môc lôc
Lêi më ®Çu 1
2/ Mét sè vÊn ®Ò toµn cÇu ho¸ kinh tÕ vµ héi nh©p kinh tÕ quèc tÕ 2
2.1/Kh¸i niÖm vÒ toµn cÇu ho¸ kinh tÕ 2
2.2/ ThÕ nµo lµ héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ vµ khu vùc 2
2.3/ TÝnh tÊt yÕu héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ cña viÖt nam 3
2.3.1/TÝnh tÊt yÕu héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ cña c¸c níc 3
2.3.2. TÝnh tÊt yÕu héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ cña níc ta 4
3/ T×nh tr¹ng héi nhËp 9
3.1/ Qu¸ tr×nh héi nhËp quèc tÕ ë viÖt nam 9
3.1.1/ Bèi c¶nh quèc tÕ vµ khu vùc 9
3.1.2/ Quãa tr×ng héi nhËp quèc tÕ ë viÖt nam 10
3.2/ Mét sè thµnhtùu h¹n chÕ cÇn kh¾c phôc
3.3/ Quan hÖ gi÷a viÖt nam víi c¸c níc 15
4/ Chñ ch¬ng , nguyªn t¾c , h¹n chÕ 22
4.1/Chñ ch¬ng vµ c¸c nguyªn t¾c 23
4.2/Mét sè nhiÖm vôvµ gi¶i ph¸p 27
KÕt luËn 30
Tµi liÖu tham kh¶o 31
32 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1743 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhiệm vụ và trọng tâm của nước ta hiên nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế cao nhất các nguồn lực như vốn, công nghệ, con người…
Quá trình đổi mớiqua hơn 15năm đã khẳngđịnh đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Trong sự thành công đó, không thể không nhắc đến đóng góp của kinh tế đối ngoại. Nhờ có sự thay đổi trong chính sách và cơ chế quản lý ngoại thương của nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được quyền xuất khẩu. kim ngacg xuât nhập khẩu không ngừng tăng qua các năm, năm 2001 đạt 16,2 tỷ USD là năm cao nhất từ trước đén nay. Nhiều mặt hàng của Việt Namđã có mặt trên thị trường thế giới như gạo, dệt may, thủy sản… Từ năm 1987, khi lần đầu tiên chúng ta ban hành Luật đầu tư nước ngoài, đến nay đã có hơn 40 quốc gia và lãnh thổ đầu tưvào nước ta. Tính đến hết tháng 12/2001 có 3.346 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 41.8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện chiếm khoảng 38%. Cơ cấuvốn đầu tư trực tiếp ngày càng phù hợp với yều cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế đều tăng, năm2001 đạt 85% tổng số vốn đầu tư, đầu tư của các nước ngoài vào các quốc gia phát triển (EU, Bắc Mỹ , Nhật Bản…) đều tăng và chiếm 44%tổng số vốn đăng ký tại Việt Nam, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 23%kim ngạch xuất nhập khẩu (chưa kể dầu khí ) và đóng góp trên 12%GDP của cả nước, thuhút hơn 30 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam tiếp tục tăng, xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục đô thị… Đến tháng 12/2001, vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam vay là15,04 tỷ USD (bình quân hàng năm là 1,5USD).Văn kiện ĐH Đảng IX đã đánh giá hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời gian qua là:Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi mọi bước, khối lượng các mặt hàng chủ lực đều tăng khá., thị trường xuất nhập khẩu dược củng cố và mở rộng thêm. Cơ cấu thu hút vốn đầ tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với nhu cầu chuyển dịch cơcấu kinh tế của nước ta,vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng.
