MỤC LỤC
Trang
A: Phần mở đầu 1
B : Phần nội dung 2
I> To àn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là gì? 2
1. Tính tất yếu 2
a. Một nền công nghệ toàn cầu đang xuất hiện 2
b. Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển 3
c. Những vấn đề toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia 3
2. Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 4
3. Các hình thức hội nhập 8
a. Các hiệp nghị thương mại song phương 8
b. Các khối kinh tế khu vực 8
c. Những tổ chức kinh tế toàn cầu 9
II > Việt nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 11
1. Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 11
2. Những thời cơ và thách thức đối với Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế 11
a. Những thời cơ mà hội nhập quốc tế mang lại 11
b. Những thách thức 13
3. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 17
a. Diễn biến quá trình hội nhập 17
b. Một số kết quả của quá trình hội nhập kinh tế 18
III > Một số giải pháp nâng cao hiêu quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam 22
1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế 22
2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình hội nhập 23
a. Một số quan điểm 23
b. Một số giải pháp 24
C : Phần kết luận 28
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1636 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích cực, toàn cầu hoá cũng là một quá trình chứa đầy những nguy cơ: xu hướng thống trị thế giới của một nhóm nhỏ các nước đang ngày một hiện rõ. Trước tình hình đó, toàn thế giới phải có được quan niệm mới về phát triển, một sự phát triển bền vững trong đoàn kết.
3. Các hình thức hội nhập
Những hình thức hội nhập quốc tế hiện tại đang phát triển rất đa dạng. Ta có thể kể ra các hình thức chủ yếu sau:
a. Các hiệp nghị thương mại song phương
Cho đến nay các hiệp nghị thương mại song phương vẫn là hình thức hội nhập quốc tế phổ biến nhất và quan trọng nhất đối với cả các nước phát triển cũng như đang phát triển. Mỹ là nước có nền kinh tế phát triển nhất, đã hội nhập vào kinh tế thế giới với vai trò chi phối, nhưng chủ yếu vẫn dựa trên các hiệp nghị kinh tế hai bên như Mỹ – Nhật, Việt- Mỹ ... Nhật Bản – nước có vị trí kinh tế đứng thứ hai trên thế giới cũng vậy, các nước NIC cũng hội nhập kinh tế quốc tế chủ yếu trên cơ sở các hiệp nghị kinh tế song phương. Những quan hệ hai bên của những quốc gia này cũng đã đủ sức tạo ra lợi thế so sánh. Tuy vậy những hiệp nghị kinh tế dù có rộng lớn đến đâu vẫn có những hạn chế khi phải đối diện với các vấn đề kinh tế toàn cầu, những khối kinh tế hùng mạnh.
b. Các khối kinh tế khu vực
Cho đến nay đã có hàng chục khối kinh tế khu vực ở khắp năm châu. Những khối kinh tế hoạt động nổi bật hơn cả là EU, NAFTA, AFTA, APEC. Tuy nhiên mức độ hợp tác của các khối kinh tế này cũng rất khác nhau. Có khi chỉ dừng lại ở thoả thuận buôn bán ưu đãi trong khối, có khối đã thoả thuận xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong khối, có khối đã thành lập liên minh thuế quan, hặc đã tạo lập cả một thị trường chung cho phép tự do thương mại hàng hoá, dịch vụ, lao động... Liên minh kinh tế hiện nay là nấc thang của các khối kinh tế. Liên minh châu Âu (EU) bắt đầu hoạt động từ năm 1992 với các chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại, công nghệ, an ninh, chính trị chung ; có quốc hội chung, toà án chung, đồng tiền chung... Các khối kinh tế khu vực ra đời đã có những tác động quan trọng; thúc đẩy tự do hoá thương mại đầu tư; thúc đẩy quá trình mở cửa thị trường các quốc gia, tạo lập ra những thị trường khu vực rộng lớn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tiến triển.
