Chúng ta hội nhập để xây dựng xã hội có dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, vì vậy chúng ta chỉ chấp nhận vào cuộc trơi khi mở ra các điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu đó. Về điều này quan điểm của Trung Quốc rất đáng tham khảo. họ quan niệm các luật trơi hiện nay có ba cấp độ :phù hợp, chưa phù hợp, không phù hợp và khi không phù hợp họ không chấp nhận, còn chưa phù hợp họ đấu tranh cho phù hợp dần.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy có thể thấy thập kỷ 90 là thập kỷ hội nhập khởi đầu đúng nghĩa. Cũng vì vậy chúng tôI muốn đI sâu nhìn nhận lại quá trình hội nhập kinh tế của ta thời gian này, từ đó có cơ sở cho những đề xuất và gợi ý cho tương lai.
Chúng ta biết rằng từ cuối thế kỷ 70, đất nước lâm vào tình trạng khó khăn, cơ chế kinh tế cũ tỏ ra không còn tác dụng, cơ chế mới chưa hình thành. Viện trợ ở bên ngoàI bắt đầu khó khăn, giảm sút, trong khi đó các thế lực thù địch trong và ngoàI chống phá dồn ép ta trên các phương diện. Gần suốt thập kỷ 80 chúng ta loay hoay tìm phương cách khắc phục song không những không hiệu quả mà còn làm cho tình trạng khó khăn, phức tạp thêm. Đại hội VI của Đảng đã mở ra phương cách mới, chúng ta đã tiến hành đổi mới chuyển sang cơ chế thị trường. Cùng với những đổi mới bên trong chúng ta thực hiện chuyển hướng chiến lược trong kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tiếp theo tinh thần đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII và VIII, cùng các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương trong các kỳ Đại hội đều có chú ý đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu như Đại hội VI Đảng ta nhấn mạnh phảI “gắn thị trường trong nước với thế giới, giảI quyết mối quan hệ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ thị trường nội địa”, thì tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã có bước tiến trong xác định cụ thể nội dung của hội nhập quốc tế, trong đó khẳng định phảI khai thông quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại tại Hội nghị Trung ương 7 khoá VII là “từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định về sự cần thiết cũng như làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hộ nhấn mạnh phảI “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. “ĐIều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thương mại thế giới, các diễn đàn,các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đI thích hợp”.
Như vậy có thể nói chủ trương hội nhập của Đảng ta là nhất quán trong tiến trình đổi mới. Đây chính là cơ sở rất quan trọng để triển khai, thúc đẩy hội nhập trên thực tế.
TrảI qua hơn một thập kỷ từng bước hội nhập chúng ta đã có được những kết quả bước đầu quan trọng trên các mặt thương mại, đầu tư, ngoại giao.. phá bỏ thế cô lập, tạo ra môI trường cùng hợp tác phát triển với các đối tác trên thế giới. Cụ thể về ngoại thương, chúng ta đã mở quan hệ kinh tế với 150 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Từ năm 1990 đến 1999 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,5 lần, khi đó tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần. Trên thực tế kết thúc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu gần như ngang bằng. Trong cơ cấu hàng hoá cũng có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng mặt hàng, tăng dần những hàng hoá qua chế biến. Trong lĩnh vực thu hút vốn nước ngoàI chúng ta cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tính đến tháng 9/1999 chúng ta đã thu hút 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp và xây dựng la gần 51%. Cùng với vôn FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn qua kênh ODA. Nguồn ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng phát triển cơ sở hạ tầng, cả phần cứng và phần mềm đối với Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoàI hiện nay chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI trong GDP đều tăng lên qua các năm. Năm 1993 đạt 3,6%, đến năm 1998 đạt 9%; năm 1999 đạt khoảng 10,5%. Nguồn thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI đạt 370 triệu USD vào năm 1998.
Cùng với mở cửa thu hút vốn nước ngoàI, gia tăng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoàI, kể cả vào những nước phát triển như Nhật Bản. Tính đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có 27 dự án đầu tư ra nước ngoàI với tổng số khoảng 8 triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương mại, dịch vụ và xây dựng v.v..Đồng thời trong những năm 90 chúng ta đã ký các hợp đồng đưa 7 vạn lao động ra nước ngoàI làm việc.
Việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép ta thu được vốn, mà dựa vào đó chúng ta nắm bắt được những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo cho ta một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại trong thời đại ngày nay. Theo con số của vụ quản lý dự án, bộ kế hoạch và đầu tư, riêng trong khu vực có FDI đã thu hut 285,7 nghìn lao động(số liệu đến tháng 8/1999).
Thực ra để đạt được những kết quả như trên trong những năm qua Việt Nam đã có những đổi mới cảI thiện môI trường đầu tư, đặc biệt là luật đầu tư, mặc dù còn có nhiều đIều cần đIều chỉnh, song đều được thừa nhận là luật cởi mở, có sức hút đối với FDI. Chúng ta cũng có nhiều đổi mới trong lĩnh vực tàI chính tiền tệ, đIều chỉnh các mức thuế theo hướng ngày càng tự do hơn.
Kết quả của hội nhập còn thể hiện rõ ở việc hội nhập và tham gia vào những hoạt động của các tổ chức trong khu vực và toàn cầu. Chúng ta đã trở thành viên của APTA, APEC, có quan hệ chặt với các tổ chức chuyên môn của UN, IMF và WB cũng như ADB. Đặc biệt chúng ta ký hiệp định thương mại Việt –Mỹ và đang xúc tiến tham gia vào WTO.
Với việc hội nhập tích cực, chủ động như trên đã góp phần quan trọng vào thành tựa kinh tế- xã hội trong hơn mười năm đổi mới vừa qua. Không những phá bỏ thế bao vây và cô lập và còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Tuy vậy, đIều cũng cần thấy là, bên cạnh những kết quả, tiến trình hội nhập của Việt Nam trong hơn mười năm qua cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cả ở tầm vĩ mô và vi mô cần suy nghĩ, giảI quyết để tiếp tục hội nhập ngày càng hiệu quả hơn.
3. Một số thuận lợi và khó khăn đặt ra đối với việc “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
a.Những thuận lợi cơ bản.
Thứ nhất, Đảng cũng như nhà nước có những chủ trương và chính sách nhất quán cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá.Chúng ta còn nhớ khi bắt đầu bước vào cảI cách đổi mới việc mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu chưa phảI đã có tiếng nói chung.ĐIều đó ảnh không nhỏ đến nhịp độ hội nhập. Nay với quan đIúm và nguyên tắc rõ ràng chúng ta đẩy nhanh qúa trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô, về “ xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển” của việc tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này, mà trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại noi riêng. Các chính sách này đều theo định hướng tự do, tất nhiên ở các tầng cấp khác nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực cụ thể.
Thứ hai, tham gia toàn cầu hoá chính là tranh thủ những đIều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, phục vụ nâng cao đời sống nhân dân.Việt Nam là quốc gia có nguồn tàI nguyên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tàI nguyên phong phú không chỉ tạo đIều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức hút đối với các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tàI nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu các ngành kinh tế với các sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.
Về vị trí địa lý, nước ta là cửa ngõ đI TháI Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam á , là đIếm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng trên thế giới. Đáng chú ý với bờ biển dàI, trảI dàI từ bắc vào nam với nhiều hảI cảng, đặc biệt là cảng Cam Danh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hảI cũng như phát triển kinh tế hàng hoá.
NgoàI một số khoáng sản như Bôxit có trữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba trên thế giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng lớn đứng hai trên thế giới sau Trung Quốc, thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Trong thời gian qua việc khai thác còn hạn chế. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, thì việc sử dụng các nguồn lực đó thông qua hợp tác quốc tế là rất cần thiết.
Với thực trạng nguồn tàI nguyên thiên nhiên cũng như xét trên hiệu quả phát triển kinh tế chúng ta không nên hình thành cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu tàI nguyên như một số có nguồn tàI nguyên lớn. Cần qua hợp tác cũng như phát huy năng lực bên trong đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng chế biến. Thực tế cho thấy, mặc dù những năm qua cơ cấu hàng xuất khẩu của ta cũng đã có cảI thiện, song về cơ bản vẫn là xuất khẩu tàI nguyên, trong đó có dầu, than đá. Trong đIều kiện giá cánh keo chúng ta càng xuất khẩu càng thua thiệt. Với nguồn lực tàI nguyên hiện có chúng ta cần tập trung phát triển các ngành vật liệu xây dựng, gốm sứ, du lịch, kết hợp phát triển các sản phẩm từ cây công nghiệp để tạo sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời chú ý phát triển các loại hình xí nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở liên doanh để tận dụng nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Thứ ba, Việt nam hiện nay tuy là quốc gia đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất của thế giới,song nước ta được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực. Với thị trường gần 80 triệu dân, trong đó người trong độ tuổi lao động cao (dân số trẻ ), có trình độ văn hoá, cần cù lao động và đặc biệt giá lao động rẻ. đó là lợi thế so sánh có ý nghĩa trong quá trình hội nhập.
