn lại của mình ở những công ty đường sắt lớn nhất Nhật Bản, trong đó bán 12.5% cổ phần còn lại (khoảng 500.000 cổ phiếu) tại công ty đường sắt Miền Đông Nhật Bản – là công ty lớn nhất trong 6 công ty điều hành đường sắt được thành lập sau khi công ty đường sắt Quốc gia Nhật Bản (JNRC) phá sản năm 1987, bán toàn bộ 31.7% cổ phần tức là 634.000 cổ phiếu tại công ty đường sắt Miền Tây Nhật Bản hoạt động quanh Osaka[1,203]. Số tiền thu được sẽ được công ty xây dựng đường sắt Quốc gia Nhật Bản – một công ty nhà nước được thành lập để chuyển nhượng tài sản của công ty độc quyền nhà nước được giải thể – sử dụng để bồi thường cho nhân viên và trả các khoản nợ khác. Đây là một hoạt động theo đúng như mục tiêu chương trình sử dụng số tiền thu được từ việc tư nhân hoá vào phúc lợi xã hội.
Chính phủ sẽ giữ lại cổ phần của 4 công ty đường sắt công và khi đủ điều kiện sẽ tiến hành bán hết số cổ phần còn lại vì tư nhân hoá khu vực này có nhiều hiệu quả khả quan. Ngoài ra Chính phủ dự định nhanh chóng tiến hành tư nhân hoá 2 sân bay lớn nhất Nhật Bản là sân bay Quốc tế Tokyo và sân bay Quốc tế Kansai. Kế hoạch đưa ra là vào tháng 12 năm 2001 tiến hành định giá và tư nhân hoá 2 cơ quan này ngay sau đó trong đầu năm 2002.[1,202]
Trên đây là nội dung của các chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng mà thủ tướng Koizumi đã thực hiện. Tuy nhiên để tìm hiểu xem quá trình thực hiện chính sách tư nhân hóa trong 5 năm cầm quyền của thủ tướng Koizumi đã có những tác động như thế nào và ảnh hưởng của nó ra sao chúng ta hãy cùng xem tiếp chương III. “Sự tác động chính sách tư nhân hoá ngành công cộng của thủ tướng Koizumi đến nền kinh tế, chính trị, xã hội Nhật Bản” để có cái nhìn toàn diện hơn về chính sách này.
Chương III
Tác động của chính sách tư nhân hóa đến tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội Nhật Bản.
1.Tác động về chính trị
*Nội dung:
Nền chính trị Nhật Bản đã có bước chuyển đổi khá mạnh mẽ trong thời kì thủ tướng Koizumi đưa ra những con đường mới để giúp kinh tế Nhật Bản thoát khỏi sự trì trệ. Ông nắm quyền kiểm soát ngân khố từ dịch vụ dân sự, sử dụng chính quyền của mình để sắp xếp hợp lý hoá bộ máy công quyền khổng lồ và cắt giảm chi tiêu công. Hành động này của ông không làm hài lòng tất cả mọi người. Việc cắt giảm các dự án công đã khiến một số thành viên trong LDP phải nỗ lực trì hoãn những sáng kiến về các vấn đề lương hưu, kế hoạch làm đường quốc lộ và chăm sóc sức khoẻ. Đặc biệt với kế hoạch cải tổ ngành bưu điện Nhật Bản đã khiến cho ông Koizumi phải đối mặt với thách thức lớn nhất từ các thành viên “đại thụ”của LDP. Mâu thuẫn này lên tới đỉnh điểm vào ngày 8/8/2005 khi thượng viện Nhật Bản phản đối kế hoạch cải cách ngành bưu điện của Thủ tướng, với 108 phiếu thuận và 128 phiếu chống đã dẫn đến việc Thủ tướng Koizumi phải tiến hành giải tán Hạ nghị viện và chuẩn bị cho cuộc bầu cử sớm vào ngày 11/9[8]. Đây là lần đầu tiên Hạ nghị viện bị giải tán với lý do Thượng nghị viện bác bỏ một dự luật quan trọng mà Hạ viện không thông qua hôm 5/7. Trong phiên họp khẩn cấp ngày 8/8, Thủ tướng Koizumi cũng đã bãi nhiệm Bộ trưởng Nông-Lâm-Thuỷ sản Yoshinobu Shimamura do ông này phản đối quyết định bầu cử sớm của Thủ tướng.