c. Những tổ chức kinh tế toàn cầu
Các tổ chức kinh tế có tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế toàn cầu có: Tổ chức thương mại thế giới(WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế(IMF), Ngân hàng thế giới(WB) và một số tổ chức kinh tế của liên hợp quốc như UNDP, G8 ... Tuy nhiên phải thừa nhận rằng cho đến nay mới chỉ có những cam kết quốc tế về mặt thương mại là có tương đối có hiệu lực hơn cả, còn nhiều lĩnh vực cần có những luật lệ toàn cầu hữu hiệu như: chính sách tiền, đầu tư chu chuyển vốn, bảo vệ môi trường, các tiêu chuẩn về lao động và di chuyển lao động quốc tế... hiện nay chưa có các cam kết toàn cầu mang tính luật pháp. Những hoạt động của IMF và WB mới chỉ kiểm soát được phần nào dòng, vốn, tiền tệ chính thức của Nhà nước còn các dòng vốn tư nhân vẫn vận động bên ngoài các vòng kiểm soát.
Các tổ chức kinh doanh toàn cầu hiện nay là những công ty xuyên quốc gia đang mở rộng hoạt động khắp các châu lục với số lượng ngày một tăng. Hiện có 60.000 công ty xuyên quốc gia với 500.000 chi nhánh , nắm 25% sản xuất thế giới, kiểm soát 50% mậu dịch quốc tế ; trên 90% vốn đầu tư trực tiếp, trên 80% bản quyền kỹ thuật và công nghệ mới. Có thể nói nếu các nước không có các công ty xuyên quốc gia của mình thì sự hội nhập quốc tế sẽ bị hạn chế chỉ ở hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút các công ty nước ngoài vào nước mình. Sự khiếm khuyết này sẽ làm giảm lợi thế so sánh của các quốc gia. Có thể dự báo là trong một nền kinh tế toàn cầu thống nhất trong tương lai các công ty xuyên quốc gia sẽ là hình thức doanh nghiệp cơ bản.
Ngoài những hình thức hội nhập quốc tế trên, người ta còn thấy ngững tam giác, tứ giác vùng ; những thành phố cảng tự do như Hồng Kông, Singapo... là những khu vực mở cửa tự do cho tất cả các công ty của mọi nước đến hoạt động v.v..
II > Việt nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
1. Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị chiến tranh tàn phá, nước ta bắt đầu bước vào thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, trong điều kiện tự nhiên và xã hội có nhiều thử thách khắc nghiệt. Từ một nền kinh tế tự túc, tự cấp, nghèo nàn lạc hậu bắt đầu mở cửa tiếp xúc với một thị trường rộng lớn – nơi có nhiều quan hệ kinh tế quốc tế cạnh tranh khốc liệt, đang có nhiều quốc gia, tập đoàn kinh tế tư bản giầu mạnh luôn gây sức ép, muốn thao túng cả nền kinh tế tài chính thế giới. Song đứng trước xu thế phát triển tất yếu, là một bộ phận của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác không thể khước từ hội nhập, nước nào đống cửa với thế giới là đi ngược lại xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu. Hiện nay đã chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh, một thế giới hoà bình đòi hỏi các nước xích lại gần nhau hợp tác cùng phát triển.
Trên thế giới hiện nay quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, nếu chúng ta có những bước đi hợp lý thì Việt Nam có thể tận dụng những thời cơ thuận lợi để có thể đi tắt, đón đầu, từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức, từ đó đưa kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền vững.
