Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam

· Trước những năm 1990, với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, nhà nước ta đã duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Thời gian này, sự điều hành và quản lý nền kinh tế thị trường còn sơ khai, kinh nghiệm và kiến thức về quản lý nền kinh tế thị trường còn chưa nhiều. Đặc biệt trong thời kỳ này nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ khủng hoảng, lạm phát phi mã nên mong muốn có một nền kinh tế ổn định và phát triển là rất lớn. Nhiều chuyên gia cho rằng cần áp dụng cơ chế tỷ giá cố định làm cho lòng tin của nhân dân vào đồng Việt Nam tăng lên. Với cơ chế tỷ giá cố định cũng tạo ra tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài.

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3426 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho rằng cơ chế này sẽ có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế tạo ra một xung lực mới khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu và sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm. Cơ chế này sẽ tạo nên sự cân bằng giữa cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Tuy nhiên Việt Nam đang còn trong những bước sơ khai chuyển sang nền kinh tế thị trường, mọi cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập đặc biệt là cơ chế chính sách về tài chính tiền tệ. Nếu nước ta áp dụng cơ chế chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ dẫn đến rối loạn hoặc khủng hoảng khi sức lực của nền kinh tế còn quá nhỏ bé, hệ thống cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và kiến thức cũng như kinh nghiệm về vấn đề này còn ít. Tất cả những điều đó có lợi cho xuất khẩu nhưng lại bất lợi cho nhập khẩu. Ví dụ, khi tỷ giá VND/USD lên quá cao không ngừng sẽ diễn ra nhiều biến động khác khó lường như thất nghiệp, phá sản của các doanh nghiệp và giảm sút về đời sống của nhân dân, gây rối loạn xã hội, làm cho chính trị và kinh tế bất ổn định. Đại đa số các chuyên gia cho rằng Việt Nam nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái có sự điều chỉnh của nhà nước là phù hợp nhất. Cơ chế tỷ giá hối đoái cố định mặc dù có một số ưu điểm không thể phủ nhận được nhưng cũng có nhiều nhược điểm không phù hợp với nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó cơ chế tỷ giá hối đoái cố định cũng có rất nhiều nhược điểm nếu nó được áp dụng cho Việt Nam khi mà nền kinh tế nước ta còn quá non kém. Do vậy áp dụng cơ chế linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước vừa phản ánh đúng đòi hỏi của cơ chế thị trường vừa đảm bảo tính chủ động và bàn tay “cứng rắn” của nhà nước can thiệp khi có biến động để tạo ra sự phát triển năng động của nền kinh tế và mặt khác tạo ra sự phát triển một cách ổn định và vững chắc của nó. Chính vì vậy, Việt Nam đã thiết lập hệ thống tỷ giá hối đoái theo tín hiệu thị trường có sự can thiệp của chính phủ từ tháng 3 năm 1989. Với sự kiện phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất hệ thống tỷ giá mới, xoá bỏ hệ thống tỷ giá cũ thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có những biến động rất căn bản sang cơ chế thị trường. Với sự thành lập của hai trung tâm ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (1994) đã đánh giá bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của chính phủ trong giai đoạn 1990 đến 1997 là áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt dưới sự điều tiết của nhà nước, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VND theo USD qua một số ngoại tệ hẹp, trong đó USD chiếm một tỷ trọng lớn. Tuy nhiên chế độ này cũng bộc lộ một số nhược điểm của nó là ổn định quá lâu dẫn đến không khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy trong những giai đoạn cuối của những năm 1997 đến đầu 1999, để thích ứng hơn với thị trường và cũng để hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á (2/7/1997) ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng biên độ. Ngày 13/10/1997 mở rộng biên độ giao dịch lên mức +(-) 10% Ngày 16/2/1998 nâng tỷ giá chính thức từ 1 USD =111175 VND lên mức 1 USD =11800 VND, tăng 5,6%. Ngày 7/8/1998 thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn +(-) 7% , đồng thời nâng tỷ giá chính thức lên 1 USD =12998 VND. Từ ngày 6/11/1998 đến 15/1/1999 là một chuỗi những điều chỉnh giảm liên tục trong tỷ giá chính thức cùng biên độ. Thực tế, mỗi sự thay đổi sự thay đổi chính sách tỷ giá đều có những tác động nhất định trong đời sống kinh tế và đôi khi ngân hàng nhà nước cũng rơi vào tình trạng muốn điều chỉnh tỷ giá chính thức cho phù hợp với tình trạng thực tế nhưng lại rất khó khăn. Nếu điều chỉnh hằng ngày sẽ gây tâm lý bất ổn, còn nếu giữ quá lâu khi điều chỉnh sẽ dễ gây biến dộng đột ngột. Cơ chế này rõ ràng là không phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường và thông lệ quốc tế. Vì thế việc thay đổi cách xác định tỷ giá chính thức là cần thiết. Từ 26/2/1999 tỷ giá chính thức được công bố hằng ngày, được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của thị trường giao dịch gần nhất trước đó. Đây là sự thay đổi cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp với quy luật thị trường. Đồng thời từ ngày 26/2 biên độ giao dịch cũng được rút xuống +(-) 0.1%. Điều này có thể gây nên một bất lợi thế không thể dự đoán trước được. Nếu trong một ngày giao dịch nào đó, thị trường có những đột biến về cung cầu của ngày giao dịch gần nhất trước đó thì do ràng buộc của biên độ với tỷ giá là bình quân giữa mua và bán chắc chắn sẽ làm cho giao dịch trên thị trường của ngày hôm đó bị đình trệ, đóng băng. Từ đó sẽ tác động tiêu cực đến trở lại đến các giao dịch trên thị trường ngoại tệ bên ngân hàng và lại tiếo tục tác động xấu đến các giao dịch trên thị trường chính thức của ngày kế tiếp, dẫn đến một sự khủng hoảng thị trường. Sau khi thay đổi mức công bố tỷ giá chính thức thì trong giai đoạn đầu tỷ giá mua của các ngân hàng là thấp hơn tỷ giá chính thức, còn tỷ giá bán cao hơn tỷ tỷ giá chính thức. Nhưng chỉ gần 1 tháng sau thay đổi tỷ giá chính thức thì tỷ giá mua và bán của ngân hàng luôn cao hơn tỷ giá chính thức. Nếu tính từ đầu năm 1999 đến tháng 11/2003 chúng ta đã áp dụng tỷ giá linh hoạt có quản lý của Nhà nước được gần 5 năm. Trong 5 năm qua chúng ta đã áp dụng chế độ biên độ dao động của tỷ giá hối đoái ở mức thấp 10,1% và hiện nay biên độ này có nới lỏng hơn. Quan sát thực tế cho thấy đồng Việt Nam hàng năm mất giá khoảng 2% so vơi 2002. Đến cuối tháng 11/2003, đồng USD mất giá kỷ lục so với hầu hết các loại ngoại tệ trên thị trường tài chính quốc tế, nhưng đối với đồng VND thì USD lại lên giá (đến 28/11/2003 1USD = 15.760 VND). Nhìn chung từ đầu năm 1999 đến nay bình quân hàng năm giảm giá khoảng 2,64%. Điều này đã góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh, đẩy mạnh xuất khẩu và làm ổn định nền kinh tế. Tóm lại, quá trình cải cách chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong suốt thời gian qua là phù hợp với quá trình cải cách kinh tế nói chung và là quá trình cải cách lĩnh vực tài chính - tiền tệ nói chung. Từ một chính sách tỷ giá mang nặng tính bao cấp đã chuyển sang một chính sách tỷ giá vận hành dựa trên cơ sở thị trường. Đặc biệt với cơ chế tỷ giá hối đoái chính thức và giới hạn biên độ giao dịch đã tạo điều kiện cho ngân hàng nhà nước điều tiết được thị trường, hạn chế được các cú sốc và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam: Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác