Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và những giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

MỤC LỤC

 

Chương I _ TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ - 1 -

1.1. Khái niệm và bản chất của HNKTQT - 1 -

1.1.1. Khái niệm - 1 -

1.1.2. Bản chất - 1 -

1.2. Các hình thức HNKTQT - 2 -

1.3. Sự cần thiết HNKTQT đối với Việt Nam - 3 -

1.3.1. Những khó khăn: - 3 -

1.3.2 Những tác động tích cực của hội nhập đối với Việt Nam - 5 -

Chương II _ QUÁ TRÌNH HNKTQT Ở VIỆT NAM - 7 -

2.1. Quá trình hình thành chủ trương HNKTQT - 7 -

2.1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về HNKTQT - 7 -

2.1.2 Tiến trình HNKTQT của Việt Nam - 10 -

2.2. Cơ hội và thách thức trong HNKTQT - 12 -

2.2.1 Cơ hội trong HNKTQT - 13 -

2.2.2 Thách thức trong HNKTQT - 16 -

2.3. Thực trạng HNKTQT của nước ta - 19 -

2.3.1 Những mặt được - 19 -

2.3.2 Những yếu kém - 20 -

2.4. Những thành tựu đạt được trong HNKTQT hiện nay - 20 -

Chương III _ CHỦ ĐỘNG HNKTQT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HNKTQT CỦA VIỆT NAM - 23 -