Cùng với việc giải tán Hạ viện, nhiều dự luật khác cũng bị loại bỏ bao gồm dự luật giúp đỡ người tàn tật tự lập, dự luật điều chỉnh các quỹ đóng góp tiền cho các hoạt động chính trị. Điều này sẽ làm chậm lại tiến trình soạn thảo ngân sách tài chính năm 2006 và có thể gây tác động nghiêm trọng đối với cuộc cải cách các mối quan hệ tài chính giữa chính quyền Trung ương và chính quyền Địa phương, cũng như đối với hệ thống bảo hiểm xã hội.[8]
Thủ tướng Koizumi đương đầu với khó khăn(8)
Việc thực hiện cuộc bầu cử sớm hơn với dự định đã khiến ông koizumi phải đối mặt với thử thách chính trị thực sự khó khăn. Tuy đảng Dân chủ tự do cùng liên minh cầm quyền tiếp tục nắm đa số tại Thượng nghị viện song việc không đạt được số phiếu như mong đợi đã báo hiệu về một tương lai nhiều sóng gió đối với chính sách mà ông đeo đuổi. Trong Quốc hội lưỡng viện của Nhật Bản, Thượng nghị viện luôn phải “lép vế” trước Hạ nghị viện bởi trong trường hợp hai viện Quốc hội Nhật Bản có tiếng nói khác nhau thì tiếng nói quyết định thuộc về Hạ nghị viện. Chính vì thế cuộc bầu cử vào tháng 11 sẽ tác động lớn tới cán cân quyền lực trên chính trường nước Nhật. Vì đây là thời kì mà uy tín của cá nhân thủ tướng Koizumi và chính phủ do ông lãnh đạo đang sụt giảm nghiêm trọng. Ngay trong nội bộ đảng LDP đã có sự mâu thuẫn với Thủ tướng (22 thượng nghị sĩ bỏ phiếu phản đối dự luật tư nhân hoá ngành bưu điện của Thủ tướng Koizumi). Nhiều thành viên trong đảng LDP còn tỏ ra tức giận vì theo họ ông Koizumi phải xin từ chức chứ không phải là tuyên bố tổng tuyển cử sớm. Họ lo ngại nếu tổng tuyển cử sớm, việc đảng LDP cầm quyền trong 50 năm qua có thể thất bại.
Trong bối cảnh như vậy thì cuộc bầu cử Thượng viện được xem như là một cuộc trưng cầu dân ý đối chính phủ của ông Koizumi. Việc LDP cầm quyền chỉ giành được 49 ghế, thấp hơn so với mục tiêu đề ra 51 ghế, trong khi đảng đối lập lớn nhất Dân chủ Nhật Bản (DPJ) được 50 ghế, tăng 12 ghế. Cuộc bầu cử thượng viện này đã khiến cho tiếng nói của DPJ có sức nặng hơn tại nước Nhật, có khả năng tác động đến chính sách đưa ra Quốc hội. Chủ tịch DPJ - Katsuya Okada đã không giấu diếm mục tiêu tiếp theo của Đảng đối lập, đó là thay đổi chính quyền trong cuộc bầu cử Hạ nghị viện. Trước mắt, trong cuộc họp của Quốc hội Nhật Bản vào mùa thu năm 2005, DPJ dự định trình dự thảo huỷ bỏ luật liên quan tới cải cách lương hưu, đồng thời đưa ra thảo luận vấn đề rút quân Nhật Bản khỏi Irag. Nếu đạt được kết quả khả quan trong hai vấn đề trên, DPJ có thể sẽ đưa ra kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ Koizumi.[9]
Sự sa sút của LDP và sự trỗi dậy của DPJ theo như nhận định của giới bình luận Nhật Bản đang đưa Quốc gia này phát triển theo xu hướng một hệ thống chính trị dựa trên hai chính Đảng chủ chốt. Đảng Dân chủ Tự do từng nắm quyền suốt hơn nửa thể kỷ qua tại Nhật Bản (trừ 11 tháng hồi năm 1993-1994), dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Koizumi đang phải đối mặt với thách thức ngày càng lớn đến từ Đảng Dân chủ.