Trong đIều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học- công nghệ phát triển mạnh, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tri phối mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội, nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế.
Trên thực tế nhiều công ty nước ngoàI vào Việt Nam, một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động dồi dào, dẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam. Thoe đánh giá của các công ty nhật khi phân tích lợi thế môI trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong số 10 quốc gia. Tuy vậy nếu xét riêng về yếu tố nguồn nhân lực, lợi thế của ta không thua kém TháI lan, thậm chí còn vượt cả Inđônêxia và Myanma. Chỉ số HDI của ta chưa cao so với thế giới, mới chỉ 0,56 song so với các quốc gia có thu nhập tương ứng thì ta lại ở nhóm cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giới bên ngoàI. Ta có thể qua hội nhập để xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. đồng thời tạo đIều kiện để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, công nghệ mới mà hiện nay ta đang rất cần. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập là đIều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động của Việt Nam.
Thứ tư chúng ta đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong đIều kiện đất nước hòa bình, chính trị- xã hội ổn định. đây là cơ hội rất quan trọng để tập chung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại. Chính trị- xã hội ổn định theo một khuynh hướng nhất quán chính là bộ lọc quan trọng trong quá trình giao lưu hội nhập, hơn nữa nó đảm bảo vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế.
Chúng ta biết rằng khi bắt đầu thực hiện đổi mới, gắn liền với bước chuyển cơ chế đã nẩy sinh không ít tiêu cực trong tư tưởng đạo đức, lối sống. Nhiều người lợi dụng chức quyền và sự chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý và pháp luật đã giầu nên nhanh chóng, trong khi đại bộ phận dân cư còn sống trong khó khăn. Nhìn chung tình hình kinh tế -xã hội còn khá gay gắt vào cuối những năm 1980.
Trong bối cảnh đó, trên thế giới cũng đang có chuyển biến phức tạp, đáng chú ý nhất là sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu. đIều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội việt nam cũng như đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ nhân dân với CNXH, hoàI nghi vào khả năng mở của hội nhập phát triển.
Phân tích tình hình thực tế, ngay từ hội nghị trung ương 7 khóa VI đảng ta đã khẳng định tính tất yếu của CNXH, khẳng định khách quan và phương hướng XHCN của quá trình cảI cách đổi mới. đại hội VII cũng khẳng định: ‘nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoàI con đường XHCN’. Trên thực tế gắn liền với sự vận động hiện thực của cuộc sống, đảng ta đã từng bước hoàn thiện, bổ sung cụ thể hóa thêm đường nối đổi mới, mở cửa hội nhập. Trong quá trình đó, đảng ta đã được củng cố về chính trị và tổ chức, vai trò lãnh đạo của đảng trong xã hội được tăng cường. a
Trong quá trình đổi mới gắn liền với cảI cách hành chính,đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị- xã hội, chúng ta đã ban hành hiến pháp mới cùng nhiều luật lệ nhằm thể chế hóa quyền lực của nhân dân, thực tiễn quản lý xã hội có dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Cùng với chỉnh đốn đảng chúng ta chú trọng dân chủ hóa cơ sở thực sự mở ra khả năng tham gia đóng ngóp của mọi người vào các quyết sách phát triển liên quan đến lợi ích của chính người dân, của các địa phương cũng như của nhà nước.
Với sự đổi mới phát triển hơn mười năm qua đất nước đã thu được kết quả rất đáng tự hào. sau một thập kỷ tăng trưởng,GDP đã tăng nên gấp hơn 2 lần, từ nước nhập lương thực trở thành không những là một quốc gia tự túc được lương thực mà còn là nước có mức xuất khẩu lớn, đứng 2-3 thế giới với 3,8 triệu tấn năm 1998 và 4,3 triệu tấn năm 1999. cùng với đó đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân được cảI thiện. Thành quả này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới, đưa lại sự ổn định về chính trị- xã hội theo một khuynh hướng đI lên CNXH.