3.1. Chủ động HNKTQT _ một yêu cầu khách quan - 23 -

3.2. Các giải pháp thúc đẩy HNKTQT - 24 -

3.2.1 Nhóm giải pháp về điều chỉnh, kiện toàn chính sách và các biện pháp thực hiện chính sách thương mại - 24 -

3.2.2 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh - 26 -

3.2.3 Nhóm giải pháp hạn chế tác động xấu của quá trình hội nhập - 30 -

3.2.4 Nhóm giải pháp về đào tạo nâng cao kiến thức về hội nhập - 32 -

3.2.5 Bên cạnh đó, là phải cải thiện và bảo vệ môi trường - 34 -

3.2.6 Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội - 35 -

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5351 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và những giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phú, đa dạng, giúp các doanh nghiệp, người tiêu dùng có thêm nhiều sự lựa chọn tốt, với giá thành sản phẩm hạ, không phân biệt đối xử. Thêm vào đó là tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu, và có thể dự báo được thị trường cho hàng xuất khẩu dài hạn trong tương lai, tạo ra mối quan hệ thương mại chắc chắn hơn, góp phần tạo thuận lợi cho việc hoạch định các chính sách về đầu tư, phát triển sản xuất công-nông nghiệp, giảm thiểu những rủi ro trong thương mại quốc tế. Một khi hoạt động thương mại dịch vụ có điều kiện phát triển thuận lợi thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ được hưởng các dịch vụ chất lượng, phong phú, rẻ hơn nhờ đó chi phí kinh doanh hạ, mức sống người lao động gia tăng. Và trong tương lai với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp, sự phát triển của nền kinh tế, việc mở rộng kinh doanh ra khu vực ngoài biên giới quốc gia là tất yếu. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như VN _ kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này đặc biệt quan trọng và là yếu tố bảo đảm tăng trưởng. Hai là, với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của các tổ chức khu vực, quốc tế, sẽ giúp cho môi trường kinh doanh của nước ta sẽ ngày càng được cải thiện, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển. Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: Năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ba là, việc gia nhập ngày càng nhiều các tổ chức uy tín, rộng lớn trong khu vực và trên thế giới sẽ giúp chúng ta có được vị thế bình đẳng cùng các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Điều này cũng từng được đề cập trong một bài phát biểu của Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp VN gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, Thủ tướng nói: “…trong xu thế hiện nay, không tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, chúng ta sẽ là người ngoài cuộc, bị phân biệt đối xử trong tiếp cận thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, sẽ khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế…”. Quan trọng hơn là quốc gia nào không tham gia vào tiến trình này, quốc gia đó sẽ không có địa vị bình đẳng trong bàn thảo và xây dựng định chế của nền thương mại thế giới, không có điều kiện để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta. Bốn là, mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. Bất kỳ một hiệp hội, tổ chức nào trên thế giới cũng đều có những quy định và “luật chơi” riêng, và luôn không ngừng nâng cao các chính sách kiểm soát về thương mại của các nước thành viên một cách chặt chẽ hơn. Điều này sẽ tác động đến VN _ một đất nước có nền kinh tế đang phát triển, có ngành kinh tế chuyển đổi càng có điều kiện xây dựng, tăng cường các chính sách, thể chế điều hành, quản lý nền kinh tế của mình sao cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế cũng như trong nước. Việc VN thúc đẩy cải cách, sẽ kéo theo mức tăng trưởng cao và bền vững. Cải cách khu vực tài chính, đơn giản hóa các thủ tục hành chính công nhằm tạo ra sự minh bạch, có trách nhiệm giải trình và hiệu quả hơn, song song đó là những cải thiện trong cơ sở hạ tầng. Tất cả đều rất quan trọng đối với VN để nâng cao hiệu quả và tăng khả năng cạnh tranh. Năm là, vị thế của VN nâng cao và tạo thế đứng vững chắc trên trường quốc tế, có tiếng nói trong việc định hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới thông qua những cuộc thương lượng và đàm phán, từ đó có điều kiện bảo vệ các quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ theo hướng có lợi cho quốc gia. Tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: “VN mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển”. (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX) Thêm vào đó là tính tích cực trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điển hình như Việt Nam có thể tranh thủ cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại đa biên theo luật định của WTO để giải quyết một cách công bằng hơn