Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, bài học đối với Việt Nam

Một số nước đã hối thúc Trung Quốc nới lỏng kiểm soát tiền tệ hơn nữa, mục tiêu là giảm sự mất cân đối thương mại và tiết kiệm giữa các quốc gia. Đề xuất này đã buộc Trung Quốc phải lưu tâm và mới đây đã tiến hành nới lỏng tiền tệ, góp phần tăng tỉ giá giữa đồng nhân dân tệ với USD. Đồng nhân dân tệ lên giá đã tạo ra khả năng đa dạng hóa cơ cấu dự trữ quốc gia, hệ quả là đẩy đồng đô la giảm sâu hơn so với các đồng tiền mới nổi nhưng tăng lên so với euro. Một số Ngân hàng Trung ương vốn đã mua USD nhằm duy trì việc neo tỉ giá này đã nhanh chóng đa dạng hóa danh mục dự trữ bằng cách bán 1/3 lượng USD thu được để mua những ngoại tệ khác, chủ yếu là euro vì có rất ít lựa chọn khác và nếu đồng nhân dân tệ tăng giá thì tương quan euro/đô la sẽ giảm xuống. Điều này được nhiều nhà đầu tư và đầu cơ kỳ vọng, kết cục là giá vàng đã tăng lên so với euro, bảng anh và yên nhật trong thời gian qua (bắt đầu từ ngày 23/11/2009).

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4684 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lạm phát và các nhân tố khác giữa hai nước. Tỷ giá hối đoái thực tế :là tỷ giá phản ánh sức mua tương quan của hai đồng tiền,phản ánh trong tỷ giá. Tỷ giá hối đoái thực tế có xét đến tương quan giá cả, tương quan tỷ lệ lạm phát giữa hai nước. Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau: Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nước ngoài / Giá nội địa = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Tỷ lệ lạm phát nước ngoài / Tỷ lệ lạm phát trong nước. Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái song phương. Tỷ giá hối đoái hiệu lực là tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng tiền khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn). Tỷ giá này được tính dựa trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song phương giữa đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có loại danh nghĩa và loại thực tế. Các chế độ tỷ giá hối đoái Tỷ giá cố định Tỷ giá hối đoái cố định, đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác, như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn toàn với tỷ giá hối đoái thả nổi. Mặc dù việc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ hạn chế khả năng của chính phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy trì ổn định kinh tế trong nước, song trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích chế độ tỷ giá hối đoái cố định bởi nó tạo ra sự ổn định. Trong lịch sử, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đã từng tồn tại hệ thống Bretton Woods cho phép Tây Âu và Nhật Bản có được tỷ giá cố định so với dollar Mỹ cho đến tận năm 1970. Gần đây, Trung Quốc, Hong Kong và Malaysia đã rất thành công trong việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định để giữ ổn định kinh tế trong nước. Đồng euro hiện nay cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia châu Âu tham gia. Nhiều quan điểm cho rằng tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Đó là vì đồng tiền không còn thể hiện giá trị thị trường thực của chúng. Sự che đậy thông tin nào tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công" các đồng tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối khi cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy. Chế độ tỷ giá thả nổi hay còn gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt là một chế độ trong đó giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại hối. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi được gọi là một đồng tiền thả nổi. Nói chung, các nhà kinh tế đều cho rằng, trong phần lớn trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy với thị trường ngoại hối. Điều này cho phép làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế. Thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường. Vai trò của tỉ giá Tỉ giá hối đoái có tác động đến tất cả các hoạt động kinh tế vĩ mô, các cân đối vĩ mô. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ, nó là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hướng tới. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tê, giúp cho nền kinh tế trong nước có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn. Trong thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính. Nó cho phép so sánh giá cả của các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trên các nước khác nhau. Giá hàng xuất khẩu của một nước sẽ được tính theo giá của nước nhập khẩu nếu biết tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của hai nước. “Khi đồng tiền của một nước mất giá, người nước ngoài nhận ra rằng, giá hàng xuất khẩu của nước này rẻ đi, và người dân trong nước nhận thấy hàng nhập từ nước ngoài đắt lên. Sự lên giá có hiệu quả ngược lại: người nước ngoài sẽ phải trả nhiều hơn cho sản phẩm của nước này, và người dân trong nước phải trả ít hơn cho hàng hóa của nước ngoài”. Chính vì điều này mà tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó hai nhân tố quan trọng nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan cung cầu ngoại tệ. Khi lạm phát tăng, sức mua đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ so với nội tệ tăng (hay tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ giảm) và ngược lại. Nếu giá đồng nội tệ giảm, đồng nghĩa với tỷ giá hối đoái cao sẽ kích thích các hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán. Kích thích tăng trưởng và việc làm, nhưng đồng thời cũng tạo nên áp lực làm gia tăng lạm phát. Tỷ giá hối đoái cao sẽ khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kết quả là làm cho sức mua của đồng nội tệ tăng lên. Tuy nhiên nó sẽ làm giảm cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ, làm thâm hụt cán cân vãng lai; cũng có thể dẫn đến hậu quả giảm tăng trưởng. Đồng nội tệ lên giá có thể làm giảm lạm phát. BOP thặng dư, tăng dự trữ. Tuy nhiên khi đồng bản địa yếu, sẽ phải đối mặt với nguy cơ nợ nước ngoài tăng do tỉ giá giữa đồng bản tệ so với đồng ngoại tệ tăng. Giá trị tài sản quốc gia giảm, nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn… Ngoài ra, tỷ giá hối đoái còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khác như: Mức chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia. Mức độ tăng hay giảm thu nhập quốc dân giữa các nước Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước. Những dự đoán về tỷ giá hối đoái. Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế. Sự can thiệp của chính phủ. Can thiệp vào thương mại quốc tế. Can thiệp vào đầu tư quốc tế. Can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối. Các nhân tố khác như: khủng hoảng kinh tế, xã hội, đình công,thiên tai... Nhận định chung về tình hình khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu Khủng hoảng tài chính 2007-2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ của hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ với quy mô lớn xảy ra ở nhiều nước trên thế giới, mà nguồn gốc của cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ. Sau những năm tăng trưởng cao, kinh tế thế giới năm 2008 và 2009 bước vào suy thoái với sự đổ vỡ của nhiều nền kinh tế lớn. Khởi nguồn là những bất ổn tài chính và nhà đất của Hoa Kỳ, từ tháng 9/2008 đã chứng kiến hàng loạt các công ty lớn của nền kinh tế lớn nhất thế giới đang trên bờ vực phá sản. Khủng hoảng kinh tế đã lan rộng trong năm 2008 và các nước đều phải chống chọi lại với cơn bão suy thoái kinh tế. Sự thất thường của giá cả, lạm phát và thất nghiệp diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Cùng với Hoa Kỳ, các nền kinh tế lớn khác như Nhật Bản, một số nước thuộc EU,… cũng phải tuyên bố phá sản. Các nước đang phát triển cũng lâm vào tình trạng suy giảm kinh tế và đặc biệt là xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do thị trường xuất khẩu chính của các nước này là các nước phát triển. Tín hiệu phục hồi kinh tế thế giới xuất hiện từ cuối quý I và đến hết năm 2009, một số nền kinh tế đã thoát khỏi suy thoái với những nỗ lực không