Hội nhập không chỉ đòi hỏi Việt Nam phải hoạch định các chính sách đối ngoại đúng đắn mà còn phải ban hành luật pháp cho phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng các lưc lượng, tổ chức, doanh nghiệp, cán bộ có khả năng tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội IXchỉ rõ “Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ… Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơđể phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để chủ động hội nhập cần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương nhưAFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt -Mỹ, tiến tới gia nhập WTO…
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta để đảm bảo cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2002. Đồng thời, để đạt được mục tiêu chiến lược giai đoạn 2001-2010 trong điều kiện nước ta vẫn là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao, nhiều nguyên nhiên liệu, máy móc vẫn phải phụ thuộc vào bên ngoài, chúng ta không thể không hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là phát triển kinh tế đối ngoại. Mục tiêu này, theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, có thể đạt được và thậm chí sẽ vượt nếu chúng ta chú trọng hơn nữa và nắm bắt vững những đặc điểm mới của kinh tế đối ngoại trong bối cảnh kinh tếthế giới hiện nay. Đặc điểm nền kinh tế nước ta là xuất phát thấp, sản xuất nông nghiệp là chính, xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm sơ chế chủ yếu. Khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp, môi trường kinh doanh chưa ổn định. Đó là những trở ngại lớn cho chúng ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên chúng ta cũng có những thuận lợi, đó là chính trị ổn định, đậưc biệt là nguồn lực con người.
Mở rộng và tăng cường hoạt động kinh té đối ngoại xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển hợp tác và liên kết kinh tế với các tổ chức kinh tế, các quốc gia trong khu cực và trên thế giới. Dođó, chúng ta cần có những quan điểm chính sau:
Chủ động hội nhập và mở rộng kinh té đối ngoại nhưng phải đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc tự chủ và định hướng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lấy lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế để phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH vãây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đảm bảo có lợi cho các bên tham gia, phát huy tối đa nội lực (con người, tài nguyên, vốn…), đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ, thị trường ), đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại để tránh lệ thuộc. Xây dựng tốt và quản lý nợ, có kế hoạch trả nợ để có thể huy động được nhiều hơn nguồn vốn này với những ưu thế của bchúng (lãi suất thấp, thời hạn vay dài, khối lượng vốn vay lớn, có thời hạn…)
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, đó là sự chuẩn bị về luật pháp, điều kiện của các doanh nghiệp, mặt hàng, thời hạn, điều kiện mở cửa… Nắm vững các nguyên tắc luật pháp, chính sách của các bên đối tác, các tổ chức kinh tế quốc tế và chủ động đấu tranh để đòi các nước (đặc biệt là các nước phát triển ) cùng thực hiện theo hướng cùng có lợi, bình đẳng thực hiện đúng nguyên tắc, cam kết.
Tập trung nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, bồi dưỡng năng lực, phẩm chất của cán bộ làm công tác kinh doanh, quản lý doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ nàyphải có năng lực, phẩm chất chính trị vững vàng và có năng lực, am hiểu kiến thức nghệp vụ, ngoại ngữ, phải đặt lợi ích cá nhân, doanh nghiệp trong lợi ích quốc gia. Cần chấn chỉnh, củng cố, xắp xếp và từng bước tuyển chọn cán bộ quản lý và kinh doanh.
Thực hiện chính sách nhiều thành phần trong kinh té đối ngoại và hội nhập, khẩn trương tổ chức và xắp xếplại hệ thống doanh nghiệp nhằm hình thành những doanh nghiệp có đầy đủ năng lực và kinh doanh có hiệu quả trên thị trường quốc tế, có nhiều chiến lược phát trển các ngành có hàm lượng trí thức phát triển cao : điện tử, công nghệ sinh học, vật liệu xây dựng mới… kết hợp với các mặt hàng truyền thống mà ta có lợi thế (nhưng phải chế biến sâu, tránh xuất khẩu những sản phẩm thô hoặc nguyên liệu ).
Tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước mạnh, có thr tham gia của các thành phần kinh tế khác nhau của nhiều quốc gia và hoạt động đa dạng,. Hạn chế và tiến tới xóa bỏ bao cấp của Nhà nước đối với hệ thốngdoanh nghiệp Nhà nước (trừ một số doanh nghiệp hoạtđộng công ích và một số mặt hàng có tính chiến lược ). Xây dựng doanh nghiệp gắn liền việc thực hiện lộ trình để đảm bảo lợi ích trước mắt, lâu dài của quốc gia, tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, chính sách và công cụ chứ không phải bằng hiến pháp hành chính.