các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế thương mại với các nước khác, đặc biệt là với các cường quốc, do cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương không cho phép các nước phát triển áp đặt luật của mình trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ có lợi từ sự đảm bảo chắc chắn là các đối tác thương mại của họ buộc phải tuân thủ theo các quy tắc của WTO. Tóm lại, HNKTQT đã được truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn, nó đưa những thành quả mới mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất kinh doanh, đưa kiến thức, kinh nghiệm đến với các dân tộc, và tại VN ta hầu như nó đã đến với từng gia đình, từng người dân, nó dọn đường và là hành trang cho công cuộc thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. HNKTQT tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển, từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và những kinh nghiệm cả về chiến lược dài hạn và về tổ chức tiến hành, cả ở tầm vĩ mô của quốc gia và ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp và từng hộ gia đình. Hội nhập chỉ rõ vị trí hàng đầu của yếu tố chất lượng, yếu tố thời gian, yếu tố nâng cao giá trị gia tăng để có sức cạnh tranh và hiệu quả, nó góp phần vào sự nâng cao dân trí và sự tự khẳng định của các dân tộc, của con người. Đồng hành với những cơ hội đó, chúng ta còn phải đương đầu với không ít những thách thức to lớn: Thách thức trong HNKTQT Vấn đề, nhận thức tư tưởng và kiến thức về HNKTQT Chủ trương của Đảng về HNKTQT đã được khẳng định qua nhiều nghị quyết và văn kiện và đã được triển khai từng bước. Quá trình hội nhập ngày nay đã thực sự đi vào chiều sâu với việc VN trở thành thành viên 150 của WTO..., nhưng trên thực tế vấn đề nhận thức nội dung, lộ trình hội nhập của nhiều ngành, cấp và doanh nghiệp vẫn còn chưa đầy đủ. Doanh nghiệp nước ta nói chung, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiện đang chiếm đại đa số các doanh nghiệp, còn ít hiểu biết về lộ trình và các yêu cầu của hội nhập, chưa thể tự trang bị cho mình những kiến thức và thông tin cần thiết về thị trường và luật pháp, thông lệ quốc tế trong làm ăn buôn bán. Đa số vẫn trông chờ ở sự bảo hộ của Nhà nước. Đây chính là những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng và gây cản trở cho việc HNKTQT, mà chúng ta cần nhanh chóng vượt qua. Đối với các doanh nghiệp HNKTQT đòi hỏi VN phải mở cửa thị trường để hàng ngoại quốc được tự do cạnh tranh với hàng hóa nội. Vấn đề đặt ra đối với ta vẫn là sự chênh lệch về trình độ sản xuất, khoa học kỹ thuật công nghệ so với các nước trong khu vực, và trên thế giới . Vì những yếu tố này mà có thể làm giảm nghiêm trọng khả năng cạnh tranh. Những doanh nghiệp cạnh tranh yếu, làm ăn không có hiệu quả sẽ bị thua lỗ, phá sản, và đương nhiên sẽ nhanh chóng bị đào thải, từ đó gây ra thiệt hại lớn về kinh tế, dẫn đến người lao động sẽ thiếu hoặc mất việc làm và kéo theo nhiều hệ quả về mặt xã hội. Đặc biệt trong quá trình triển khai các cam kết, hiệp định thương mại, chúng ta sẽ còn tiếp tục phải cắt giảm thuế quan và từng bước loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, áp dụng quy chế đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) cho hàng hóa và dịch vụ của các nước, bảo đảm nước ngoài được đối xử bình đẳng như dân bản xứ. Điều này gây cản trở lớn tới khả năng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa nếu không nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ. Vấn đề, hệ thống pháp luật và chính sách quản lý Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý, đặc biệt là pháp luật về kinh tế - thương mại còn thiếu nhiều, chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng và thông thoáng để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực, cạnh tranh lành mạnh. Nhiều biện pháp, chính sách tạo thuận lợi và bảo hộ cho phát triển thương mại được quốc tế thừa nhận như chế độ hạn ngạch thuế quan, quy chế xuất xứ, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, chính sách cạnh tranh ở nước ta chưa ban hành. Trong khi đó nước ta vẫn đang áp dụng nhiều biện pháp, chính sách không có trong thông lệ quốc tế, hoặc không phù hợp với các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế. Tham gia HNKTQT điều không tránh khỏi là sẽ phát sinh nhiều điểm xung đột giữa hệ thống luật hiện tại với hệ thống luật quốc tế mà ta sẽ tham gia. Đây là điều không dễ giải quyết trong ngày một ngày hai, mà cần một lộ trình chuẩn bị, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách, tổ chức thực hiện. Đối với, đội ngũ cán bộ và nguồn nhân lực Chúng ta tiến hành mở cửa và hội nhập với đội ngũ cán bộ làm kinh tế đối ngoại còn thiếu và trình độ còn yếu cả về năng lực chuyên môn và về ngoại