ngừng của Chính phủ các nước. Kinh tế thế giới năm 2009 ước tính tăng trưởng 1,1% (theo IMF) có đóng góp hàng đầu của khu vực châu Á mà điển hình là Trung Quốc. Mặc dù kinh tế ít biến động thất thường hơn so với năm 2008 nhưng những nền kinh tế hiện nay vẫn luôn tiềm ẩn những rủi ro. Thị trường tài chính thế giới tiếp tục gặp khó khăn, đầu tư và ngoại thương toàn cầu sụt giảm, giá hàng hoá tăng chậm, đẩy suy thoái kinh tế rơi vào đáy trong những tháng đầu năm 2009. Các khu vực Châu Âu và Châu Mỹ nhìn chung thoát khỏi suy thoái và có xu hướng phục hồi vào cuối năm nhưng tính chung cả năm 2009 kinh tế vẫn tăng trưởng âm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, một số nước trong khối EU… Trong điều kiện các nền kinh tế các nước có tốc độ tăng trưởng âm, tính đến hết năm 2009, chỉ có 12 nước có tốc độ tăng trưởng dương trong đó Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng 8,7% và Việt Nam đạt 5,32%. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu có những ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Trung Quốc và đòi hỏi Chính phủ nước này có những phản ứng nhất định. Trong khi các nước phải chật vật để thoát khỏi “cơn bão khủng hoảng” thì Trung Quốc lại xem đó như một cơ hội để tranh thủ các lợi thế thương mại để tạo đà tăng trưởng cho đất nước. Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong thời kỳ này đã có những thành công nhất định và khẳng định được sự phát triển mang tính đột phá trong việc đưa Trung Quốc trở thành nước có kim ngạch xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới, vượt qua cả Đức. CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC TRONG KHỦNG HOẢNG KINH TẾ Chế độ tỷ giá của Trung Quốc Chế độ tỷ giá của Trung Quốc từ năm 1997 đến ngày 21/7/2005: đồng Nhân dân tệ được neo cố định với USD tại mức tỷ giá 8,28 CNY/USD. Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh nghiệp của Mỹ (NAM), so với giá trị thực của nó, CNY đang giảm đi mất 40% và chính điều này đã tạo ra một môi trường kinh doanh không công bằng, trong đó, hàng nhập khẩu từ Mỹ trở nên quá đắt và mất đi tính cạnh tranh trên thị trường. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho thấy đồng tiền CNY đang bị Chính phủ nước này “dìm giá” chính là sự tăng lên đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là khá thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm” thu hút lượng lớn ngoại tệ (Bảng 1). Các chuyên gia công nghiệp Hoa Kỳ nói rằng sở dĩ có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về đồng tiền, được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so với USD, như vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn. Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá vào năm 2005. Chế độ tỷ giá của Trung Quốc từ 7/2005 đến nay: Năm 2005, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Trong thời gian này Trung quốc duy trì chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ có biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kỳ (BBC): Chế độ tỷ giá BBC được coi là chế độ tỷ giá trung gian nằm giữa chế độ neo tỷ giá và chế độ tỷ giá thả nổi. Đây là chế đọ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước với những đặc điểm riêng có. Chúng ta có thể dễ dàng nhận dạng ra 3 đặc điểm thông qua tên gọi của cơ chế: tỷ giá của nội tệ được xác định dựa trên 1 rổ tiền tệ (Basket), có biên độ dao động (Band) và được điều chỉnh định kỳ (Crawl), với yếu tố Crawl tỷ giá có thể trượt dần dần theo 1 hướng đi lên hoặc đi xuống Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này. Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của Ngân hàng Trung ương tại Thượng Hải, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B - Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl). So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc. 2.2. Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong khủng hoảng Chính sách tỷ giá hối đoái của Tung Quốc được thực hiện có tính nhất quán gắn trực tiếp với lợi thế thương mại về hàng giá rẻ và khối lượng lớn của Trung Quốc. Có thể nói chính sách tỷ giá này đã hỗ trợ hữu hiệu cho mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc. Nhờ sự nhạy bén của của các công cụ trong chính sách tỷ giá mà Trung Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong nước và cân bằng tài chính tiền tệ với bên ngoài (trong khi các chính sách kinh tế khác như chính sách tiền tệ bị vô hiệu hoá để giảm lạm phát thì chính sách tỷ giá vẫn đạt được mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu). Tung Quốc đã cho thấy việc duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý của đồng nhân dên tệ đã tạo ra sự phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng những biện pháp hỗ trợ khôn khéo để giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm bảo cung ứng ngoại tệ được duy trì thường xuyên, liên tục đảm bảo cho sự thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái phải luôn hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Các vấn đề đươc thực thi trong chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc có nhiều khía cạnh khác nhau: Kể từ đợt điều chỉnh cuối cùng vào tháng 7/2005, đồng nhân dân tệ đã tăng khoảng 20% so với USD, nhưng mức tăng này vẫn thấp, nhất là sau đợt đổ vỡ tín dụng tại Mỹ vào cuối năm 2007 và dẫn đến khủng hoảng toàn cầu. Tại trong nước, việc duy trì đồng nhân dân tệ yếu tuy có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc, nhưng lại đã tạo sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với nhau, mà hậu quả là nhiều mặt hàng không đảm bảo chất lượng, nổi bật là máy tính và một số đồ điện dân dụng, đây là những mặt hàng cần đến nguồn nguyên liệu thô, nhất là kim loại và chất dẻo, trong khi nguồn nguyên liệu này ngày càng khan hiếm và đắt đỏ. Sản xuất tăng mạnh, hàng hóa bán được nhiều, thị trường chứng khoán tăng mạnh và có vẻ đang phát triển bong bóng, nhưng nguy hiểm hơn là lợi nhuận giảm mạnh và điều này làm tăng xác suất phá sản doanh nghiệp. Suy cho cùng, việc duy trì đồng nhân dân tệ yếu quá lâu hoàn toàn không có lợi cho chính nền kinh tế Trung Quốc, và điều này buộc Chính phủ Trung Quốc phải can thiệp để tăng giá bản tệ với mục tiêu chính là giảm bớt rủi ro đối với kinh tế trong nước. Trong thương mại quốc tế, Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác (đặc biệt với USD) để tạo lợi thế thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thặng dư cán cân thương mại, duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp, tạo sự ổn định và bền vững trong dự trữ ngoại hối. Bảng 1: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại, dự trữ ngoại tệ và tỷ lệ thất nghiệp của Trung Quốc 2002-2009 (Nguồn: Với việc duy trì tỷ giá phù hợp đã giúp Trung Quốc luôn đạt được thặng dư thương mại, kể cả trong giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế thế giới (Cán cân thương mại thặng dư 261,9 triệu USD trong năm 2007 đến năm 2008 tăng lên 297 triệu USD, năm 2009 giảm nhưng không đáng kể, đạt 198 triệu USD. Bên cạnh thặng dư cán cân thương mại liên tiếp qua các năm phải kể đến sự bền vững kho dự trữ ngoại hối của Trung Quốc (tăng từ 1.528 tỷ USD trong năm 2007 lên 1.946 tỷ USD và tính đến hết năm 2009, con số này lên đến 2.400 tỷ USD). Tỷ lệ thất nghiệp của Trung Quốc trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thấp, dao động trong khoảng 4%. Về thương mại của Việt Nam và Trung Quốc: Về xuất khẩu: Năm 2008, trị giá hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt gần 4,54 tỷ USD, tăng 35% so với năm 2007 (trong đó 2 mặt hàng đạt kim ngạch lớn nhất là cao su: 1,06 tỷ USD tăng 26% và than đá đạt 743 triệu USD, tăng 14,2%); Năm 2009, trị giá hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt gần 4,91 tỷ USD, tăng 8,2 so với năm 2008. Về nhập khẩu: Năm 2008, Trung Quốc là đối tác lớn nhất cung cấp hàng hoá cho Việt Nam, với trị giá 15,64 tỷ USD, tăng 25,1% so với năm 2007 và chiếm tới hơn 19% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam (các nhóm mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Trung