2. Những thời cơ và thách thức đối với Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế
a. Những thời cơ mà hội nhập quốc tế mang lại
Thực tế cho thấy, tuy mới chỉ ở giai đoạn đầu và thực sự chưa đi vào chiều sâu, nhưng tiến trình hội nhập kinh tế khu vức và quốc tế cùng với quá trình đổi mới trong nước, đã góp phần đưa Việt Nam lên một tầm cao mới, thu được nhiều kết qủa đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực. Đó là do nước ta đã biết khai thác những thời cơ thuận lợi mà toàn cầu hoá mang lại.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu của Việt Nam , quan hệ bạn hàng được mở rộng. Việc được hưởng những ưu đãi về thuế quan và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác như tối huệ quốc và đối xử quốc gia, đã tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng lên đáng kể. Nếu như xuất khẩu sang các nước ASEAN của ta năm 1990 đạt 348,6 triệu USD thì năm 1996 đạt 1777,5 triệu USD và năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên APEC, ASEM tăng lên đáng kể. Đến nay, ta đã mở rộng quan hệ thương mại với trên 150 nước và lãnh thổ trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế. Hiện đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trông nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo thêm công ăn việc làm. Vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 1991-1995 chiếm 25,7% và từ năm 1995 đến nay chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ nước ngoài của Việt Nam. Trong những năm qua, nhờ phát triển tốt các mối quan hệ đối ngoại song phương, đa phương các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã đựơc giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. điều đó góp phần ổn định các cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội trong nước.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Trong những thập niên qua, cuộc cách mạng khoa họ kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh, làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận những phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng... và những liên doanh trong ngành công nghiệp dầu khí đã minh chứng điều đó.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo cả ở trong nước và ngoài nước. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 6000 cán bộ quản lý, và 25000 cán bộ khoa học kỹ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa trên 7 vạn người đi lao động ở nước ngoài. Hiện nay nước ta đã có quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo với rất nhiều quốc gia, nhiều trường đại học uy tín và danh tiếng hàng đầu thế giới nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đưa đất nước bắt kịp thời đại bước vào nền kinh tế tri thức.
b. Những thách thức
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội luôn đi liền với thách thức và khó khăn. Thách thức đầu tiên mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và rỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hoá sẽ ồ ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hậu quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trung bình, yếu kém thường đòi hỏi Nhà nước thi hành chính sách bảo hộ lâu dài. Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài mà xem xét thì Nhà nước không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi trên của các doanh nghiệp. Bởi lẽ, một là Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại vào các mốc 2006 và 2020 khi đã tham gia AFTA và APEC, cũng như các cam kết khác khi được kết nạp vào WTO. Hai là việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là “ con dao hai lưỡi”. Một chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì sẽ có thể dẫn tới “gậy ông đập lưng ông” gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội, không những làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp đó mà còn gây ra thất nghiệp, đời sống người lao động không dược đảm bảo, từ đó có thể gây các tệ nạn làm mất ổn định trật tự xã hội. Một tài liệu nghiên cứu gần đây cho biết: việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi mang nhập khẩu chưa có thuế là 50% ( khoảng 20- 22 USD/tấn). Toàn xã hội phải trả thêm 220 triệu USD (11 triệu tấn x 20 USD) năm 1999 để bảo hộ cho ngành xi măng, trong đó có gần một nửa số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền đó tương đương với khoảng 40% ngân sách giáo dục của cả nước.
Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới tương đối chậm. Trong khi xu hướng nhiều nước muốc đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư với quy mô sâu, rộng hơn thì Việt Nam lại rất cần đủ thời gian để có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Đây thực sự là một mâu thuẫn cần được xử lý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó kiến thức và sự hiểu biết của ta về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như các vấn đề liên quan còn nhiều hạn chế, bất cập. Hệ luỵ của nó là công tác chuẩn bị của ta, nhất là của các doanh nghiệp cho việc chủ động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế cũng chưa thật đầy đủ và mang tính lâu dài. Tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước ở nhiều doanh nghiệp còn khá nặng nề.
Một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt ra là phải làm sao giữ được độc lập, tự chủ trong tiến trình hội nhập kinh tê quốc tế. Không ít ý kiến cho rằng nước ta hiện nay với xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế đang trong qua trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hoá nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém, trong khi các nước đi trước nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt, do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì nước ta khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc về kinh tế mà có thể dẫn đến không giữ được độc lập, tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có nhìn nhận theo quan điểm mới : trước hết phải nhận thức rõ độc lập, tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển riêng của mình, tự quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế-xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện các mục tiêu đó. độc lập tự chủ không phải là hoàn toàn đống cửa với thế giới. Quan điểm độc lập tự chủ theo kiểu tự túc tự cấp, xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, hướng nội đã được kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và kinh nghiệm của nước ta chứng minh là không phù hợp với xu thế chunh của thời đại và không hiệu quả, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển. Và một khi tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục thì sẽ làm mất lòng tin của nhân dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an toàn xã hội. Trái lại việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế thì sẽ tạo nên một hình thái tương tuỳ, đan xen lợi ích, do đó mà chúng ta có những thế và lực để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.