ngữ. Đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập đã được tăng cường nhiều trong thời gian qua, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng. Muốn hội nhập có hiệu quả, nhân tố quyết định chính là con người. Để có thể tham gia một cách bình đẳng vào các luật chơi chung của thế giới, ta cũng phải có một đội ngũ cán bộ am hiểu thể lệ của các định chế quốc tế, có trình độ về chuyên môn và ngoại ngữ. Vấn đề, xóa đói giảm nghèo Xáo trộn trong thị trường lao động là phản ứng ngắn hạn của nền kinh tế bị co giãn dưới sức ép của hội nhập. Với VN, dù hội nhập hay không thì nạn nghèo đói vẫn luôn là một vấn đề trường kỳ nan giải, thêm vào đó là sự chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Câu hỏi đặt ra là liệu hội nhập sẽ làm tăng hay giảm nghèo đói? Làm cách nào để toàn dân trong nước được hưởng kết quả đồng đều của hội nhập? Câu trả lời nằm trong chính sách phân chia lợi tức giữa nông thôn và thành thị. Do đó cần phải có chính sách lao động hay an sinh xã hội hợp lý, kịp thời để điều chỉnh nền kinh tế, đồng thời phải quán triệt và thực hiện tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển". (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2001, tr.88) Các vấn đề khác: HNKTQT trong một thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, thì tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ. Bên cạnh đó HNKTQT cũng đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, vị kỷ, chạy theo đồng tiền… Quan hệ Việt kiều Mỗi năm Việt kiều gửi về VN trên 2 tỷ Mỹ kim, mang theo nguồn lợi tức và ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế trong nước. Và đây cũng là bộ phận tiêu thụ rất mạnh cho hàng xuất khẩu từ VN. Vấn đề ở đây là chúng ta phải biết tìm cách “hội nhập” hai nền kinh tế: trong nước và “kinh tế vệ tinh” ngoài nước. Gần đây VN cũng đã có những bước tiến rất đáng kể trong vấn đề này như việc khuyến khích Việt kiều về đầu tư, sửa đổi thủ tục mua nhà, miễn visa khi về nước. Ta đã xúc tiến hội nhập toàn cầu thì không có lí do gì mà không cố gắng hội nhập với “kinh tế vệ tinh” của nhóm dân Việt sống nơi đất khách quê người. Tranh chấp quốc tế Tranh chấp thương mại là một thực tiễn tất yếu của thương mại quốc tế và có xu hướng ngày càng tăng về số lượng, đa dạng về hình thức, từ tranh chấp hợp đồng, kiện bán phá giá…tới các khiếu kiện liên quan đến bản quyền. Các vụ cá tra, cá basa, tôm, giày dép VN bị kiện bán phá giá tại thị trường Mỹ, canada, EU, tranh chấp thương hiệu kẹo dừa, võng xếp…cho chúng ta kinh nghiệm thực tiễn về một thế giới thương mại vừa hợp tác vừa đấu tranh. Thực tế cho thấy, các vụ kiện tương tự sẽ tăng tỷ lệ thuận với mức độ hội nhập của nền kinh tế. Nói tóm lại, bàn thân cơ hội thì tự nó không thể biến thành lực lượng vật chất trên thị trường được mà còn tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta, như Thủ tướng đã từng nói: “Cơ hội và thách thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển…”. Và ta có thể ví von bản chất của hội nhập kinh tế như là một trận đấu, ai thông minh sáng suốt thì được sẽ nhiều hơn mất, ai dại khờ sơ hở thì mất nhiều hơn được, có thể được, mất rất lớn nhưng hầu như không thể được hết hoặc mất hết. Chỉ có một tình huống chắc chắn mất hết đó là thu mình lại, đóng cửa, cự tuyệt HNKTQT. Thực trạng HNKTQT của nước ta Những mặt được Thực hiện chủ động HNKTQT, nước ta đã mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, vượt qua được những khó khăn về thị trường do những biến động ở Liên Xô cũ và Đông Âu gây ra, phá được thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực vào cuối những năm 90 thế kỷ trước. HNKTQT đã góp phần quan trọng giúp VN trong hàng thập kỷ giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 6,7 đến 8%, đạt mức thứ nhì Châu Á và thế giới và đặc biệt trong vòng 10 năm nay, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 40% xuống còn hơn 8% vào năm 2004, đạt kết quả xoá đói, giảm nghèo được Liên hiệp quốc, một số tổ chức tài chính toàn cầu và nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá là đứng đầu trên thế giới. ( www.mofa.gov.vn ) Thu hút được đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ phát triển chính thức, xuất khẩu nhập khẩu tăng nhanh. Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, góp phần tạo dựng tư duy kinh tế mới, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Những yếu kém Chủ trương chủ động HNKTQT đã được khẳng định rõ trong nhiều Nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước và đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình HNKTQT chưa đạt được sự nhất trí cao và nhất quán; một bộ phận cán bộ chưa thấy hết và chưa chủ động tranh thủ những thời cơ mở ra, để từ đó có có kế hoạch thúc đẩy kinh tế nước ta chủ động hội nhập có hiệu quả; cơ cấu kinh tế chậm được chuyển dịch để luôn phát huy được lợi thế so sánh của đất nước; không ít chủ trương, chính sách chậm được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập. Công tác HNKTQT mới được triển khai chủ yếu ở các cơ quan Trung ương và một số thành phố lớn, sự tham gia của các ngành, các cấp, của các doanh nghiệp còn yếu và chưa đồng bộ. Nhân dân chưa được thông tin đầy đủ về công việc HNKTQT của đất nước Doanh nghiệp nước ta nói chung còn ít hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh thấp, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp và bảo hộ của Nhà nước còn nặng. Tỷ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến, chế tác sâu còn thấp, quy mô xuất khẩu còn nhỏ, nhập siêu còn lớn. Môi trường đầu tư kém hấp dẫn so với một số nước xung quanh, chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn, chưa chủ động thu hút vốn đầu tư gián tiếp quốc tế. Việc giải ngân vốn ODA còn chậm, chiến lược vay và trả nợ nước ngoài chưa được chuẩn bị thật tốt. Hệ thống pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, nhất quán và còn khoảng cách khá lớn so với các định chế của WTO; trong bộ máy hành chính còn không ít biểu hiện của bệnh quan liêu và tệ tham nhũng, trình độ nghiệp vụ yếu kém, nguồn nhân lực chưa được đào tạo tốt… Những thành tựu đạt được trong HNKTQT hiện nay Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, VN xếp thứ 48/53 nước được xem xét năm 1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 nước tham gia xếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các nước xếp hạng, và theo công bố mới đây ngày 31/10 VN được xếp hạng thứ 68/131 quốc gia và vùng lãnh thổ về khả năng cạnh tranh toàn cầu (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF) Do hội nhập, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD trong năm 1990 lên trên 5,4 tỷ USD năm 1995, lên gần 14,5 tỷ USD năm 2000, lên gần 32,5 tỷ USD năm 2005, lên trên 39,8 tỷ USD trong năm 2006 và có khả năng đạt 47,5 tỷ USD trong năm 2007. Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng đáng kể từ 2,75 tỷ USD năm 1990 lên đến 44,41 tỷ USD năm 2006, riêng 7 tháng đầu năm nay thì tổng kim ngạch nhập khẩu đã là 32.24 tỷ USD, và sẽ còn tiếp tục tăng trong những tháng tiếp theo. Nhiều nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD như dầu thô, hàng dệt may, thuỷ sản và giày dép. Cơ cấu hàng xuất khẩu có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu đạt trên 40% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong khi đầu những năm 90 chỉ ở mức dưới 30%). Thị trường không ngừng được mở rộng, từ chỗ chỉ có quan hệ thương mại với các nước Đông Âu là chính, đến nay VN đã có quan hệ kinh tế thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. ( www.mofa.gov.vn ) Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và viện trợ phát triển (ODA): Bằng chính sách đầu tư hấp dẫn, đến nay, đã có trên 78 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có tiềm lực tài chính - công nghệ, góp phần thay đổi trình độ sản xuất của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm nay đã có 47 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư. Về nguồn ODA, hơn 4,4 tỷ USD là mức cam kết mà các nhà tài trợ dành cho VN năm 2007. Lượng vốn thực hiện trong 9 tháng qua ước đạt hơn 3 tỷ USD tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước và là mức cao nhất từ trước tới nay. (Báo Nhân dân ngày 21/11/2007) Hội nhập giúp ta tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ quản lý tiên tiến, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh và công nhân kỹ thuật lành nghề. Với những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư và hỗ trợ tài chính quốc tế, HNKTQT thời gian qua đã góp phần đáng kể đảm bảo tăng trưởng cao của nền kinh tế VN. Tạo thêm được 350.000 việc làm mới, cải thiện đời sống nhân dân. Cơ cấu của nền kinh tế cũng có những bước tiến bộ rõ rệt, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 36%, dịch vụ trên 39% và nông lâm ngư nghiệp 24%, từng bước tạo ra được một nền kinh tế mở, năng động, có khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra trong nền kinh tế thế giới. Khái quát một vài con số cụ thể về kinh tế VN trong 9 tháng đầu năm nay Đầu tư: ước đạt 334,8 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính cả năm 2007, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện có thể đạt 465 nghìn tỷ đồng, bằng 40,9% tổng sản phẩm trong nước và tăng 16,6% so với năm 2006. Từ đầu năm đến 22/9/2007 đã cấp phép 1045 dự án đầu tư trực tiếp vốn nước ngoài với tổng vốn đăng ký 8,29 tỷ USD, nếu tính cả 1,32 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 274 dự án được cấp phép các năm trước thì tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong 9 tháng lên tới 9,61 tỷ USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến cả năm 2007 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 13 tỷ USD. Sản xuất công nghiệp: Ước tính 17,1% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính cả năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,2% so với năm 2006 Nông, lâm, ngư nghiệp: Ước tính chung, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng năm 2007 tăng gần 4,2% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nông nghiệp tăng 2,6%; lâm nghiệp tăng 1,1% ; thuỷ sản tăng 9,6%. Ước đạt cả năm 2007 của khu vực này có thể đạt tốc độ tăng trưởng 4,3% trong đó nông nghiệp tăng 2,8%; lâm nghiệp tăng 1,1% và thuỷ sản tăng 9,8%. Xuất nhập khẩu: Ước tính đạt 35,2% tỷ USD, tăng 19,4% so với 9 tháng năm 2006, trong đó khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu 15,4 tỷ USD, tăng 24,9% ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt trên 14 tỷ USD, tăng 31,7%. Du lịch: Lượng khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng qua ước đạt 3,2 triệu lượt người, tăng 18,5% so với 9 tháng năm 2006, trong đó: khách đến du lịch, nghỉ ngơi gần 2 triệu lượt người, tăng 28,9%; khách đến vì công việc 481,4 nghìn lượt người, tăng 14,2%; khách thăm thân nhân 455,7 nghìn lượt người tăng 4,5%. Từ những con số trên có thể thấy những thành tựu tương đối mà Việt Nam đạt được trong thời gian gần đây, và nó cũng chứng tỏ rằng nền kinh tế VN đang ngày càng phát triển. CHỦ ĐỘNG HNKTQT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HNKTQT CỦA VIỆT NAM Chủ động HNKTQT _ một yêu cầu khách quan Từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã chịu sự tác động của một loại xu thế mới, nổi bật là sự phát triển bùng nổ của Cách mạng khoa học công nghệ, xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác với sự ưu tiên các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Với xu thế vận động đó, quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng, việc xã hội hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ở quy mô toàn cầu đã tăng thêm quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều, quan hệ tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Chủ động HNKTQT đã và đang trở thành một trào lưu, một nhu cầu khách quan, và cấp thiết đối với tất cả các nước. Một cách khái quát có thể nêu lên những nhân tố chính thúc đẩy quá trình HNKTQT như sau: - Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. - Hoạt động thương mại, tài chính-tiền tệ và đầu tư quốc tế gia tăng mạnh mẽ theo xu hướng tự do hóa. - Thương mại hàng hóa, dịch vụ ngày càng gia tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nước. - Các công ty xuyên quốc gia (TNC) ngày càng lớn mạnh đóng vai trò tiên phong của quá trình toàn cầu hóa. - Sự thay đổi cơ bản về khái niệm an ninh, lấy phát triển kinh tế là cách thức hữu hiệu để bảo đảm an ninh cho mỗi quốc gia. Những yếu tố trên, đặc trưng của quá trình toàn cầu hóa, đã làm cho HNKTQT trở thành xu thế tất yếu khách quan, một quy luật xã hội. Bất cứ một nền kinh tế nào muốn không bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực chủ động hội nhập vào xu thế chung. Phương châm của VN ta là đa dạng hóa quan hệ thị trường và đối tác trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đôi bên cùng có lợi. Chúng ta tham gia vào tiến trình hội nhập với mục đích thu hút vốn đầu tư nước ngoài, những kỹ thuật công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý tiên tiến … Từ đó xây dựng uy tín và khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. ( www.toquoc.gov.vn ) Các giải pháp thúc đẩy HNKTQT Nhóm giải pháp về điều chỉnh, kiện toàn chính sách và các biện pháp thực hiện chính sách thương mại * Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý, xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập [1, trang 257-260] Nhằm hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Trước hết tập trung vào: - Soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới ban hành, bảo đảm cụ thể, công khai, minh bạch phù hợp với nội dung của luật pháp quốc tế - Xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi loại hàng hoá và dịch vụ. - Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo đảm cho các ngân hàng thương mại thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các khoản vay và cho vay trên cơ sở hiệu quả, không có sự phân biệt đối xử về hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường đất đai và bất động sản. Cải cách chế độ kế toán và tài chính doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế. - Xây dựng các biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm đi đôi với việc l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam.doc
Tài liệu liên quan