Quốc trong năm 2008 là máy mõc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng: 3,77 tỷ USD, sắt thép: 1,81 tỷ USD, vải các loại: 1,54 tỷ USD). Năm 2009, Trung Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhất cung cấp hàng hoá cho Việt Nam, tổng trị giá nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc đạt 16,4%, giảm 4% so với năm 2008 và chiếm tới 23,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Biểu đồ 1: Tỷ giá CNY/USD trung bình qua các năm (Nguồn: Reuter) Một số nước đã hối thúc Trung Quốc nới lỏng kiểm soát tiền tệ hơn nữa, mục tiêu là giảm sự mất cân đối thương mại và tiết kiệm giữa các quốc gia. Đề xuất này đã buộc Trung Quốc phải lưu tâm và mới đây đã tiến hành nới lỏng tiền tệ, góp phần tăng tỉ giá giữa đồng nhân dân tệ với USD. Đồng nhân dân tệ lên giá đã tạo ra khả năng đa dạng hóa cơ cấu dự trữ quốc gia, hệ quả là đẩy đồng đô la giảm sâu hơn so với các đồng tiền mới nổi nhưng tăng lên so với euro. Một số Ngân hàng Trung ương vốn đã mua USD nhằm duy trì việc neo tỉ giá này đã nhanh chóng đa dạng hóa danh mục dự trữ bằng cách bán 1/3 lượng USD thu được để mua những ngoại tệ khác, chủ yếu là euro vì có rất ít lựa chọn khác và nếu đồng nhân dân tệ tăng giá thì tương quan euro/đô la sẽ giảm xuống. Điều này được nhiều nhà đầu tư và đầu cơ kỳ vọng, kết cục là giá vàng đã tăng lên so với euro, bảng anh và yên nhật trong thời gian qua (bắt đầu từ ngày 23/11/2009). Biểu đồ 2: Tỷ giá CNY/USD theo ngày trong 2 tháng đầu năm 2010 Có nhiều áp lực phải đánh giá lại đồng nhân dân tệ, nhất là sự mất giá gần 40% của USD trong 8 năm qua thể hiện sự không tương xứng với những ngoại tệ chủ chốt, trong khi Trung Quốc và nhiều nền kinh tế mới nổi lại neo tỉ giá với USD vốn đang trượt giá để hỗ trợ xuất khẩu. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi khác với tỉ giá linh hoạt hơn đã phải vật lộn với sự suy giảm tỉ giá. Từ tháng 3/2009, hầu hết các đồng bản tệ tại những nước này đã lên giá mạnh, ảnh hưởng xấu đến năng lực xuất khẩu. Từ đầu năm nay, đồng real brazil cũng tăng mạnh tới 35% so với USD, buộc chính phủ Brazil phải đánh thuế 2% đối với thu nhập và cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài. Không ngạc nhiên gì, Brazil là một trong số các nước G20 đã lên tiếng mạnh mẽ về nhu cầu tăng giá đồng nhân dân tệ nhằm lập lại sự cân bằng kinh tế toàn cầu và qua đó phục hồi USD vốn đang suy yếu. Tuy nhiên, việc tăng giá đồng nhân dân tệ có thể tiếp tục làm tăng thêm việc tập trung euro so với USD đồng thời với việc tăng cường dòng vốn vào các nền kinh tế mới nổi, dẫn đến tăng giá những đồng tiền này hơn là giảm giá, các nhà đầu tư có thể tiếp tục nâng cao vị thế của họ nhờ các đồng tiền mới nổi bởi lẽ việc điều chỉnh đồng nhân dân tệ chỉ là sự bắt đầu của một quá trình điều chỉnh thị trường ngoại hối dài hơi. Do đồng nhân dân tệ được định giá thấp 20-30% so với USD, việc tăng giá đồng nhân dân tệ thêm 3,4% chẳng có nghĩa lý gì so với mức tăng giá đồng tiền này trong 12 tháng qua. Do đồng nhân dân tệ chỉ tăng nhẹ, các nền kinh tế mới nổi, nhất là những đối thủ cạnh tranh xuất khẩu của Trung Quốc tại châu Á, phải tiếp tục đối mặt với áp lực tăng giá bản tệ. Trước đó, các Ngân hàng Trung ương từ Liên bang Nga đến Hàn quốc, Brazil đã hành động để kiềm chế làn sóng đầu cơ đang đe dọa tốc độ phục hồi kinh tế trong nước. Trong tháng 10, Ngân hàng Trung ương Nga đã chi 15 tỉ USD và từ đầu tháng 11 đến nay đã mua trên 5 tỉ USD để kiềm chế tốc độ tăng giá đồng rúp, đồng thời đang tính đến khả năng mua đô la Canada và những đồng tiền khác trong giỏ ngoại tệ mạnh. Trong tháng 10, Ngân hàng Trung ương Brazil đã mua 6,7 tỉ USD, gấp đôi so với tháng trước. Đầu tuần này, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ tỏ ý muốn mua thêm nhiều vàng sau khi đã mua 200 tấn vàng từ Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), v.v. Đồng Euro cũng phải gánh chịu những nỗ lực kiềm chế tăng giá bản tệ của Trung Quốc và những nước khác, những đồng tiền này đã tăng giá khoảng 20% so với USD trong 12 