động mạnh vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường, từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản chính sách tỷ giá hối đoái tập trung chú trọng vào hai vấn đề. Đó là vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Như đã nói ở trên Việt Nam đã lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự can thiệp của nhà nước. Vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái sao cho nó phù hợp với quy luật của thị trường luôn là vấn đề khó khăn do đặc tính luôn luôn biến động không ngừng của tỷ giá. Việt Nam điều hành chính sách tỷ giá hối đoái cũng không nằm ngoài hai mục tiêu cơ bản sau: Mục tiêu cân bằng nội: Toàn dụng lao động và giá cả. Khi các nguồn lực quốc gia đã được sử dụng đầy đủ và mức giá của quốc gia đó ổn định thì quốc gia đó được xem là tình trạng cân bằng nổi. Để tránh tình trạng mất ổn định mức giá, chính phủ phải ngăn chặn sự dao động lớn trong tổng sản phẩm. Chính phủ phải ngăn chặn tình trạng lạm phát kéo dài bằng cách đảm bảo cung ứng tiền tệ không tăng lên nhanh quá hoặc chậm quá. Mục tiêu cân bằng ngoại: cân đối trong tài khoản vãng lai của một nước. Phần lớn các nhà kinh tế thường đồng nhất cân bằng ngoại với sự cân đối trong tài khoản vãng lai của một nước. Cách xác định này thích hợp trong một số trường hợp nhưng nó không có tác dụng như một quy tắc chung. Mục tiêu của cấn đối bên ngoài là một tài khoản vãng lai cho phép thực hiện được những lợi ích quan trọng từ những dòng vốn đầu tư dài hạn mà không phải mạo hiểm. Để thực hiện việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái cần có những công cụ riêng có như lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở. Trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu trên thị trường ngoại tệ, khi lãi suất chiết khấu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc làm những người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi dòng vốn của minh sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm ổn định tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên cách làm này có nhiều hạn chế nhất định. Nghiệp vụ thị trường mở cũng là một công cụ tác động mạnh đến tỷ giá hối đoái vì có ảnh hưởng nội sinh đến tỷ giá hối đoái và có thể dễ thực hiện nghiệp vụ đảo ngược nếu xảy ra hiện tượng mua bán quá mức. Trong thời gian qua nghiệp vụ thị trường mở đã phát huy vai trò to lớn trong việc điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán và ổn định thị trường tiền tệ. Khi tỷ lệ lạm phát tăng có thể điều hành công cụ này bằng cách tăng các phiên giao dịch, doanh số mua bán và ngân hàng nhà nước tăng số lượng phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước và chào bán giấy tờ có giá ngắn hạn, nhằm thu hét lượng tiền thừa trong lưu thông. Lạm phát tăng mà điều hành lãi suất tăng là cách xử lý đúng hướng. Bởi vì lúc đó các tổ chức tín dụng có điều kiện tăng cường thu hút nguồn vốn huy động và cũng hạn chế cho vay đối với nền kinh tế. Từ đó lượng cung ứng tiền tệ sẽ giảm đi tương ứng. Trong điều kiện thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, ngân hàng nhà nước đã thực hiên kiểm soát lãi suất thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Đánh giá ảnh hưởng từ công cụ này đến lạm phát là không lớn, nên ngân hàng nhà nước không điều chỉnh tăng kên và vẫn giữ ở mức ổn định trong thời gian qua. Đồng thời ngân hàng nhà nước sử dụng linh hoạt tiền cung ứng để đảm bảo thanh khoản trong nền kinh tế, mở rộng quy mô và mức độ hoạt động của thị trường liên ngân hàng, cùng sự phối hợp của Hiệp hội ngân hàng để giữ cho lãi suất huy động và lãi suất cho vay không có sự biến động lớn. Nhờ đó mà từ 2004-2005 ta đã giữ được tỷ giá hối đoái khá ổn định. Trên cơ sở đảm bảo cân đối cung cầu ngoại tệ, chỉ mua ngoại tể đẻ tăng dự trữ khi thị trường ngoại tệ thực sự dư thừa và sẵn sàng bán ngoại tệ từ quỹ bình ổn để can thiệp nếu xuất hiện sự khan hiếm. 3. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái với sự phát triển nền kinh tế ở Việt Nam. Tỷ giá hối đoái tác động đến hầu hết các nhân tố vĩ mô làm tăng trưởng kinh tế. Trước hết phải kể đến tác động của tỷ giá tới GDP, một chỉ tiêu phản ánh một các tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ giá hối đoái tác động tới GDP làm tăng hay giảm GDP thông qua những nhân tố vĩ mô đóng góp vào cơ cấu GDP, qua đó tác động vào sự tăng trưởng kinh tế. Tỷ giá hối đoái với vấn đề lạm phát: Hiện nay nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát cao, giá cả tăng ở hầu hết các mặt hàng, sức mua của đồng tiền giảm, đặc biệt là sức mua đối nội của VND, xu hướng tiết kiệm từ VND sang ngoại tệ. Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do “cầu kéo” và “chi phí đẩy” và chính sách tiền tệ. Sau đây là bảng so sánh chỉ số tăng giá tiêu dùng với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người tháng - Bảng 1 (trang bên) GDP trong bình quân đầu người tháng và chỉ số tăng giá tiêu dùng cuói năm 2004 so với các năm GDP Năm 1994 (tỷ đồng) GDP Năm 1994 (tỷ USD) Dân số trung bình (ngàn người) GDP đầu ng/tháng (theo giá USD năm 1994) GDP đầu người/tháng (ngàn đồng) Chỉ số giá hàng tiêu dùng cuối năm so với năm trước Chỉ số giá hàng tiêu dùng cuối năm so với năm 1994 (=100) 1995 228.892 20,7 70.824 289 112,7 112,7 2000 441.649 39,9 71.995 514 265 99,4 129,5 2001 481.295 43,5 77.635 553 474 100,8 130,3 2002 535.762 48,5 78.685 607 510 104,0 130,7 2003 605.538 54,8 79.727 684 560 103,0 131,0 2004 651.607 58,9 80.902 717 624 109,5 140,5 2005 Phương án A 703.736 63,6 82.100 764 717 107 2005 Phương án B 706.993 63,9 83.200 786 705 Chính sách tiền tệ của ngân hàng là làm sao kiểm soát được tốc độ lạm phát thấp hơn tốc độ phát triển kinh tế. Qua các số liệu thống kê, GDP đầu người Việt Nam đã tăng từ năm 2000 với 265 ngàn đồng/ tháng lên 717 ngàn đồng/ tháng năm 2004 theo giá so sánh năm 1994, gấp 2,8 lần theo giá bất biến năm 1994 trong khi giá tăng luỹ tiến cùng thời gian chỉ 40,5% . Như vậy tình hình giá cả ổn định không đáng lo lắng. Tuy nhiên so với các năm trước, năm 2000 (- 0,6%), năm 2001 (+0,8%). Năm 2004 (+4%), năm 2003 (+3%), năm 2004 giá tăng mạnh, đến tháng 8/2004 lên 8,6%, cuối 2004 lên tới 9,5%. Đến 8 tháng đầu năm 2005 lạm phát còn 6.8%. Sự tăng giá 9,5% năm 2004 xảy ra không do nguyên nhân tiền tệ ngân hàng mà là do nạn cúm gia cầm đầu năm 2004 và hạn hán nghiêm trọng trong nước, tiếp theo là giá xăng dầu cũng tăng vọt kéo theo sự tăng giá dây chuyền của những mặt hàng nhập khẩu. Mặt khác, giá hàng nông khoáng sản xuất khẩu cũng tăng khiến cho các nhà thu mua hàng xuất khảu tăng giá thu mua, gây ảnh hưởng dến việc tăng giá nông sản trong nước. Trong những năm gần đây, nông dân thường bị thiệt vì hàng công nghiệp dịch vụ tăng giá nhanh hơn hàng nông sản. Như vậy việc tăng giá nông sản là việc đáng mừng, không đáng lo. Việt Nam là nước xuất khẩu dầu nên nhà nước đã có khả năng lấy lời xuất dầu thô bù cho lỗ nhập xăng dầu. Do việc tăng giá 9,5% năm 2004 có những nguyên nhân phi tiền tệ nên không cần thay đổi nhiều chính sách tỷ giá, lãi suất, dự trữ bắt buộc mà chủ yếu cần các biện pháp phi tiền tệ để ổn định tỷ giá: như bù giá cho các nhà nhập khẩu xăng dầu, phục hồi đàn gia cầm, áp dụng các biện pháp tiết kiệm xăng dầu, tim các nguồn năng lực mới đưa vào sản xuất như gaz, gió, năng lực ánh sáng mặt trời… Đặc biệt, năm 2004 đã thành công đưa khí vào bờ và sản xuất urea có tác dụng tiết kiệm tốt trên cân năng lượng và ngoại tệ, thành công ký các hợp đồng đóng tàu 53.000 tấn, chuẩn bị ký hợp đồng đóng tàu 100.000 tấn, tổ chức lắp ráp hàng ngàn xe buýt năm, tổ chức được một số nhà máy lắp ráp xe ô tô buýt nên trong kinh tế đã có những bước đột phá tốt, cần tiếp tục các phương hướng phát triển phi tiền tệ này để đẩy mạnh nhịp phát triển kinh tế quốc gia nhằm tạo tác dụng phi tiền tệ giảm phát. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ, nó là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hướng tới. Tỷ giá hối đoái chịu tác dụng của nhiều nhân tố, trong đó hai yếu tố quan trọng nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan cung cầu tiền tệ. Khi lạm phát tăng, sức mua của đồng tiền giảm so với ngoại tệ làm cho tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ so với đồng nội tệ tăng và ngược lại. Khi đó tỷ giá hối đoái cao có tác dụng kích thích các hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán. Tỷ giá hối đoái cao sẽ kích thích nhập khẩu vốn, kiều hối hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài dẫn đến sức mua của đồng nội tệ tăng. ở Việt Nam, ngân hàng nhà nước đang thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, không cố định tỷ giá VND vào USD mà trên cơ sở tiền tệ, mà cũng khôngthả nổi tỷ giá theo quan hệ cung cầu. Khi cần thiết ngân hàng nhà nước phải can thiệp bằng cả công cụ hành chính và công cụ gián tiếp để sức mua đối ngoại của VND không bị biến động lên. Để ổn định tỷ giá hối đoái, kiềm chế sự gia tăng của chỉ số giá tiêu dùng thì phải chú ý đến sự gia tăng tích luỹ ngoại tệ. Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là ngân hàng nhà nước Việt Nam. Khi dự trữ ngoại tệ chưa đủ mạnh thì chỉ nên can thiệp trong trường hợp thị trường có nhiều biến động tiêu cực do những hành vi đầu cơ gây ra, lượng ngoại tệ tung thêm vào thị trường phải được sử dụng hiệu quả. Tỷ giá hối đoái tác động tới xuất nhập khẩu Việt Nam: Bất kỳ sự biến động nào cũng ảnh hưởng tới tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam. Khi giá thực tế của VND tăng lên thì hàng hoá của Việt Nam tại nước ngoài trở thành đắt đỏ hơn và hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam như hàng hoá của Nhật, Mỹ... trở thành rẻ hơn. Điều này có nghĩa là tỷ giá hối đoái VND/USD giảm xuống khuyến khích nhập khẩu và xuất khẩu bị hạn chế. Và ngược lại khi đồng VND sụt giá tức là tỷ giá VND/USD giảm xuống làm cho hàng hoá Việt Nam tại thị trường nước ngoài rẻ hơn, trong khi hàng hoá nước ngoài tại Việt Nam lại trở nên đắt hơn. Điều này là tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam. Sau đây là bảng số liệu về tỷ giá hối đoái và tỷ lệ nhập khẩu thời kỳ 1992-2001: Bảng 2 (trang bên) Năm 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 TGHĐ 1,000 1,011 1,105 1,228 1,232 1,091 1,071 1,039 0,966 0,913 N/X 0,985 1,314 1,437 1,497 1,536 1,262 1,229 1,007 1,062 1,075 Nhập (TrUSD) 2541 3924 5826 8155 11144 11592 11500 11622 15200 16162 Xuất (trUSD) 2581 2985 4054 5449 7256 9185 9360 11540 14308 15027 Như vậy cùng với sự lên giá thực tế của VNĐ thì tỷ số nhập khẩu/ xuất khẩu cũng tăng lên và ngược lại. Thống kê tình hình xuất nhập khẩu máy móc và tư liệu sản xuất ta được bảng dưới đây: bảng 3 Nhập siêu và dùng nhập siêu để tài trợ việc nhập máy móc và tư liệu sản xuất(triệu USD theo thời giá) 1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 (a) 2005 (b) Xuất khẩu 2404 5449 14483 15029 16705 20176 25000 28500 29000 Nhập khẩu 2572 7256 15636 16218 19745 25246 32000 Nhập siêu -1189 -3040 -5070 -7000 Thành phần hàng nhập khẩu Máy thiết bị phụ tùng 2096 4781 4949 5890 8175 Nguyên nhiên vật liệu 4821 9887 9981 12312 15437 Hàng tiêu dùng 1237 968 1287 1553 1614 Qua các con số nhập khẩu thấy rõ năm 1995 , số nhập máy từ 2 tỷ USD 1995 đã tăng lên đếm 8,1 tỷ đồng 2004 đồng thời số nhập khẩu vật tư 4,8 tỷ USD đã tăng lên hơn 15 tỷ USD. Sự tăng nhập khẩu máy móc thiết bị và vật tư là nguyên nhân chính giúp cho sự phát triển công nghiệp luôn vượt trên 10-11% hàng năm. Việt Nam đã tăng nhập siêu. Muốn nhập siêu thì phải có ngoại tệ thanh toán, ngân hàng đã huy động ngoại tệ kiều hối, du khách ngoại tệ nước ngoài đầu tư, ngoại tệ lao động Việt Nam nước ngoài gửi về... để thanh toán nhập siêu. Nhập siêu do các nguồn ngoại tệ tự có trên đài thọ không tạo thêm nợ đối với nước ngoài, là một nguồn vốn đầu tư tự có và gây giảm phát rất mạnh vì lẽ nhập siêu gây giảm phát do khối tiền USD hay VND giảm khi ngoại tệ được huy động để thanh toán cho các nhà cung cấp nước ngoài. Tỷ giá hối đoái tác động tới đầu tư, công ăn việc làm: Tỷ giá hối đoái là một nhân tố tác động tới đầu tư cả trong nước và ngoài nước do đó tác động tới công ăn việc làm của người dân. Khi tỷ giá ổn định và tăng lên sẽ hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Các nhà đầu tư có thể đầu tư trực tiếp hay gián tiếp đều làm tăng quy mô sản xuất lên. Để đáp ứng cho quá trình mở rộng sản xuất họ phải tuyển thêm lao động. Do đó số lượng việc làm tăng và nền kinh tế giảm thất nghiệp. Chúng ta sẽ xem xét tỷ lệ đầu tư giá thực tế và GDP trong nước qua các năm theo bảng sau. Bảng 4 (trang bên) GDP trong nước và tỷ lệ đầu tư giá thực tế qua các năm 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 (a) 2005 (b) GDP năm 1994 (tỷ đồng) 228.892 441.649 481.295 535.762 605.583 651.607 703.736 706.993 GDP năm 1994 (tỷ USD) 20,7 39,9 43,5 48,5 54,8 58,9 63,6 63,9 Dân số(triệu người) 71,5 77,6 78,6 79,7 80,0 82,1 83,2 83,2 GDP đầu người theo giá USD 289 514 553 607 684 717 764 786 Tổng đầu tư% 27,14 29,61 31,17 33,22 35,09 35,4 36,5 a)Tài sản cố định mới % 25,42 27,65 29,15 31,14 32,97 33,28 34,38 b) Gia tăng tồn kho 1,72 1,96 2,02 2,08 2,12 2,12 2,12 Tiêu dùng% 81,8 72,88 71,18 71,33 71,79 64,6 A- Nhà nước % 8,19 8,42 8,33 8,23 8,9 B- Tư nhân % 73,61 64,46 62,85 63,1 62,89 Nhập siêu tỷ đồng -20.819 -10.878 -10.982 -27.684 -45.725 Sai biệt thống kê % 0,18 0,02 0,08 0,62 0,68 Qua các con số thống kê, mức tổng đầu tư liên tục tăng, năm 1995 là 27,1% GDP, năm 2000 là 29,6% GDP, năm 2001 là 31,1% GDP, năm 2002 là 33,2% GDP, năm 2003 là 35,0% GDP, năm 2004 là 35,4% GDP, năm 2005 dự đoán đầu tư sẽ tăng lên 36,5% GDP và các năm tới sẽ tiếp tục tăng. Bảng thống kê trên cho thấy chính sách tiền tệ ngân hàng là tập trung vốn cho việc tăng liên tục tổng đầu tư từ 27,1% GDP 1995 lên đến 35,4% GDP năm 2004. Thành quả như vậy là cố gắng rất lớn của nhà nước, ngân hàng và ngân sách. Năm 2005 này cần phải phấn đấu giảm nạn thất thoát trong xây dựng cơ bản, giảm nợ tồn đọng, tăng hiệu quả đầu tư tập trung ưu tiên các nguồn vốn cho đầu tư. Tỷ giá hối đoái tác động mạnh đến tình hình nhập khẩu Việt Nam, nhập khẩu máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ tăng do đó tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất dẫn tới tăng số lượng việc làm và làm giảm thất nghiệp. Như vậy sự điều chỉnh tỷ giá linh hoạt theo tốc độ phát triển nền kinh tế và nhu cầu đầu tư thích hợp trong từng giai đoạn sẽ làm tăng đầu tư, do đó làm tăng công ăn việc làm. Tỷ giá hối đoái tác động tới cán cân thương mại: Cán cân thương mại là chênh lệch giữa doanh số xuất khẩu và doanh số nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định. Cán cân thương mại thặng dư phản ánh doanh số xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu. Ngược lại cán cân thương mại thâm hụt phản ánh doanh số xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu. Nhìn chung cán cân thương mại tác động mạnh đến nhiều mặt của