Một thách thức nữa không kém phần quan trộng là làm thế nào giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế, làm sao đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đây không phải là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo của nhiều nước khác trên thế giới. Bởi lẽ thông qua các siêu lộ thông tin với mạng Internet, xu thế toàn cầu hoá một mặt tạo điều kiện chưa rừng có để mọi dân tộc, mọi cộng đồng trên thế giới có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, phát minh sáng chế... qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang hiểu biết về các nền văn hoá của nhau. Mặt khác quá trình trên cũng nẩy sinh mối nguy cơ ghê gớm về “ sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại đối với sự tồn tại của nhân loại”. Nguy cơ nói trên lại càng tăng lên gấp bội khi một siêu cường nào đó tự xem các giá trị văn hoá của mình là ưu việt, là tối thượng, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là “ xâm lược văn hoá” với nhiều biện pháp trắng trợn và tinh vi. đứng trước tình hình đó, chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Trái lại với bản lĩnh dân tộc trong quá trình giao lưu với văn hoá thế giới suốt mấy ngàn năm, chúng ta có thể vững tin và chủ động lựa chọn, tiếp thu các yếu tố nhâm bản, hợp lý, khoa học, tiến bộ của văn hoá các nước – cả phương Đông và phương Tây, để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc, xem đó là nhân tố cực kì quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời chúng ta cũng kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kỳ” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở, tốt xấu để đi đến chỗ lai căng và mất gốc về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống của các tầng lớp dân cư. Chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc, đi dôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại thì văn hoá Việt Nam mới có thể đóng vai trò vừa là mục tiêu vừa là động lực và hệ điều tiết của sự phát triến xã hội.
Mặt khác hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên trước mắt khó có thể tránh khỏi còn những lỗ hổng trong luật pháp của ta, tạo điều kiện cho lực lượng phản động khai thác để tiến hành các hoạt động chống phá.
Như vậy bên cạnh những thời cơ thuận lợi, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế còn đưa lại nhiều thách thức yêu cầu Việt Nam cần có những bước hội nhập thật đúng đắn nhằm khai thác các thời cơ và loại bỏ các thách thức.
3. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
a. Diễn biến quá trình hội nhập
Sau khi đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB năm 1992, tháng 10/1992 Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN). Tháng 7/1995 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức này. Và tháng 11/1996 nước ta đã ký hiệp định ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung, cơ sở của việc thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEP/AFTA). Tháng 12/1994 Việt Nam đã gửi đơn cin gia nhập tổ chức Hiệp định chung về buôn bán và thuế quan(GATT), tiền thân của tổ chức thương mại thế giới(WTO). Tiếp đó tháng 3/1996 Biệt Nam đã tham gia với tư cách thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác á- âu(asem). Tháng 6/1996 Việt Nam cũng đã xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á- Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998, cùng với Nga và Pêru đã trở thành thành viên chính thức của diễn đàn này. Đây là những bước đi khởi đầu quan trọng trong tiến trình gắn kết kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và thế giới.
Tổ chức thương mại thế giới hiện có trên 130 nước thành viên, có cơ chế, thể lệ và luật chơi chung trong quan hệ thương mại quốc tế làm cơ sở để thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư. Từ khi xin gia nhập đến nay, Việt Nam đã xây dựng xong và gửi tới các nước thành viên báo cáo về hệ thống chính sách kinh tế thương mại của mình, đã tiến hành 4 phiên họp về minh bạch hoá chính sách với nhóm công tác về Việt Nam gia nhập WTO để làm rõ các vấn đề về hệ thống luật pháp và chính sách của ta. Đến nay, giai đoạn đàm phán về minh bạch hoá các chính sách đã cơ bản hoàn tất. Giai đoạn sắp tới là đi vào đàm phán thực chất về mởt cửa thị trường, tập trung vào thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, sau đó sẽ đàm phán về dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Gia nhập ASEAN từ 1995, Việt Nam đã chủ động tham gia hầu hết các lĩnh vực hợp tác trong tổ chức này. bên cạnh lĩnh vực chính trị và an ninh, Việt Nam đã tham gia hầu hết các lĩnh vực khác như kinh tế, thương mại hàng hoá, nông và lâm nghiệp, giao thông vận tải, sở hữu trí tuệ... Trong lĩnh vực kinh tế nổi lên là việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực đầu tư ASEAN(AIA), hiệp định khung về dịch vụ(AFAS) và gần đây nhất tháng 11/2000, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN ký hiệp định khung về côgn nghệ thông tin(e-ASEAN), đặt cơ sở và định hướng cho việc phát triển công nghệ thông tin và viễn thông, nhân tố cấu thành, có vị trí tối quan trộng trong nền kinh tế mới kinh tế tri thức.