Sự ổn định chính trị- xã hội cho phép tập chung toàn thể sức lực của nhân dân cho phát triển đất nước. Trong những năm vừa qua không những phát huy tốt nguồn lực trong nước cho đổi mới mà còn thu hút được sự đóng ngóp không nhỏ của kiều bào ta ở nước ngoàI bên cạnh một lượng vốn lớn của nước ngoàI đổ vào Việt Nam. Sự ổn định về chính trị- xã hội thực sự là yếu tố quan trọng tạo ra môI trường kinh doanh lành mạnh tăng sức hút đối với đầu tư.
Chúng ta thực hiện đổi mới đI nên CNXH. Hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới cũng chính là nhằm tranh thủ các đIều kiện về vốn , kỹ thuật v.v... cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế dân tộc theo hướng đã xác định : xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trong đó đảng lãnh đạo nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Với mục tiêu và đường nối hội nhập đó đã xác định những nguyên tắc trong quá trình tham gia hội nhập và quy định các chiều hướng giá trị vật chất và tinh thần khi tiếp nhận. đồng thời nó cũng quy định quan điểm chính thức của việt nam trong đấu tranh cho xu thế hội nhập bình đẳng vì sự phát triển chung của các dân tộc.
Chúng ta hội nhập để xây dựng xã hội có dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, vì vậy chúng ta chỉ chấp nhận vào cuộc trơi khi mở ra các điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu đó. Về điều này quan điểm của Trung Quốc rất đáng tham khảo. họ quan niệm các luật trơi hiện nay có ba cấp độ :phù hợp, chưa phù hợp, không phù hợp và khi không phù hợp họ không chấp nhận, còn chưa phù hợp họ đấu tranh cho phù hợp dần.
Thứ năm, mặc dù kinh tế ta chưa phát triển, nhưng chúng ta hội nhập không phải với hai bàn tay trắng, ngoài nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực cùng với sự ổn định về chính trị xã hội chúng ta cũng đã có kinh nghiệm nhất định sau hơn 10 năm đổi mới hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Với hơn 10 năm qua chúng ta tạo ra được đội ngũ cán bộ tiếp cận được cách thức làm ăn trên thương trường quốc tế, tất nhiên về trình độ đòi hỏi phải nâng cao hơn.thực tế chúng ta đã hoà vào nhịp độ chung của nền kinh tế thế giới.
Hiện nay việt nam đã là thành viên của ASEAN đang có những đóng ngóp tích cực vào sự liên kết kinh tế trong hiệp hội. Thành công của cuộc gặp cuả các vị đứng đầu ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội1998 với việc ra tuyên bố Hà Nội và trương trình hành động Hà Nội thể hiện sự đóng ngóp đó. Chúng ta cũng đã trở thành thành viên của hội đồng hợp tác kinh tế tháI bình dương năm 1994 và theo hội nghị cấp cao APEC lần thứ 5 họp tại canada (1997) quyết định đơn xin gia nhập của Việt Nam, và theo quy định 11/ 1998 Việt Nam chính thức là thành viên của APEC. Trong những năm qua việt nam cũng gia tăng quan hệ với liên hợp quốc, IMF,WB. Cho đến nay đã hơn 20 năm Việt Nam tham gia vào liên hợp quốc. Sự tham gia này cho phép Việt Nam nhận được sự giúp đỡ của liên hợp quốc trong nhiều lĩnh vực, đồng thời qua đó việt nam cũng đóng ngóp vào sự phát triển của chính tổ chức này. ghi nhận sự đóng ngóp đó, năm 1997, lần đầu tiên việt nam đã được bầu vào hội đồng kinh tế- xã hội liên hợp quốc . đây là đIều kiện quan trọng cho phép mở rộng và phát triển quan hệ của Việt Nam với liên hợp quốc cũng như với các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác. ngày nay chúng ta đã tham gia khá tích cực vào các Họat động của liên hợp quốc. Các tổ chức thuộc liên hợp quốc như: UNDP, UNFPA, UNICEF,UNHCR,UNDCP.v.v.. việt nam đều có quan hệ chặt chẽ.
