MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 0
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1
I. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái 1
1. Tỷ giá hối đoái: 1
2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái 1
3. Phân loại tỷ giá hối đoái 1
II- Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái: 2
III. Các chế độ tỷ giá hối đoái 3
IV. Sự can thiệp của nhà nước vào tỷ giá hối đoái: 4
CHƯƠNG II. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM 6
I- Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá VIệt nam 6
1. Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993 7
2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996: 8
3. Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường (1992 - 1997) 9
4. Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm 1997 đến nay. 10
II.Lợi thế và hạn chế trong cơ chế điều hành 11
IV.Mục tiêu nhiệm vụ và định hướng của chính sách tỷ giá hối đoái 13
1. Mục tiêu 13
2. Nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái: 16
3.Định hướng điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 17
CHƯƠNG 3. TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ 19
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6286 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ trương và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã từng bước xoá bỏ cơ chế độc quyềnngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản; chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa rời với thị trường; tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các quan hệ và điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia ra 3 giai đoạn:
1. Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1 dưới đây:
Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993
Năm
Tỉ giá USD/VND
Lạm phát
Giá chính thức của nhà nước
Giá thị trường tự do
Tăng giảm %
1989
4.200
4.570
+8.80
+34.070
1990
6.650
7.550
+13.50
+67.50
1991
12.720
12.550
-0.02
+68.00
1992
10.720
10.500
-0.02
+17.50
1993
10.835
10.736
-0.01
+5.20
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
_ Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
_ Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốc USD làm mất ổn ddịnh nền kinh tế.
_ Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
_ Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD. Nội dung chính của những thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là:
_ Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định băngf biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận.
_ Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như vậy cộng với sự can thiệp điều tiết của ngân hàng nhá nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng quá mức giá Đôla Mỹ trên thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu giảm.
2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996:
Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996
Năm
Tỉ giá USD/VND
So sánh % năm trước
Tốc độ lạm phát (%)
1993
10.835,00
100%
5.2
1994
11.050,00
+1.98%
14.7
1995
11.040,00
0%
12.7
1996
11.060,00
+0.18%
4.5
(số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và từ số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997)
Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này không chênh lệch nhiêù nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của nhà nước làm cơ sở tính toán. Qua bảng số liệu (bảng2), chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc đọ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố đối ngoại.
Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 - 1996_ đã không khuyến khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây:
Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (đơn vị tính: triệu USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
So sánh
1
2
3
4=3-2
1993
2.985
3.924
-939
1994
4.054
5.825
-1.771
1995
5.448,9
8.155,4
-2.706,5
1996
7.255
11.143
-3.888
(số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành phố HCM qua các năm 1996-1997-1998)
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ này càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996) tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995 lên 3,8 tỷ USD năm 1996 .
Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm 1997 cho đén nay nhà nước đã có những chỉ đạo:
+ Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC At Sight là chủ yếu, hạn chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài hạn ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc.
+ Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.
3. Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường (1992 - 1997)
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của ngân hang nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vàonhiều nên kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo ngược so với cùng kỳ mội năm, giá Dola giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân Hà nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400. Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD. Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân hang phải mua Dola vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này. Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định (ở đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD).
Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, xét trên khía cạnh phạm vi cũng như cơ cấu tổ chức, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng tham gia vào giao dịch tăng nhanh. Phạm vi và cường độ giao dịch cũng ngày càng phát triển và mở rộng. Trước tình hình mới Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng ra đời, thay thế hoạt động của hai trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên Ngân hang có qui mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực tế hơn. Đồng thời qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể bắt nắm được nhu cầu tổng thể của nền kinh tế về ngoại tệ trong từng thời kỳ, điều tiết kịp thời tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước đã thông qua thị trường lien Ngân hang để nắm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố hang ngày và biên độ qui định tỷ giá giao dịch cho các Ngân hàng thương mại làm công cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hoà hướng tỷ giá thị trường theo mục tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực lực của Ngân hàng Nhà nước về ngoại tệ cũng đã tăng lên, tỷ giá đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng tiền Việt Nam và quan hệ cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đủ điều kiện cho phép Ngân hàng Nhà nước dần dần nới hơn đối với cơ chế điều hành tỷ giá. Thực tế tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát với thực tế và biên độ giao dịch cho các Ngân hàng thương mại đã được mở rộng liên tục ( tử # 0,5%, +_ 0,1% đến #5% so với tỷ giá chính thức )
* Tóm lại từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã bị xoá bỏ và chuyển sang trạng thái nổi cho đến cuối năm 1991. Từ năm 1992 đến nay, tỷ giá hối đoái được hình thành theo phương pháp ổn định có điều chỉnh, nhìn chung, tỷ giá hối đoái đã có những bước tiến lớn so với trước: chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái qui định và tỷ giá hối đoái thị trường ngày càng nhỏ ( điều đó chứng tỏ khả năng chi phối của Ngân hàng trung ương đối với tỷ giá hối đoái ), mức tỷ giá hối đoái đã phản ánh giá trị ngoại tệ và quan hệ cung cầu.
Qua quá trình điều hành tỷ giá hối đoái và thực tế nền kinh tế nước ta, chúng ta có thể khẳng định tính hợp lý tương đối khách quan của chính sách tỷ giá và cơ chế điều hành trong thời gian qua là phù hợp với quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, phù hợp với thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, với xu hướng ngày càng phát triển của nền kinh tế theo hướng thị trường cần xem xét kỹ lợi và hạn chế trong cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay để đưa ra giải pháp tối ưu trong thời gian tới.
4. Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm 1997 đến nay.
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường lúc ngưng trệ. Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi xuất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung cầu VNĐ trên thị trường.
Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái VNĐ.
Năm 1997 dư nợ LC ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USĐ so với 1,4 tỷ USĐ vào tháng 6 năm 1996. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực châu á đã ảnh hưởng gây sức ép VNĐ do yếu tố đầu cơ của thị tường, đã đẩy tỷ giá ở thị trường tự do tăng mạnh có lúc lên đến 14600 VNĐ/USĐ.
Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nói rằng năm 1997 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, một năm với những khó khăn và thử thách trên hầu hết các lĩnh vực Mặc dù có những tổn thất mất mát nhưng hoạt động Ngân hàng vẫn tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp theo. Những kết quả nổi bật này được thể hiện qua một số nội dung. Góp phần kiềm chế lạm phát ở mức thấp, nhưng vẫn đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức nhất định.
- Ngân hàng nhà nước đã chủ động tham mưu cho chính phủ trong việc điều hành lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nền kinh tế.
Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao xu giảm 42% dầu thô giảm 30% giầy da và may mặc cũng đang giảm mạnh, riêng mặt hàng gạo trong năm qua bị thiên tai, lũ lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và nhanh chóng duy trì việc xuất khẩu gạo.
-Nguyên nhân nhập siêu trong thời gian qua là do Ngân hàng điều chỉnh tỷ giá bị đông cứng, đúng là tỷ giá có tác động lớn đến xuất nhập khẩu bởi nó là giá cả của hoạt động mua ( nhập khẩu ) và hoạt động bán 9 xuất khẩu ). Tỷ giá đứng ( trên thực tế là giảm so với biến động giá trong nước ) làm cho bán cũng rẻ mà mua cũng rẻ. Bán rẻ sẽ không khuyến khích bán, mua rẻ sẽ khuyến khích mua. Mua thì được khuyến khích, bán thì bị hạn chế, do đó đưa đến tình trạng nhập siêu. Ngoài ra còn nguyên nhân khác nữa là định hướng xuất khẩu yếu, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý chặt.