Là một thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998, một tổ chức gồm 21 thành viên, chiếm 52% diện tích lãnh thổ, 59% dân số và 70% nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới, đống góp 57% GDP cho toàn thế giới. Việt Nam đã thẹc hiện tốt các nghĩa vụ vủa mình bao gồm việc công bố chương trình hành động quốc gia(IAP), kế hoạch hành động tập thể(CPA) và tham gia các chương trình hợp tác kỹ thuật(ECOTECH). Việt Nam cũng đãc đề xuất những sáng kiến thiết thực như “ đào tạo thế hệ trẻ hướng tới nền kinh tế tri thức” và dự án “Hệ thống cảnh báo và quy hoạch bản đồ các khu vực mất an ninh lương thực”, được các nước thành viên đánh giá cao. Tuy nhiên, về lĩnh vực tự do hoá mậu dịch, những cam kết của ta mới chỉ dừng ở mức minh bạch hoá chính sách.
Là một trong 25 thành viên sáng lập ra diễn đàn hợp tác á-âu (ASEM) từ năm 1996, Việt Nam đã tham gia hầu hết các chương trình chủ yếu của tổ chức này. Đó là các kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại(TFAP), kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (IPAP) và hợp tác các doanh nghiệp á-âu và hiện đang cùng các nước thành viên xây dựng viễn cảnh á-âu 2020 để đưa các hoạt động của hợp tác á-âu lên một tầm cao mới.
b. Một số kết quả của quá trình hội nhập kinh tế
Mở rộng mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương với nhiều nới trên toàn thế giới đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nước ta trong thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Nếu như trước những năm 90, tốc độ tăng GDP bình quân ở nước ta chỉ đạt khoảng 2-3%/năm thì ở thập niên cuối của thế kỷ XX mức tăng GDP bình quân đạt 6-8%/năm. Sau 10 năm tổng sản phẩm xã hội tăng thêm 18 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn 2 lần. Nhiều mặt hoạt động sản xuất và đời sống xã hội đã có những bước phát triển tương đối nhanh.
Riêng tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm thường cao hơn 2-3 lần tốc độ tăng GDP. Nếu năm 1991, thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu bị cắt giảm đột ngột, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giảm 15,1% thì ngay sau đó, từ năm 1992-1995 đã vươn lên giữ mức tăng 25-30%/năm. Năm 1998 không tăng do khủng hoảng kinh tế châu á, nhưng năm 1999 tiếp tục vươn lên, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt hơn 11,5 tỷ USD, gấp hơn 5 lần năm 1991. Từ chỗ là nước chỉ nhập hàng viện trợ và xuất hàng trả nợ mỗi năm vài trăm triệu USD, đến nay chúng ta đã có nhiều mặt hàng đạt xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD/năm như: đầu thô, hàng dệt may, giày dép... Một số hàng nông sản Việt Nam đã và đang vươn lên thứ hạng cao ở thị trường thế giới : gạo đứng thứ hai, hạt điều và cà phê đứng thứ ba thứ tư. Thuỷ sản chế biến và trên 200 mặt hàng tiêu dùng Việt Nam xuất khẩu đang tiếp tục tăng, chiếm lĩnh nhiều nơi trên thị trường quốc tế, kể cả những thị trường khó tính như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ.