đối với WB hiện tại Việt Nam là thành viên chính thức của một số tổ chức thuộc WB, đó là ngân hàng táI thiết và phát triển quốc tế,hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), tập đoàn tàI chính quốc tế (IFC) và công ty bảo hiểm đầu tư đa biên (MIGA). Tuy vậy quan hệ Việt Nam với WB thực chất mới chỉ là quan hệ tín dụng giữa Việt NamvớiIDAvàIFC. Sau một thời gian đình trệ trong quan hệ với WB cuối 1993 chúng ta đã khai thông quan hệ với IDA. Từ đó cho đến nay quan hệ với IDA phát triển khá tốt, trung bình hàng năm IDA cung cấp cho ta từ 300 đến 500 triệu USD. Năm 1995 WB đã đặt văn phòng đại diện tại Hà Nội.
Cùng với WB chúng ta cũng có quan hệ hợp tác với IMF. đây là lĩnh vực hợp tác đòi hỏi sự nhạy bén và linh Họat của ta để vừa đạt được hiệu quả kinh tế mà lại đảm bảo chủ quyền an ninh quốc gia.
NgoàI các tổ chức kinh tế có tính toàn cầu và khu vực trên, trong thời gian qua chúng ta cũng đã tham gia hội nhập khá tích cực dưới hình thức quan hệ song phương. Đáng chú ý là quan hệ của Việt Nam với Nhật, Mỹ và các quốc gia thuộc EU. Riêng Nhật Bản và các nước thành viên UE là những quốc gia có quan hệ tương đối thuận lợi với Việt Nam. Từ sau khi trở lại cung cấp viện trợ cho Việt Nam (1992) Nhật Bản luôn là nước cung cấp ODA lớn nhất,bạn hàng thương mại lớn nhất và là một trong ba nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Đối với UE, Việt Nam cũng là một trong những người nhận tàI trợ chính từ EU. Tháng 7/1995 Việt Nam và EU đã ký hiệp định khung về hợp tác. Nhiều quốc gia trong EU có quan hệ khá chặt chẽ với Việt Nam chẳng hạn như Pháp. Việc gia tăng quan hệ với các quốc gia tư bản phát triển có ý nghĩa lớn đối với chúng ta trong việc đáp ứng nguồn vốn và kỹ thuật, có thể xem đây là những đầu nguồn về dòng vốn đầu tư mà chúng ta cần có chiến lược tranh thủ thu hút. Trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam luôn tỏ ra thiện chí. Năm 1994 Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam và nhất là vào tháng 7 vừa qua Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết góp phần mở ra đIều kiện gia tăng quan hệ Việt - Mỹ cũng như quan hệ của Việt Nam với thế giới. Tuy vậy quan hệ hai bên vẫn còn chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố lịch sử và vẫn cón có thời gian để giảm bớt bất đồng.
Nói tóm lại hơn 10 năm đổi mới vừa qua, nếu như nhìn dưới góc độ kinh tế đối ngoại thì đúng là thập kỷ của hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Thời gian đó tuy chưa dàI, cùng với những kết quả đạt được là những trả giá không nhỏ cho những yếu kém, ít hiểu biết trong quan hệ quốc tế hiện đại. Nói cách khác đó là những bàI học kinh nghiệm cả thành công và thất bại trên bước đường hội nhập, đó là hành trang cho ta vững bước đI vào giai đoại mới- đẩy nhanh hơn nữa hội nhập quốc tế.
Thứ sáu việc thúc đẩy hội nhập trong tương lai ngoàI những nhân tố thuận lợi cơ bản trên còn một nhân tố quan trọng giúp ta nhanh chóng hoà nhập vào sự phát triển chung, đó là xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đã và đang là chủ đề chính của thời đại ngày nay.
Có thể nói ngày nay sự phát triển kinh tế trở thành mục tiêu chiến lược của mỗi quốc gia, trong đó hợp tác là cách thức chủ yếu và ổn định là đIều kiện cần thiết cho phát triển. Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế dưới tác động khoa học kỹ thuật đã làm cho phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các quôc gia ngày một gắn bó, tuỳ thuộc vào nhau. Đồng thời do sự chạy đua vũ trang, nhất là vũ trang vũ khí hạt nhân trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã đẩy nhân loại đến một thảm họa khó lường và nguy cơ huỷ diệt của tất cả các bên khó tránh khỏi. Những đIều đó đã buộc các quốc gia phảI hợp tác với nhau để đảm bảo sự tồn tại, phát triển của mình. Tuy vậy hợp tác đI liền với cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh diễn ra trong sự ràng buộc, xâm nhập lẫn nhau, các quốc gia không thể phát triển nếu đứng tách riêng trong đIều kiện toàn cầu hóa ngày nay.