tháng qua, và rất ít sự can thiệp ngoại hối có thể hỗ trợ các nhà xuất khẩu châu Âu, thậm chí gây ra sự đảo chiều. Trong bối cảnh đồng nhân dân tệ tăng giá, nếu USD phục hồi thì tương quan euro/đô la sẽ giảm, nhưng sự phục hồi USD không tác động đến những đồng tiền mới nổi. Trên thực tế, quyết định của Fed về việc tiếp tục duy trì lãi suất thấp để hỗ trợ phục hồi kinh tế sẽ tiếp sức cho hoạt động thương mại. Theo đó, các nhà đầu tư sẽ vay đô la để mua những tài sản sinh lời cao hơn, nhất là tại các thị trường mới nổi, do các nhà đầu tư và phân tích kinh tế lạc quan hơn về triển vọng tại các thị trường mới nổi. Tóm lại, xu hướng lên giá đồng nhân dân tệ mới đây sẽ làm giảm luồng vốn từ Trung Quốc và nhiều nước châu Á vào euro và những đồng tiền thả nổi khác, nhưng không giảm nhẹ áp lực tăng giá bản tệ tại các thị trường mới nổi. Mặc dù bị các quốc gia trên thế giới lên án về việc thực thi chính sách tiền tệ song Trung Quốc vẫn cố gắng kiên định với chế độ tỷ giá BBC nhằm mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, tạo lợi thế thương mại so với các nước bạn hàng và dần đưa đồng nhân dân tệ trở thành đồng tiện mạnh trong hệ thống tiền tệ thế giới, nhằm củng cố vị trí tài chính trên trường quốc tế. Biểu đồ 3: Tỷ giá trung bình các loại ngoại tệ so với USD Một quốc gia khổng thể lựa chọn đồng thời cả 3 giải pháp : ổn định tỷ giá, tự do hoá luồng vốn và chính sách tiền tệ độc lập, mà chỉ có thể chọn tối đa là 2 trong 3 giải pháp trên. Trung Quốc ngày nay đã sử dụng chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hy sinh tự do hoá luồng vốn (tiếp tục kiểm soát vốn). Chính sách BBC mà Trung Quốc theo đuổi có những ưu điểm là: Thứ nhất, do chế độ tỷ giá này neo tỷ giá của nội tệ với một rổ tiền tệ nên góp phần làm ổn định tỷ giá đa phương danh nghĩa và thực tế của Trung Quốc; Thứ hai, Trung Quốc theo đuổi chế độ tỷ giá BBC sẽ tránh được những biến động trong tỷ giá thực nếu trong trường hợp Trung Quốc có mức lạm phát cao hơn so với các nước bạn hàng. Từ đó góp phần duy trì và cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Trung Quốc; Thứ ba, chế độ tỷ giá BBC cho phép quốc gia điều hành tỷ giá linh hoạt hơn tránh được các cú sốc bất thường (như sự chuyển dịch bất ngờ của các luồng vốn lớn), đồng thời cho phép NHTW theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì chế độ tỷ giá BBC mà Trung Quốc đang sử dụng vẫn có một số hạn chế như: Thứ nhất, Mặc dù chế độ tỷ giá BBC được coi là linh hoạt hơn so với các chế độ tỷ giá neo khác, nhưng mức độ linh hoạt của nó vẫn chưa đủ để làm giảm bớt hoặc ngăn chặn những thay đổi lớn và đầy bất ngờ về tâm lý của các nhà đầu tư cũng như của các luồng vốn cá nhân. Khi nền kinh tế phải hứng chịu một cú sốc lớn, dù là bên ngoài hay bên trong, thì có lẽ biên độ dao động lên tới 15% cũng không đủ để kiểm soát ảnh hưởng các cú sốc này. Trong trường hợp này, Ngân hàng Trung ương sẽ phải tiếp tục nới lỏng biên độ dao động hơn nữa cho phù hợp với sự biến động của tỷ giá trên thị trường tự do. Khi vai trò của biên độ dao động không còn nưa và thay vào đó là một chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này đã được chứng minh trong các cuộc khủng hoảng tiền tệ diễn ra ở Indonesia, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ. Thứ hai, nhiều nhà kinh tế tỏ ra nghi ngờ về khả năng của chế độ tỷ giá BBC trong việc làm hạn chế các hoạt động đầu cơ tỷ giá cũng như vai trò của nó như một mục tiêu danh nghĩa của chính sách tiền tệ. Qua bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về điều hành chính sách tỷ giá, Việt Nam cần phải có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô và duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong từng giai đoạn. CHƯƠNG III: BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 3.1. So sánh những điểm tương đồng và khác biệt về kinh tế của hai nước Trung Quốc cũng như Việt Nam là những nước có nền kinh tế đang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchinh_sach_ty_gia_cua_tq_5496.doc
Tài liệu liên quan