Kiểm phiếu ở Nhật Bản (9)
)Đối mặt trước những khó khăn đó Thủ tướng Koizumi không hề nao núng ông đã đưa chính sách tư nhân hóa ngành bưu điện là trọng tâm trong chiến dịch vận động tranh cử làm cho Đảng Dân chủ phải bối rối. Trong cuộc tranh cử vào đầu tháng 11, ông đã tới các ga tàu hoả, các trung tâm mua sắm và nhiều khu dân cư gửi tới cử tri thông điệp : “Hãy bỏ phiếu cho tôi nếu các bạn muốn cải cách”. Kết quả thành công ngoài sức mong đợi Đảng Dân chủ tự do của ông Koizumi đã giành được 296 ghế trong Hạ Nghị viện có 480 ghế. Trong đó Đảng Dân chủ Nhật Bản vốn có 177 ghế trước bầu cử giờ chỉ còn 113 ghế. Vậy là lần đầu tiên trong vòng 15 năm, LDP giành đa số trong quốc hội mà không cần có liên minh. Katsuya Okada – người đứng đầu DPJ thừa nhận sự thất bại và cho biết ông sẽ từ chức. “Tình hình giờ đây đã rõ ràng, DPJ đã thua cuộc” ông nói: “Tôi sẽ không tiếp tục nắm giữ vị trí lãnh đạo đảng nữa”[9].
Sau khi ông Koizumi lên nắm quyền Thủ tướng. Vào ngày 1/11/2005 ông tuyên bố sẽ rời ghế thủ tướng vào tháng 9/2006 và Ông chỉ còn 11 tháng để triển khai kế hoạch cải tổ của mình. Có thể thấy rõ sự gấp rút của Thủ tướng Nhật thông qua việc ông chọn thành viên trong nội các mới. Trong nội các lần này có sự xuất hiện của 3 chính trị gia của Đảng dân chủ tự do đang cầm quyền. Ba người này vốn được coi là những ứng cử viên tiềm năng có thể kế nhiệm Thủ tướng trong nhiệm kỳ năm sau : Ông Shinzo Abe – cựu Phó chánh văn phòng Nội các kiêm Tổng thư kí LDP; Taro Aso – Bộ trưởng Nội vụ và Truyền thông trong nội các cũ và Sadakazu Tanigaki – Bộ trưởng Bộ tài chính trong nội các cũ.[10] Có thể thấy ngoại trừ ông Aso – người sẽ đảm nhiệm công việc của Ngoại trưởng trong nội các mới, hai ông Abe và Tanigaki đều sẽ giữ các chức vụ trực tiếp liên quan đến kế hoạch cải tổ của ông Koizumi. Ông Koizumi cũng giữ lại Heizo Takenaka từng là Giáo sư Kinh tế trứơc khi trở thành nhà chính trị. Đây là người thường xuyên đảm nhiệm các chức vụ liên quan tới chính sách kinh tế trong nội các Nhật đồng thời là nhân vật trụ cột trong chính sách cải cách ngành Bưu điện của thủ tướng kể từ khi ông Koizumi lên cầm quyền.
Với sự xắp xếp như trên, rõ ràng ông Koizumi muốn các chính trị gia phải dốc hết sức thực hiện chính sách cải tổ mà ông đã đề ra. Giới quan sát thì cho rằng sự dàn xếp như trên sẽ giúp làm tăng quyền lực của Koizumi trên cương vị nhà lãnh đạo của Đảng cầm quyền đồng thời là người đứng đầu Chính phủ.
Bên cạnh nhiệm vụ quan trọng là tái thiết hệ thống tài chính của nước Nhật, nội các mới phải giải quyết các vấn đề như tăng thuế, cải cách lương hưu và dịch vụ y tế, giảm chi tiêu của công chức làm việc tại cơ quan Trung ương, và Địa phương, chuyển thuế cho chính quyền địa phương và cải tổ các cơ quan tài chính chính phủ. Với thời gian ngắn ngủi, Thủ tướng Nhật sẽ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải “chạy nước rút” để kịp hoàn tất kế hoạch cải tổ công phu mà ông đã vạch ra trước tháng 9/2006.