Kinh tế đối ngoai có vai trò hết sức to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế -xã họi của nước ta đến năm2010.Mở rộng kinh tế đối ngoại là một xu thế tất yếu và khách quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, nếu chúng ta không có kế hoạch đầy đủ, có chiến lược rõ ràng thì không thể nào phát triển kinh tế đối ngoại, không đủ sức nâng cao sức sạnh tranh của hàng hóa, doanh nghiệp và nền kinh tế, xét cho cùng không thể nào đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển kinh tế được. Do đó, việc quán triệt nắm vững các yêu cầu về phát triển và mở rộng kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm2010 là một việc cấp thiết.
Năm 2002, kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ cao hơn năm 2001. Tổng sản phẩm quốc nội tăng khoảng 7 %, Các nguồn lực đã được chú trọng huy động nên tổng số vốn đầu tư xã hội đã tăng trưởng đáng kể, thu ngân sách vượt mức dự đoán; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển biến tích cực; các chương trình xóa đói giảm nghèo đã đạt được thành tựu bước đầu để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Mặc dù vậy, kinh tế VN vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn tại cần phải tìm ra những giải pháp đồng bộ để thúc đẩy tăng trưởng kinhtế trong quá trình hội nhập.
3.3/ Quan hệ giữa VNvới các nước
1. VN-Mỹ.
Từ khi hiệp định thương mại Việt -Mỹ (BTA) được ký kết và chính thức được Quốc hội thông qua ngày 28.11.200, quan hệ thương mại giữa hai nước đã có phần cải thiện. Theo hiệp định này; VNcó thể thâm nhập và thị trường Mỹ và được hưởng quy chế tối quốc với thuế suất đánh trên hàng hóa .VNxuất khẩu qua Mỹ sẽ được giảm từ mức bình quân tư4%. Tuy nhiên, năm2002 cùng với sự sụt giảm trong nhu cầu thế giới (do dư âm của cuộc khủng bố 11.9 và nền kinh tế thế giới vẫn chưa phục hồi như mong đợi ), nền kinh tế Mỹ đang trên đà suy thoái, quan hệ xuất nhập khẩu giữa hai nước có những dấu hiệu không tốt. Đồng thời trong thời gian qua ,hiệp định thương mại Việt-Mỹ vẫn chưa phát huy tác dụng (khó khăn trong các vấn đề tranh cãi về lợi ích của đôi bên) nên đã làm cho quan hệ thương mại giữa hai naơcs xấu đi (đặc biệt là vụ kiện cá tra cá ba sa).Hiện nay,chính phủViệt Nam đang ra sức thúc đẩy BTA tiến triển chóng hơn nữa để góp phần cải thiện mối quan hệ xuất nhập khẩuvới Mỹ, đồng thời cũng ban hành nhiều chính sách tích cực thu hút các nhà đầu tư Mỹ vào thị trường VN.
2.VN-Nhật Bản:
Trong quan hệ kinh tế ,Nhật là đối tác quan tọng của VN trên các lĩnh vực như:thương mại, kim ngạch nầu dịch hai chiều không ngừng gia tăng, trong đó các mặt hàng chủ lực của VN xuất khẩu sang Nhật chủ yếu là các mặt hàng dệt may (27%) ,thủy hải ssản, dầu thô ,thủ công mĩ nghệ..Và VN nhập khẩu từ Nhật chủ yếu là các thiết bị máy móc (24%), hóa chất, máy móc vận tải..
Những tháng vừa qua của năm 2002, do kinh tế nhật còn trong tình trạng suy thoái và tình hình kinh tế thế giới không máy sáng sủa cho nên thương mại VN-Nhật gặp nhiều khó khăn một phần do các doanh nghiềp xuất khẩu của Việt Nam cho rằng thị trường Nhật là thị trường rất “ khó tính” nên họ vẫn chưa thúc đẩy nhanh chóng việc khai thác thị trường này.Mặt khác, theo ông YasuoYuasa-điều phối viên quốc tế của trung tâm Chiba: “hiện nay hàng hóa của VN vẫn còn khá khiêm tốn so với nhu cầu thực tế thị trường Nhật và tiềm năng hàng hóa VN có thể vào Nhật. Mà tác nhân chính làm cản trở hàng hóa VN vào Nhật là do hầu hết các doanh nghiệp VN đều thiếu thông tin về thị trường Nhật không nắm nhu cầu về hàng hóa và thị hiếu tiêu dùngnhật cũng nhưcác quy luật về xuất nhập khẩu của Nhật.