Bước qua năm 1998, những tháng trước và sau Tết, tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng trở nên phức tạp, giá USD mỗi ngày một tăng, thậm chí có ngày thay đổi giá vài lần điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua thiết bị hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không giám vay vì sợ tỷ giá ngoại tệ tăng đột biến sẽ không trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, Ngân hàng không mua không bán và cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó, chính phủ đã có một quyết định đúng nhằm kiểm soát ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam bằng việc ban hành quyết định 37/1998/ QĐ- TTg ( ngày 14/2/1998 ) " về một số biện pháp quản lý ngoại tệ " Đây là một bước thành công lớn của nhà nước ta trong vấn đề quản lý và kiểm soát ngoại tệ, nhanh chóng làm giảm cơn sốt tỷ giá ngoại tệ. Giá USD ở thị trường tự do hơn một tháng nay đã giảm đến mức thấp, bình quân là 13.020 VNĐ/USD. Tỷ giá thị trường tự do, thị trường có tổ chức ( thị trường liên ngân hàng, ngân hàng ) đã sát lại gần nhau. Hiện nay ngân hàng đã kiểm soát được trên 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường, đã thu hút từ nhiều nguồn một lượng ngoại tệ tăng thêm.
II.Lợi thế và hạn chế trong cơ chế điều hành
1. Lợi thế
Cơ chế điều hành tỷ giá trên qui định tỷ giá chính thức tạo điều kiện cho Ngân hàng trung ương dễ dàng kiểm soát, điều tiết được thị trường hối đoái. Trước hết là thị trường ngoại tệ trên Ngân hàng. Biên độ giao đồng quanh tỷ giá chính thức là một công cụ hữu hiệu trong suốt giai đoạn vừa qua giới hạn này mà chúng ta đã đạt sự ổn định tương đối của tỷ giá hối đoái trong những năm qua, góp phần không nhỏ để đạt mục tiêu ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế.
- Thông qua tỷ giá của các Ngân hàng thương mại trong biên độ qui định. Ngân hàng Nhà nước có thể dễ dàng nắm bắt được diễn biến cung - cầu ngoại tệ thực tế của nền kinh tế, nhận biết được xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời. Qui định chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán cho các Ngân hàng Thương mại, ở một mức độ nào đó, hạn chế khả năng đầu cơ tỷ giá của các Ngân hàng tránh trường hợp tỷ giá mua và tỷ giá bán quá chênh lệch.
- Cơ chế tỷ giá thống nhất đã tạo ra một môi trường pháp lý vững chắc cho các hoạt động kinh tế - thương mại trong tổng hoá các mối quan hệ của nền kinh tế. Đồng thời tỷ giá chính thức tạo ra được một cơ sở pháp lý, mang tính chủ quyền cho đồng tiền Việt Nam trong các quan hệ đối ngoại.
2. Hạn chế
- Cơ chế công bố tỷ giá chính thức hàng ngày theo phương pháp hiện tại, đôi lúc tỏ ra có nhiều khó khăn trong việc hướng thị trường, vận động theo mục tiêu Ngân hàng Trung ương đặt ra. Bởi " Nhất cử nhất động " của Ngân hàng trung ương, đặc biệt trong lĩnh vực tỷ giá - một lĩnh vực cực kỳ nhạy bén, đều tạo cho thị trường những yếu tố tâm lý tức thời. Trước những biến động của tỷ giá thị trường, việc thay đổi tỷ giá chính thức ở một chừng mực nào đó không thể giải quyết ngay lập tức biên độ để cho phép các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ nếu thay đổi tỷ giá chính thức lớn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về chính sách của Ngân hàng Trung ương. Bên cạnh đó, Ngân hàng trung ương cũng không thể thay đổi biên độ quy định giới hạn tỷ giá mua bán của các Ngân hang Trung ương thường xuyên được.
- Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay. Khi mức chênh lệch tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Trung ương, và tỷ giá thị trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt sự chênh lệch trên gây ra những yếu tố tâm lý, không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hang Thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định, thì việc công bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa mức tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể hiện vai trò quản lý của nó.
- Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay, khi mức chênh lệch tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt, sự chênh lệch trên gây ra những yếu tố tâm lý không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hang thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định thì việc công bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể hiện vai trò của nó.