*Nhận xét
Qua những sự kiện trên ta có thể thấy chính sách tư nhân hoá của thủ tướng Koizumi đã có những tác động sâu rộng đối với nền chính trị của Nhật Bản. Theo nhận định của một số người đây thực ra là một cuộc đôí đầu chính trị giữa Ông Koizumi ( cùng với một số người ủng hộ chính sách tư nhân hoá của ông ) và giới chính trị bè phái chỉ biết mang lại quyền lợi cho bản thân mình. Với cải cách “tư nhân hoá ngành bưu điện” ông Koizumi đã tiến công trực tiếp vào quyền lợi của một bộ phận lớn không chỉ các thành viên ngoài Đảng của mình mà cả những thành viên trong Đảng Dân chủ Tự do. Xét cho cùng đây cũng là một hành động vì lợi ích toàn cục lâu dài của bản thân Đảng Dân chủ Tự do, Đảng đã có nhiều thói hư tật xấu do cầm quyền lâu ngày. Mẫu thuẫn này được phản ánh mạnh mẽ khi thượng nghị viện không thông qua chính sách cải cách của Thủ tướng. Ông Koizumi đã có quyết định táo bạo khi tiến hành giải tán hạ nghị viện và thực hiện cuộc bầu cử sớm hơn dự định. Ông đã thực hiện việc bầu cử trực tiếp, kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân. Nếu như ở các nước phát triển khác như Mỹ, Anh thì việc này là một sự kiện chính trị bình thường. Nhưng đối với Nhật bản thì thật sự khác, trong Bản hiến pháp của Nhật năm 1946 quy định Nghị viện Nhật Bản (Hạ nghị viện – Thượng nghị viện) có chức năng giám sát chính sách cải cách của nội các. Vì vậy rất khó để những Thủ tướng nào có hành động kiên quyết trong việc thay đổi những chính sách công và thể chế nhà nước vì các tổ chức quyền lực trong LDP cùng các hệ thống (Zokugin - Uỷ ban hoạch định chính sách) luôn kiềm chế quyền lực của Thủ tướng. Tuy vậy những cố gắng của ông Koizumi đã thu lại kết quả to lớn. Ông đã chiến thắng trong cuộc bầu cử Thủ tướng với số phiếu bầu của nhân dân cao nhất từ trước đến nay.
Bảng 5: Số phiếu bầu cử thủ tướng Nhật năm 2001-2003-2005
Năm
2000
2003
2005
Đảng dân chủ tự do (LDP)
233
237
296
Đảng Kometo
31
34
31
Đảng dân chủ (DPJ)
127
177
113
Nguồn: Tạp chí Echo (năm 2005)-p 11
Có thể nói đây là một chiến thắng chính trị to lớn đối với đất nước Nhật Bản. Chiến thắng này mở ra một Nhật Bản hoàn toàn khác lạ. Một Chính phủ coi trọng tiếng nói của người dân, bảo đảm lợi ích của người dân. Một Chính phủ “dân chủ thực sự” chứ không phải là Chính phủ của “Đảng dân chủ tự do” như trong những năm trước đây.
2 .Tác động về kinh tế
*Nội dung
Kinh tế Nhật Bản đã trở nên sôi động hơn khi ông Koizumi thực hiện hàng loạt các cải cách sau khi lên giữ chức vị thủ tướng năm 2001. Đặc biệt với việc điều chỉnh và tư nhân hoá các công ty công cộng làm ăn kém hiệu quả. Việc giảm chi tiêu chính phủ cho các cơ quan nhà nước, tập trung hỗ trợ cho các công ty tư nhân đã kích thích sự nhạy bén, năng động có khả năng tăng trưởng cao của khu vực kinh tế này. Bên cạnh đó với việc kích thích cá nhân tham gia kinh doanh vào các lĩnh vực công cộng, ông Koizumi chú trọng đến cải cách thuế nhằm sử dụng nguồn thuế tăng thu nhập từ chính phủ.
Chính nhờ những tác động cải cách kinh tế này dẫn đến năm 2003 GDP của người dân Nhật Bản đã tăng đáng kể 1.8 so với những năm trước -0.5(2001), -0.7(2002).