Theo đánh giá của các nhá đầu tư Nhật thì đầu tư vào VNcó những lợi thế như: những cải thiện trong chính sách đầu tư nước ngoài,tỉ lệ lạmm phát thấp tình hình chính trị xã hội an tòan và ổn định, lực lượng lao động dôì dào (với chất lượng và giá thuê lao động,trình độ tiếp thu công nghệ hiện bằng Trung Quốc và cạnh tranh hơn so với các nước ASEAN). Những nỗ lực của VN trong việc cải thiện môi trườngđầu tư và vị thế VN trong khu vực được cácnhà đàu tư Nhật đánh giá rất cao chỉ sau Trung Quốc.Như vậy để thu hút nhiều hơn vốn đầu tư từ Nhật thì chính phủ VN cần nhanh chóng triển khai tăng cường hợp tác trao đổi kinh tế thương mại với nhà đầu tư Nhật , đòng thời phải có kế hoạch hợp tác với Nhật trong đào tạo nguồn nhân lực,tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm để thúc đẩy kinh doanh thương mại tốt hơn.
3.VN-Châu âu:
Trong thời gian vừa qua, quan hệ thương mại hai chiều giữa VN với các nước trong khu vực đồng euro ngày càng mở rộng.Kim nghạch xuất nhập khẩu luôn được gia tăng, đặc biệt trong lĩnh vự dệt may-đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang châu âu chiếm đến35% tổng kim nghạch xuất khẩuhàng dệt may VN.Trong quan hệ hợp tác đầu tư năm 2000, các quốc gia châu âu đã đầu tư 1,1tỉ USD vào VN ,chiếm 58% tổng số vốn đầu tư nước ngoài trong năm ,tuy nhiên mức đầu tư này không tương xứng với tiềm năng của Châu Âu khoảng trên 12% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào VN. Đối với viện trợ phát triển thì Châu Âu là đối tác đứng thứ ba của VN (sau Nhật và WB), mức viện trợ của Châu Âu dành cho nhiều lĩnh vực khác nhau ,trong đó nông lâm ngư nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhất, tiếp theo là viện trợ cho phát triển xã hội,sức khỏe và năng lượng…Ngoài ra các quốc gia trong khu vực đồng euro cũng đã dành cho VN các ưu đãi về thuế quan phổ cậpGSP, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu của VN vao thị trường này: ngân hàng đầu tư Châu Âu (EIB) đã kí hiệp khung với NHTWVN cho phép ngân hàng đầu tư Châu Âu mở rộng cho vay vốn đối với VN, tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Theo các chuyên gia kinh tế thì trong giai đoạn 2001-2005 mối quan hệ giữa VN và Châu Âu chủ yếu tập chung vào ba lĩnh vực sau: hỗ trợ cải cách,hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển con người để tiến đến nề n kinh tế tri thức.
4.VN-Trung Quốc &ASEAN:
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc và các quốc gia ASEAN đã kí hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ,việc kí kết hiệp định này sẽ nâng cao năng lực thâm nhập thị trường Trung Quốc của doanh nghiệp VN . Trước đây quan hệ thương mại giữa VN với TQ chủ yếu liên quan đến hoạt đông trao đổi hàng hóa VN-TQ chỉ mới thống nhất cam kết dành cho nhau rồi hụê quốc (MEN) về thuế quan . Nhưng với việc kí kết hiệp định khung TQ đã ngay lập tức cho Việt Nam được hưởng đãi ngộ MEN theo các chuẩn mực của tổ chức WTO . Điều đí có nghĩa là mọi nghĩa vụ của TQ tại WTO liên quan đến việc cắt giảm thuế quan, các biện pháp phi thuế quan , dịch vụ đầu tư và sở hữu chí tuệ sẽ dành cho doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở không phân biệt đối sử. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy thêm mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và TQ trong tương lai .