- Việc sử dụng tỷ giá chính thức như hiện nay để tính thuế xuất nhập khẩu tỏ ra còn có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thể hiện được vai trò quản lý vĩ mô và điều tiết đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi lẽ khi tỷ giá chính thức cách biệt với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ gía thị trường tự do, thì tỷ giá tính thuế sẽ bị hạn chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Chênh lệch về tỷ giá này sẽ tạo ra bất bình đẳng trong quan hệ thương mại, một số trường hợp không tạo được lợi thế trong cạnh tranh đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu.
- Với biên độ giao dịch trong phạm vi 5% hiện nay việc qui định mức chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán tỏ ra chưa hoàn toàn hợp lý đối với
các Ngân hàng Thương mại. Thứ nhất, khi thị trường hối đoái có tính chất động, luôn thay đổi, trong khi đó các giao dịch lại liên tục diễn ra, nên qui định mức chênh lệch chỉ thể hiện mặt quản lý danh nghĩa, các Ngân hang Thương mại khó có thể tuân thủ đúng qui định này được. Thứ hai, khung qui định chênh lệch như vậy là tương đối chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ các Ngân hàng Thương mại đã phải xác định chênh lệch tỷ giá mua, bán phải tuỳ theo vào cung - cầu của mỗi Ngân hàng, tuỳ thuộc vào khả năng dự tính về lợi nhuận và khả năng của mồi Ngân hàng. Thực chất qui định chênh lệch tỷ giá mua bán quá chặt chẽ như vậy không khuyến khích hoạt động trên thị trường theo đúng các quan hệ nội tại của nó và phần nào không tạo ra một môi trường cạnh tranh hoàn hảo trong kinh doanh.
IV.Mục tiêu nhiệm vụ và định hướng của chính sách tỷ giá hối đoái
1. Mục tiêu
Khái quát lại cơ sở để hoạch định và xác định mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn tới bao gồm.
- Hiện trạng kinh tế - tài chính nước ta ( trong đó quan trọng nhất là tính hợp lý của tỷ giá hiện hành, thực trạng ngân sách, tài chính, tiền tệ, thị trường tài chính, lạm phát, cán cân thanh toán quốc tế...), tuy đã được cải thiện một bước căn bản, song vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn và xu hướng tiếp tục lên giá của Việt Nam đồng tương đối rõ nét.
- Triển vọng kinh tế tuy sáng sủa, song mục tiêu và phục vụ chiến lược Việt Nam là rất nặng nề, đòi hỏi bản lĩnh điều chỉnh kinh tế vĩ mô phải hết sức năng động, vững vàng quán triệt đầy đủ các mục tiêu định hướng ưu tiên.
Hiện trạng kinh tế đối ngoại, đặc biệt là chiến lược mở cửa nhanh trong bối cảnh quốc tế đầy biến động và diễn biến thất thường. Song yêu cầu của quan hệ kinh tế đối ngoại phải có hiệu quả ổn định và vững chắc. Tuy nhiên để nâng cao luận cứ cho việc lựa chọn mục tiêu, xác định nhiệm vụ cụ thể của chính sách tỷ giá hối đoái chính xác hơn, từ đó lựa chọn giải pháp, công cụ điều chỉnh để đạt mục tiêu đề ra cần nhận thấy.
Thứ nhất, đối tượng, phạm vi điều chỉnh, tác động trực tiếp của chính sách nằm trong lĩnh vực tiền tệ, các quan hệ tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước giữa các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên, định hướng điều chỉnh của chính sách tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô khác ( nợ nước ngoài, ngoại thương FDI, huy động vốn nội địa, chiều hướng vận động của các dòng vốn ). Song đây là các hệ quả gián tiếp và hiệu ứng thực tế của sự ảnh hưởng nói trên còn phụ thuộc nhiều chính sách, yếu tố khác.
Thứ hai, với tư cách về mặt đối ngoại của chính sách tiền tệ tuy có những đặc thù riêng song hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái phải xuất phát từ định hướng phù hợp với các mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ ở từng giai đoạn phát triển ( tương ứng với mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế chiến lược giai đoạn 1996-2000 ) tăng chưởng nhanh, bền vững, công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì chính sách tiền tệ có hai mục tiêu trung gian cơ bản: Một là, kiềm chế vững chắc lạm phát ở mức thấp, kéo lạm phát xuống một con số.