Bảng 6: Mức tăng GDP thực tế bình quân đầu người
(Đơn vị :%)
Năm
2001
2002
2003
Các nền kinh tế phát triển
3,3
1,2
1,4
Mỹ
0,9
1,2
1,5
Nhật Bản
2,2
- 0,7
1,8
EU
3,3
1.5
0,7
Nguồn : IMF,World Economic Outlook,September 2002 và September 2003.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy trong hai năm đầu 2001-2002 khi thủ tướng Koizumi mới thực hiện cải cách thì mức tăng GDP của Nhật Bản là rất thấp. Nhưng đến năm 2003 thì chỉ số đã được cải thiện hơn. Nếu so với Mỹ (1,5%) và EU (0.7%) thì GDP của Nhật Bản cao hơn hẳn 1,8%. Đánh dấu cho mức tăng trưởng trở lại của nền kinh tế Nhật Bản. Trong quý IV của năm 2005, Tổng sản lượng nội địa (GDP) Nhật Bản đã tăng vọt theo tỷ lệ 4,2% giúp cho mức tăng trưởng cả năm 2005 lên 2,8%. Nhưng nếu đánh giá tổng thể thì ta thấy trong 5 năm (2001-2005) kinh tế Nhật Bản chỉ tăng gần 10%. Theo nhận định của giới quan sát cho thấy thì đây không phải là một mức tăng trưởng cao với một nước có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản.
Hội chứng kinh tế mang tên “Koizumi”(9)
Phải cho đến khi Thủ tướng Koizumi đưa ra cải cách tư nhân hoá ngành bưu điện sâu rộng hơn nữa trong trung tuần tháng 8 năm 2005. Với dự định của Thủ tướng là sử dụng nguồn tiết kiệm bưu điện để kích thích đầu tư cho các công ty tư nhân, kích thích sự cạnh tranh mang lại hiệu quả cao của cơ chế thị trường. Tuy nhiên việc dự luật này không được thông qua đã khiến Thủ tướng Koizumi phải giải tán Hạ nghị viện và thực hiện cuộc bầu cử sớm. Sự kiện này không chỉ tác động tới chính trị Nhật Bản mà nó còn ảnh hưởng đến nền kinh tế Nhật Bản vào thời điểm đó. Vào ngày 12/9, sau khi Thủ tướng Koizumi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử của Hạ nghị viện Nhật Bản thì tỉ giá của đồng Yên đã tăng mạnh.[9]
Báo Kinh tế Thế giới có biết “đồng Yên đã tăng giá 1,8% kể từ khi thủ tướng Koizumi kêu gọi bầu cử sớm”. Trên thị trường một hội chứng kinh tế có ảnh hưởng rộng mang tên “Koizumi” đã xuất hiện. Tại sàn chứng khoán Newyork 1USD =109.25 Yên (thay vì 106.68 Yên như trước đây). Theo nhận xét của ông Toru Umemoto- một chuyên gia tiền tệ của ngân hàng Barclays Plc, chi nhánh Tokyo nhận xét: “Đối với thị trường, điều này có ý nghĩa hơn là một chiến thắng chính trị, các nhà đầu tư nước ngoài càng tin tưởng hơn vào sức mạnh và sự ổn định của đồng yên sau thắng lợi lớn đó”[9]
*Nhận xét:
Qua những sự kiện kinh tế biến động trên ta có thể nhận thấy, quá trình thực hiện chính sách tư nhân hoá đã tác động đến nền kinh tế Nhật Bản nhưng tác động này chưa cao, mức tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức độ khiêm tốn. Điều này cũng là điều dễ hiểu bởi đây mới chỉ là thời gian đầu trong quá trình thực hiện chính sách tư nhân hoá ngành bưu điện. Tuy nhiên ta cũng không thể phủ nhận được những hiệu quả nhất định mà nền kinh tế Nhật Bản đạt được trong thời gian này. Việc chính sách tư nhân hoá ngành bưu điện được thông qua sẽ thúc đẩy nền kinh tế Nhật Bản thay đổi theo hướng phát triển của thị trường. Tăng cường năng lực tự chủ của khu vực tư nhân, đẩy mạnh tự do hoá, gắn kết tạo việc làm mới với các chính sách kinh tế, cải cách thị trường vốn; tạo mạng lưới an toàn trong việc làm sẽ làm cho thị trường lao động thực hiện sự dịch chuyển nhân lực dễ dàng cùng với giảm nhu cầu công cộng, giảm những chi phí không hiệu quả.