Sự kiện nổi bật nhất trong quan hệ VIệt Nam –Asian là việc thực hiện các thỏa thuận của AFTA mặc dù việc thực hiện lộ trình AFTA mang lại rất nhiều lợi ích cho Việt Nam nhưng vẫn tồn tại những tác động tiêu cực của việc thực hiện lộ trình này có thể khái quát như sau:
Việt Nam là quốc gia co trình độ phát triển thấp ,công nghệ lạc hậu ,trình độ quản lý yếu chất lương hàng hóa thấp gá thành cao nên khonong loại trừ khẳ năng hàng hóa trong nước sẽ bị đánh bại ngay trren sân nhà .
Việc đồng Việt Nam được đánh giá cao so với các đồng tiền khác trong khu vực làm cho hàng hóa xuất khẩu của các nứơc này sẽ có lợi thế trong cạnh tranh khi nhập khẩu vào Việt Nam .
Thời kì đầu tuy chưa có tác động đến nguồn thu ngân sách nhưng về lâu dài thì giảm thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng mạnh đến nguồn thu ngân sách .
Nếu không tích cực cải thiện môi trường đầu tư , nâng cấp cơ sở hạ tầng thì vốn đầu tư chảy vào Việt Nam sẽ hạn chế và chuyển hướng sang các nước khác trong khu vực sản phẩm đưa vào Việt Nam thông qua con đường xuất khẩu được hưởng thuế xuất thấp theo quy định của CEPT .
Hội nhập Hiệp hội các nước Đông-Nam Á (ASEAN)
Ngay từ khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, về lĩnh vực thương mại, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị Quyết số 292/NQ-UBTVQH9,ngày 8.11.1995 về chương trình giảm thuế nhập khẩu của việt nam để thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của ASEAN và ngày 15.12 .1995 tại hôi nghị thượng đỉnh ASEAN lần V, Việt Nam đã kí nghị định thư cam kết thực hiện CEPT nhằm xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),.Theo nghị định thư này, Việt nam cam kết sẽ cắt giảm thuế quan nhập khẩu hành hoá trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5% trong vòng 10 năm kể từ 01.01.1996 đén 01.01.2006 , đồng thồi dỡ bỏ các hàng dào phi thuế quan. Để thực hiện cam kết, Chính phủ Việt nam đã công bố danh mụch hành hoá thực hiện CEPT gồm: Danh mục loại trừ hoàn toàn; danh mục loại trừ tạm thời ; danh mục cắt giảm ngay danh mục hàng nông sả chưa chế biến nhạy cảm. Hằng năm ,chính phủ ban hành các nghị định quy định các mặt hàng thực hiện CEPT tính đến 31.12.2000, chúng ta cắt giảm 4.233 dòng thuế.Theo lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện CEPT/AFTA giai đoạn 2001-2006 thì trong năm 2001 chúng ta sẽ cắt giảm tiếp 720 dòng thuế, nâng tổng số dòng thuế đã thực hiện cắt giảm lên 4953 dong trong số 6.210 dòng thuế nhập khẩu hiện hành thực hiện cắt giảm theo CEPT. việc cắt giảm thuế quan vủa VNđược ASEAN đánh giá cao và thể hiệnquyết tâm của chúng ta trong viềc đẩy mạnh tiến trình hoàn thành AFTA. Trong quá trình thực hiện CEPT/AFTA, chúng ta đã lựa chọn các mặt hàng và mứ giảm thuế thích hợp nên khônh ảnh hưởng đén nguồn thu nhân sách và vẫn bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có điều kiện có thồi hạn sản xuất trong nước…
Hội nhập vào diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á-thái bình dương (APEC)
Tháng 11.1998 ,VN được công nhận là thành viên chính thức của APEC.Ngay tại hội nghị thượng đỉnh APEC họp ở Malaysia,Việt nam dã đưa ra bản kế hoạch hành động quốc gia (IAP) cm kết thực hiện 14/15 lĩnh vực chủ yếu nhất theo quy định của APEC vối 3 nội dung chính :cập nhập những thay đổi về tình hình và cơ chế quản lý hiện tại đối với 14/15 lĩnh vực cam kết ; tổng kết viẹc thực hiện những camm kết ngắn ham mà việt nam đã làm, đua ra các hoạt động bổ sung về các nội dung có liên quan đén mụch tiêu tự do hoá thương mạivà ddaauf tư trong APEC .Tuy mói triển khai thực hiện IAP được 2 năm, nhưng chúng ta đã từng bước tham gia 12 khoản mục trong chương trình hành động tập thể (CPA) của APEC, bao gồm: Việc kí công ước HS nhằm hài hoà danh mục biểu thuế, xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng đẫn nguyên tắc xác định trị giá hải quan theo hiệp định giá hải quan của GATT, công khai hoá vcác quy trình, thủ tục quy định hải quan có liên quan đến xuấy-nhập khẩu và các vấn đề xử phạt hành chính trong lĩnh vực hải quan…Tổng cục đo lường - tiêu chuẩn - chất lượng Việt namm đã chính thưc tham gia tiểu ban tiêu chuẩn và sự phù hợp của APEC , đã đưa các danh mục các tiêu chuẩn ưu tiên hài hoà trong APEC vào kế hoạch xây dựng tiêu chuẩn vn…
Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Tháng 6.1994 Việt nam được công nhận là quan sát viên của hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT, ngày 01.04.1995 chúng ta đã nộp đơn xin gia nhập WTO .Theo quy định của WTO , chúng ta đang và sẽ chuẩn bị điều kiện nhằm đáp ứng các yêu càu của WTO , đẻ sớm gia nhập tổ chức này trong thời gian tới như: nộp cho WTO bản bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt nam theo đúng mẫu quy địng của tổ chức này; thành lập đoàn đàm phán chính phủ về việc gia nhập WTO; trả lờiđược1.216 (tính đến hết năm 2000) trong số 1.376 câu hỏi của WTO đặt ra cho Viêt nam; xây dựng một số tài liệu như: bảng hiện trạng về hỗ trợ trong nước và rợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản,các hiện trạng về doanh nghiệp thương mại nhà nước…
Bước đầu chúng ta hài lòng với những kết quả đã đạy được trong hội nhập kinh tế nhưng không thể bằng lòng với những gì đang có . Thời gian vừa qua, chủ yếu chúng ta mới bắt đầu hội nhập về lĩnh vực thương mại hành hoá nhưng vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém. Trong tổng số gần 5000 dòng thuế đã thực hiện cắt giảm thì chỉ có 2954 dòng có thuế xuất từ 0-5%, còn lại vẫn uy trì ở mức thuế xuất cao trên 20% tới năm 2005. Tới mcs 1.1.2006, chúng ta phải cắt giảm đột ngột thuế xuất xuống còn từ 0-5% thì sẽ gây tác động xấu đến nguồn thu ngân sách vàkhó khăn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa. Mặt khác, theo cam kết chúng ta phải giảm dần và tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan vào năm 2006, nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa có lộ trình bãi bỏ hàng rào phi thuế quan …Lĩnh vực thương mại dịch vụ như: tài vhính bưu chính viễn thông giáo dục –đào tạo ,khoa học công nghệ …hầu như chúng ta vẫn còn bảo hộ . Xu hướng cam kết trong các hiệp định thương mại song phương hay đa phương trong thời gian tới là đề cập đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế chứ khong bó hẹp chỉ trong lĩnh vực thương mại hàng hoá như trước nữa .
Để tận dụng cơ hị ,vượt qua thách thức và phát huy các lợi thế so sánh của các quốc gia trong hội nhập ,chúng ta phải tích cực chủ độnh hơn nữa trên mọi lĩnh vực .Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “chủ động họi nhập kkinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia giữ gìn bản sắc dan tộc bảo vệ môi trường sinh thái. Chính phủ cùng các bộ các ngành các doanh nghiệp khẩn ttrương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế vối lộ trình hợp lý và chương trình hành dộng cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp các ngành và các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chếquản lýkinh tế xã hội, hoàn chỉng hệ thống luật pháp, nâng cao năng luục cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế …Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh, chính trị năng lực, đạo đúc phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại kể cả kinh tế đối ngoại Như vậy quan điểm mục tiêu và phương thức hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của đảng ta là rất rõ ràng và cụ thể. Muốn hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, thống nhất vả ở tầm vĩ mô và vi mô, trước hết phải xây dựng chính sách kinh tế rõ ràng minh bạch ổn định vá bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Đối vứi chính sách thuế, phải chủ động cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan theo đúng cam kết với các tổ chức khu vực và quốc tế . để giải quyết tốt những vấn đề phức tạp trên nhưng không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách và bảo hộ hợp lý sản xuất trong nươcs cần phải làm tiếp một số công việc chính như sau:
Đối với chương trình CEPT/AFTA: cần tối đa hoá số dòng thuế đưa vào danh mục cắt giảm theo CEPT/AFTA và tối đa háo số dòng thuế có thuế xúât 0% để đượ c hưởng ưu đãi theo CEPT khi VN là nước xuất khẩu theo nguyên tắc “có đi, có lại”. Đưa ra lộ trình cắt giảm tiến tới xoá bỏ các biện pháp phi thuế nhằm bảo đảm hoàn thanh AFTA vào năm 2006, thực hiện cơ chế quản lý và điều chỉnh các hoạt động thương mại bằng thuế, không dùng các biện pháp khác .