ở giai đoạn đầu, tốc độ tăng trưởng và hội nhập kinh tế kinh tế của Việt Nam có nhiều tiến bộ nhưng trên thực tế vẫn chưa cho phép chúng ta thật sự lạc quan. Bởi vì, so với nhiều nước trong khu vực, giá trị kim ngạch xuất khẩu tính bằng USD bình quân đầu người ở nước ta còn thấp. Năm 1997 Việt Nam chỉ đạt 149 USD/ người trong khi đó Indônêxia là 316, Philipin: 545, Thái Lan: 1087, Malaixia: 4222, Xingapo: 52.484. Trong tổng lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, chủ yếu vẫn ở dạng nguyên liệu thô, trình độ kỹ thuật công nghệ chế biến thấp, mẫu mã chủng loại sản phẩm chưa phong phú nên giá trị thấp, sức cạnh tranh yếu. Phần lớn ta mới ta mới chỉ tăng số lượng để tăng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế ở nhiều mặt hàng xuất khẩu, khối lượng lớn mà hiệu quả kinh tế thấp, kể cả những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, dầu thô, cao su, nông, lâm, thuỷ sản. Đó là những dấu hiệu về sự kém cỏi cần sớm khắc phục, nếu không sẽ bị tụt hậu trong tiến trình hội nhập, bởi vì các lợi thế về tài nguyên và lao động rẻ đang bị giảm dần, kỹ thuật và công nghệ cao sẽ là những ưu tiên phát triển ở những giai đoạn tiếp theo.
Những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế việt Nam bắt đầu có xu thế chậm lại, nhiều chỉ tiêu tăng trởng không đạt kế hoạch dự kiến. Nếu mức tăng GDP thời kỳ 1986-1995 là 8,2%/năm thì đến thời kỳ 1996-2000 chỉ đạt khoảng 6,8%/năm, bằng 2/3 của dự kiến kế hoạch. Vốn đầu tư nứoc ngoài (FDI) chỉ đạt 4 tỷ USD/năm, chưa bằng 30% kế hoạch(13-15 tỷ), viện trợ phát triển (ODA) chỉ khoảng 5 tỷ/năm so với kế hoạch 7-8 tỷ... Mặt khác hiệu quả sử dụng vốn vay và viện trợ này chưa cao, tốc độ giải ngân còn thấp. Khoảng cách về trình độ phát triển của chúng ta so với nhiều nước trong khu vực không chỉ chậm mà còn có những biểu hiện nguy cơ tụt hậu. Sau khi khắc phục khủng hoảng, động thái phát triển GDP 2 năm (1998-2000) của nhiều nước có tốc độ phát triển rất nhanh : Philipin từ –0,5% lên 3,1%; Malaixia từ –7,5% lên 4,7% ; Thái Lan từ –10% lên 3,7%; Hàn Quốc từ –5,8% lên 9,1%... trng khi đó tốc độ tăng GDP của Việt Nam liên tục giảm từ 9,4% năm 1995 xuống 9,34%(1996), 8,5% (1997), 5,8%(1998) và 4,8%(1999).
Một số tài liệu nghiên cứu tổng hợp khác cho thấy: bản thân nội tại nền kinh tế nước ta vẫn tồn tại những dấu hiệu của sự yếu kém, ngày càng bộc lộ rõ nét: cung lớn hơn cầu, cơ cấu ngành, địa phương chưa hợp lý, nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp; các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, buôn lậu chậm được khắc phục. Nhiều cơ chế chính sách và bộ máy hành chính cải cách chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều mặt hoạt động kinh tế xã hội. Thời kỳ 1994-1998, Diễn đàn kinh tế thế giới xếp môi trường cạnh tranh của Việt Nam đứng thứ 49 trong 53 nước xem xét, đến thời kỳ 1999-2003 hộ đánh tụt xuông 3 bậc. Phải chăng đó là những dấu hiệu báo động cần xem xét một cách nghiêm túc để tất cả các ngành,các cấp có quyết tâm lớn, sớm tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn thiếu sót, nếu không sẽ khó tránh khỏi những nguy cơ dẫn đến tụt hậu.
Đến nay, khi cả thế giới tích cực chuẩn bị sức mạnh bước vào thiên niên kỷ mới, nền kinh tế quốc tế đã có nhiều dấu hiệu về những yếu tố phát triển ổn định. Nhiều nước ASEAN và các nước châu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35387.doc