Hai là phát triển hệ thống tài chính- tiền tệ nhằm nâng cao tỷ lệ tích luỹ và đầu tư cho nền kinh tế Xét về dài hạn, triển khai chính sách tỷ giá hối đoái là hướng vào mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế.
* Những mục tiêu chủ yếu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2001-2005 bao gồm
1. Mục tiêu trực tiếp: thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá hối đoái cân bằng, ổn định dựa trên sức mua thực tế của Việt Nam đồng với các ngoại tệ, tương quan cung cầu trên thị trường
2. Mục tiêu chiến lược: không ngừng nâng cao uy tín của ViệtNam đồng trên cơ sở ổn định vững chắc giá trị của nó, sự tương đồng hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại.
3. Phối hợp với chính sách quản lý ngoại hối và đẩy lùi căn bản hội chứng Đô la hoá nền kinh tế trên cơ sở tạo ra đầy đủ tiền đề kinh tế, pháp chế để Việt Nam đồng thực hiện trọn vẹn chức năng của mình và tăng cường vai trò trong đời sống kinh tế, nhất là trong lưu thông thanh toán và với phương cách là phương tiện tích luỹ tài sản.
4. Tạo ra các tiền đề cần và đủ để mở rộng hình thức, nội dung phạm vi chuyển đổi của ViệtNam đồng
5. Tăng dự trữ ngoại tệ lên mức thích hợp và với cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Sở dĩ vấn đề uy tín của Việt Nam đồng được nhấn mạnh bởi nó có ý nghĩa hết sức to lớn trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, đối nội và đối ngoại, đồng thời gắn với hàng loạt vấn đề mang tầm chiến lược. Trên phương diện lý thuyết lẫn thực tế, sự mất uy tín của đồng bản tệ ở bất kỳ quốc gia nào bao giờ cũng là nguyên nhân của các biến động kinh tế, tài
chính và để lại nhiều hậu quả tiêu cực khó lường. Rõ ràng một đồng tiền mất uy tín tất yếu sẽ làm tổn thương đến tích luỹ, đầu tư nội địa, loại bỏ sự hấp dẫn với FDI, tăng nguy cơ lạm phát, chi phí lãi xuất huy động cao, nếu trầm trọng có thể bị tước bỏ chức năng, bị đẩy ra khỏi hệ thống thanh toán tạo điều kiện cho hội chứng Đôla hoá...Là một nước mới ra khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng, siêu lạm phát, uy tín của Việt Nam đồng trong dân chúng chưa cao, đã hiểu cái giá phải trả cho việc đồng tiền bị mất uy tín giai đoạn vừa qua.
Do vậy việc nhận thức đầy đủ vấn đề nâng cao uy tín của đồng tiền quốc gia cũng chính là một tác nhân trực tiếp vào chiến lược vốn, chiến lược tăng trưởng nhanh, bền vững của nước ta.
Đối với một quốc gia, chủ quyền tiền tệ là tối quan trọng, tình trạng Đôla hoá những năm qua ở Việt Nam gây nhiều hệ quả tiêu cực, song trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện để sử lý triệt để vấn đề này. Sau khi nền kinh tế đã ra khỏi khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ đã được cải thiện một bước cơ bản, các tiền đề cần và đủ cho thực hiện chủ quyền tiền tệ đã xuất hiện. Hơn nữa, việc xây dựng chủ quyền tiền tệ còn là yêu cầu đòi hỏi cấp bách từ yêu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn tới. Nền kinh tế bị Đôla hoá nghiêm trọng, có nghĩa là chính sách tiền tệ của quốc gia đó bị phụ thuộc vô hình vào chính sách tiền tệ của Mỹ, sự biến động của USD trên thị trường quốc tế, đồng thời không cho phép nắm, tính toán kiểm soát được khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nội tệ bị tước đoạt chức năng, đặc biệt là phạm vi điều chỉnh của Ngân hàng Trung ương bị thu hẹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Taichinh (57).doc