Đối với APEC: Cần nghiên cứu đưa ra lộ trình cắt giảm thuế phù hợp để hàng hoá VN khi thâm nhập thị trường các nướcAPEC cũng sẽ được hưởng nhưnngx ưu đãi như cá thành viên khác. Mở của dần một số lĩnh vực dịch vụ mà VN có thể tham ga hội nhập để được hưởng ưu đãi khi cung cấp dịch vụ vào APEC.Dua ra các nội dung liên quan đén việc thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư trong APEC.
§èi với WTO: cÇn ®Èy mạnh tiến trình đàm phán gia nhập WTO để được hưởng những ưu đãi do WTO đem lại trên cơ sở đã thực hiện nghĩa vụ của minnhf thông qua việc cơ cấu lại nền kinh tế , điều chỉnh môi trướng kinh doanh …Kết hợp giữa dàm phán gia nhập WTO với cácdiễn đànkhác nhằm đạt được mục têu cuối cùng là trở thành thành viên chính thức của WTO Các doanh nghiệp phải chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để đáp ứng các yêu cầu khi hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đặt ra để trụ vững phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng sâu rộng và quyết liệt hơn.
Suy cho cùng nhân tố quyết định hội nhập kinh tế thành công và có hiệu quả là con người. chỉ có con người Việt nam mới làm cho nền kinh tế nước ta tránh được tình trạng lẽo đẽo theo sau tụt hậu ngày càng xa hơn và thua thiệt trong trào lưu toàn cầu hoá kinh tế. Đó là những con người có lý tưởng, có bản lĩnh có khả năng sáng tạo làm chủ được trí thức hiện đại. Hạn chế lớn nhất của ta hiện nay là đa số ngưới lao động chưa làm chủ được các công nghệ hiện đại dù có vốn để đầu tư thì vẫn phụ thuộc rất lớn vào đối tác nước ngoài. Do vậy phải phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực và khoa học-công nghệ thông qua tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TƯII(khoá VIII) tạo động lực và nguồn lực cho giáo dục–đào tạo và khoa học –công nghệ.cải cách triệt để hệ thống giáo dục, từ giáo dục tiểu học ,cho đến đào tạo tiến sĩ theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” mà báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra. Khi đó, hệ thống giáo dục của ta sẽ sản sinh ra được những con người không chỉ làm chủ được trí thức hiện đại mà còn sáng tạo trí thức mới, nhanh chóng đưa trí thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. cần có cơ cấu đào tạo hợp lý giữa bậc đại học và công nhân kỷ thuật lành nghề. Nói cách khác phải khi đó chúng ta sẽ hội nhập được với quốc tế về trí tuệ khi . Phát triển đất nước bằng khoa học và công nghệ gắn khoa học và công nghệ với thực tiễn thông qua thị trường khoa học công nghệ. Hiện nay nước ta chưa có thị trường khoa học công nghệ cần phải tạo điều kiện cho sự ra đời và cơ chế chính sách nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng trong thị trường khoa học công nghệ.
Trong thư gửi thầy cô giáo học sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Bác Hồ đã khẳng định “non sông Việt Nam, có trở nên tươi đẹp hay không bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hy không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.Và ngày nay Đảng ta đã coi giáo dục khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, Quốc hội đã thông qua
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhiệm vụ và trọng tâm của nước ta hiên nay.DOC