nền kinh tế. Nếu thặng dư sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm mới, tăng tích luỹ quốc gia dưới dạng dự trữ ngoại hối, tạo uy tín và tiền đồ để đồng nội tệ được tự do chuyển đổi. Tỷ giá hối đoái là một trong những nhân tố chính có ảnh hưởng nhanh và mạnh, trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu do đó nó cũng ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Khi tỷ thực song phương (đôi khi tỷ giá thực danh nghĩa) tăng có tác dụng kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu giúp cải thiện cán cân thương mại. Đây chính là một trong những nội dung quan trọng của chính sách tỷ giá được nhiều nước áp dụng thành công. Tỷ giá danh nghĩa đa biên NEER phản ánh sự thay đổi giá trị của một đồng tiền đối với tất cả các đồng tiền còn lại (hay một rổ các đồng tiền đăc trưng) và được biểu diễn dưới dạng chỉ số, tỷ giá thực đa biên (PEER) được xác định trên cơ sở NEER đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước và ở tất cả các nước còn lại. PEER tác động đên xuất nhập khẩu cũng tương tự như tỷ giá thực song phương, nhưng PEER thể hiện tương quan sức mua của nội tệ vói tất cả các đồng tiền trong rổ, do đó nó phản ánh vị thế tổng hợp về sức cạnh tranh thương mại quốc tế của một nước với tất cả các nước còn lại. Trong khi đó tỷ giá thực song phương đơn thuần chỉ đề cập đến vị thế cạnh tranh thương mại quốc tế giữa hai quốc gia. Do đó động thái của tỷ giá thực đa biên phản ánh trạng thái cân bằng thương mại tốt hơn tỷ giá thực song phương. Tỷ giá hối đoái tác động tới ổn định tiền tệ: Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối khi mà sức mua của tiền tệ giảm mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, hoặc khi tỷ giá hối đoái biến động mạnh trong suốt thời gian dài thì vấn đề xác định lại tỷ giá hối đoái là điều không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó nhà nước áp dụng chính sách phá giá đồng tiền. Phá giá tiền tệ là việc đánh tụt sức mua danh nghĩa của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ hay là nâng cao tỷ giá hối đoái cuat một đơn vị ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng nội tệ tác động trực tiếp đến việc tăng hay giảm tỷ giá hối đoái (tghđ). Phá giá có thể cải thiện hoặc tác động tiêu cực đến ngân sách, điều đó phụ thuộc vào tầm quan trọng của các khoản mụ thu nhập và chi tiêu ảnh hưởng trực tiếp tới giá. Về bên thu ngân sách, khi một nước là người chấp nhận giá thì phá giá sẽ làm tăng giá của hàng xuất khẩu và nhập khẩu tính theo đồng nội tệ, thu nhập từ thuế xuất nhập khẩu có thể tăng lên. Độ lớn của tác động này tuỳ thuộc vào quy mô của thuế xuất nhập khẩu trong tổng nguồn thu về thuế và độ co giãn của thuế, cũng như độ co giãn của hàng xuất nhập khẩu đối với giá. Phá giá gây ra gánh nặng nợ của chính phủ và doanh nghiệp khi phải dùng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Khi phá giá mạnh làm cho nhiều doanh nghiệp chưa kịp phản ứng để đổi mới sản xuất nên nguồn lợi nhuận thu được không đủ bù đắp phần tăng lên do tỷ giá tăng tạo ra trong các khoản nợ. Nếu chính phủ vay nợ nước ngoài quá nhiều thì khi phá giá mạnh cũng sẽ lâm vào tình trạng thiếu trầm trọng đồng nội tệ để trả nợ. Với vòng luẩn quẩn của phá giá, nợ nước ngoài sẽ chồng chất, nợ cũ chưa trả được mà phải vay nợ mới bù vào phần thiếu hụt, đưa đến nợ chồng lên, nợ làm cho nền kinh tế phải chịu một gánh nặng nợ không lường hết được. Tỷ giá với hiện tượng đô la hoá ở Việt Nam: Đô la hoá được giải thích là đồng đô la Mỹ USD được sử dụng song song với bản tệ trong một nước và làm đầy đủ chức năng của đồng tiền quốc gia đó. Đô la hoá được biểu hiện trước hết là USD được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4.doc
Tài liệu liên quan