Với xu hướng trên các quốc gia, trong đó có Việt Nam có đIều kiện tập trung phát triển kinh tế, hội nhập, hợp tác và cạnh tranh với nhau để cùng tồn tại và phát triển.
b.Những khó khăn, thách thúc chủ yếu đặt ra cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập.
Thứ nhất, về mặt kinh tế, trình độ phát trỉên của ta so với quốc tế còn thấp, lạc hậu. Hiện nay 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho đến năm 1999 nền kinh tế nước ta thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trong đó khu vực nông nghiệp chiếm 25,4% GDP, công nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh, chỉ còn khoảng 3%GDP, công nghiệp cũng giảm chỉ scòn 20%, và khu vực dịch vụ thì đặc biệt phát triển, nhất là lĩnh vực thông tin. Chính vì vậy năng suất lao động của ta thấp, sản phẩm làm ra giá thành cao, không có sức cạnh tranh. Ví dụ đường RS của Việt Nam giá Nhìn chung trong nền kinh tế của Việt Nam, về công nghệ hiện nay vô cùng lạc hậu, so với thế giơi chậm từ 50- 100 năm, hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình hiện nay của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4- 5 thế hệ. xuất xưởng năm 1999 là 340-400 USD/tấn nhưng giá nhập khẩu lại rẻ hơn từ 20-30%, tức ở mức 260-300 USD/tấn, giá sắt thép trong nước sản xuất bình quân 300 USD/tấn ,nhưng giá nhập khẩu chỉ 285USD/tấn v.v..
Sự yếu kém của ta không chỉ ở chất lượng và giá cả, mà còn ở cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng không có tính cạnh tranh cao. Hiện nay chúng ta chủ yếu xuất khẩu nguyên nhiên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cao su, chè, cà phê v.v.. các sản phẩm công nghiệp, nhất là những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao còn ít, sức cạnh tranh yếu.
Chúng ta biết rằng chủ thể tham gia thực sự vào hội nhập là các doanh nghiệp. Trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ, yếu, yếu cả về khả năng quản lý doanh nghiệp lẫn khả năng, năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp của ta sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá chuyển sang phương thức kinh doanh mới còn lúng túng, nhất là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Hiện nay trong 6000 doanh nghiệp nhà nước chỉ có 5%làm ăn thực sự có hiệu quả. Rất nhiều xí nghiệp không có chiến lược phát triển dài hạn, công tác đầu tư nghiên cứu thị trường, sáng tạo mẫu mã mới theo yêu cầu người tiêu dùng chưa được đặt ra đúng mức.
Các doanh nghiệp tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn, nhưng phần tuyệt đại bộ phận cũng là những doanh nghiệp vừa và nhỏ khả năng vốn và công nghệ cũng còn rất hạn chế, trong khi đó cơ chế chính sách khuyến khích bộ phận kinh tế này phát triển cũng chưa phải đã tạo ra cho họ môi trường thuận lợi. đó là chưa kể hệ thống thuế của ta, nhiều doanh nghiệp còn kêu quá cao.Điều này cũng làm cho giá thành của họ tăng, giảm năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế là nguy cơ lớn khi đẩy nhanh nhịp độ hội nhập. để hội nhập có hiệu quả vấn đề làm sao phải nâng cao được sức cạnh tranh thì các xí nghiệp mới có thể đứng vững trước sự xâm nhập của hàng hoá bên ngoài và từ đó mới có thể vươn mạnh ra thị trường thế giới. Vì vậy nhà nước cũng như doanh nghiệp cần có chính sách để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lực cạnh tranh, xem đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay nếu không sẽ không chạy kịp với lịch trình hội nhập vào AFTA.
Thứ hai nền kinh tế thị trường hiện nay đã phát triển trong khi đó chúng ta mới chuyển sang kinh tế thị trường, vì vậy các yếu tố của thị trường cũng chỉ mới hình thành ở bước đầu, chưa phát triển. Hơn nữa nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đang nằm dưới sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập, chúng ta phải tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Các luật chơi chúng ta chưa thô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21121.doc