3 .Tác động về mặt xã hội
*Nội dung
Việc thực hiện chính sách tư nhân hoá dẫn đến các hệ quả tất yếu về mặt xã hội là tạo ra sức ép lớn đến cơ hội việc làm của người dân Nhật Bản. Đó là tỷ lệ thất nghiệp đã vượt quá ngưỡng 5%, một tỷ lệ được ghi nhận là tồi tệ nhất trong lịch sử kinh tế Nhật Bản kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay.
Bảng 7: Số lượng người thất nghiệp từ năm 1960-1999
Năm
1985
1990
1995
1998
1999
Số người thất nghiệp
1.560
1.340
2.100
2.790
3.170
Tỉ lệ thất nghiệp
2,6
2,1
3,2
4,1
4,7
Nguồn : Cục quản lý và điều phối ,dấn theo Asahi Sinbun, Japan Almanac 200, p 102.
Để hiểu rõ bức tranh thất nghiệp ở Nhật Bản như thế nào, người ta đã đi vào xem xét và đánh giá một cách cụ thể trên góc độ cơ cấu kinh tế. Theo đánh giá của giáo sư Osamu Narai thuộc Trường Đại học Reitaku Nhật Bản đăng trên tạp chí kinh tế của Anh ra ngày 1 tháng 9 năm 2001 nhận xét thì việc gia tăng các cam kết thực hiện trương trình cải cách cơ cấu của Chính phủ đặc biệt với chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng sẽ không thể tránh khỏi việc hy sinh các lợi ích công ăn việc làm của người dân ít ra là trong các điều kiện ngắn hạn. Tuy nhiên do việc tiến hành cải cách vẫn chưa tiến hành được là bao nên tỷ lệ thất nghiệp 5,3% chưa phải là điểm dừng lại trong năm tiếp theo. Nếu đánh giá về vấn đề thất nghiệp này thì người ta thấy rằng năm tài chính 2001 kể từ tháng 4 đến hết tháng 6/2001 tỉ lệ người không có việc làm giảm sút 3.2% so với 3 tháng trước đó[3,99]
Theo thống kê của Bộ quản lý công cộng - nội vụ - bưu chính và viễn thông cho biết tỷ lệ thất nghiệp đã đạt mức 5% vào thời điểm thống kê tháng 9 năm 2001. Riêng trong tháng 8 năm 2001 do người thất nghiệp đã tăng thêm 260.000 người, đưa tổng số thất nghiệp là 3.36 triệu người. Ông Takeo Hiranuma, Bộ trưởng Bộ kinh tế Thương mại Công nghiệp nói rằng Chính phủ Nhật Bản đang cố gắng tìm kiếm các giải pháp ngăn chặn tình trạng trên nhưng ông cũng cảnh báo rằng thất nghiệp cũng sẽ có thể sẽ tiếp tục vượt quá ngưỡng 5% nếu trương trình cải cách của Chính phủ càng ngày càng thúc đẩy nhanh hơn. Thực tế cho thấy vấn đề thất nghiệp ở Nhật Bản cho thấy rằng có sự mất cân bằng trong việc tạo cơ hội làm ăn mới. Khi Thủ tướng Koizumi tiến hành việc tư nhân hoá hệ thống công cộng nơi có số nhân công tương đối lớn ( “công ty bưu chính “là 26.000 người) dẫn đến khi chính sách tư nhân hoá này hoàn thành nó sẽ buộc các nhân viên này phải thôi việc một cách tự nguyện. Cải tổ đòi hỏi các tổ chức mới phải trở nên gọn nhẹ hơn, linh hoạt hơn và phải định hướng được khách hàng, những hoạt động không mang lại giá trị kinh doanh phải được loại bỏ.
*Nhận xét
Có thể thấy điều mà người ta không phủ nhận là cải cách tư nhân hóa này đem lại là sử dụng tốt hơn vốn của nhà nước, bảo đảm khả năng tài chính và tự chủ cho nhà khai thác dịch vụ công cộng, điều tiết thị trường để duy trì c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CNXH03..doc