I . Sự cần thiết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt 3
Nam 3
1. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của sự phát triển . 3
1.1 Bối cảnh quốc tế mới khi Việt Nam tiến hành hội nhập cùng thế giới 3
1.2 Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay . 6
2. Những cơ hội đem lại cho Việt Nam khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới 9
2.1 Hội nhập vào nền kinh tế thế giới là điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực và trên thế giới . 9
2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tạo điều kiện kinh tế phát triển nhanh . 10
2.3 Hội nhập kinh tế thế giới Việt Nam có thể học hỏi , giao, lưu mở rộng , rút kinh nghiệm của các nước đi trước . 10
2.4 Hội nhập kinh tế là điều kiện thuận lợi để tiến hành đào tạo và nâng cao chất lượng quản lí . 11
II . Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 12
1.1 Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam 12
2.1 Những nguy cơ đối với Việt Nam 18
2. Những lợi thế của Việt Nam khi bước vào hội nhập kinh tế thế giới . 23
2.1 Việt Nam có sự ổn định chính trị , xã hội tương đối caotrong vùng . 23
2.2Vị trí địa lí chính trị và địa lí kinh tế của Việt Nam trong vùng Đông Nam á . 23
2.3 Quy mô dân số lớn thứ 2 trong vùng , lao động trẻ chiếm đa số , có trình độ văn hoá , có khả năng khá khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới 24
2.4Nông nghiệp nhiệt đới được ứng dụng khoa học kỹ thuật đảm bảo an ninh lương thực và chiếm vị thế cao trong xuất khẩu nông sản . 24
2.5 Việt Nam còn có lợi thế của một nước đi sau . 25
3. Kết quả bước đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới . 26
3.1 Tiến trình hội nhập của Việt Nam . 26
3.2 Thương mại Việt Nam ngày càng phát triển . 28
4 . Việt Nam chuẩn bị gia nhập AFTA và WTO . 32
4.1 Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch phù hợp với nền kinh tế thị trường để chuẩn bị tham gia WTO và AFTA 32
4.2 Các chính sách ưu đãi đầu tư và luật về thuế được hoàn thiện , cải cách luật thương mại để phù hợp với xu thế hội nhập . 33
1.Một số quan điểm . 35
2.Một số giải pháp chủ yếu. 36
Kết luận 41
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2067 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoá Việt Nam về chất lượng chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế .
Do máy móc thiết bị , công nghệ lạc hậu nên chất hàng hoá , dịch vụ nhìn chung thấp , giá thành cao do đó thiếu sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới . Theo kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp thì đến giữa năm 1998 ngành công nghiệp mới có 26% các doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường tron g nước . 58,5% số doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường nhưng chưa vững chắc còn 14,3% số doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước . So với hàng nhập khẩu hàng hoá của ta thua kém cả về chất lượng và giá cả mà biểu hiện rõ nhất là ở giá cả . Ví dụ đường RS của ta giá xuất xưởng là 340-400 $ / tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 260-300$/ tấn . Như vậy giá nhập còn rẻ hơn giá xuất xưởng của ta 20-30% . Giá sắt thép trong nước sản xuất bình quân 300$/ tấn nhưng nhập khẩu chỉ có 285$/ tấn , giá xi măng của Việt Nam 840 nghìn đồng /tấn trong khi nhập của Thái Lan chỉ có 630 nghìn . Hay thể hiện rõ nhất là trong vòng hai năm trở lại đây hàng xe máy Trung Quốc đã làm rối loạn cả thị trường Việt Nam với một ưu điểm mà xe máy sản xuất trong nước chưa làm được đó là giá cả rất rẻ hợp với túi tiền của người lao động . Qua những ví dụ nhỏ trên càng chứng tỏ để hàng hoá của ta có thể đứng vững trên thị trường thì nhất thiết phải đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và giảm giá thành của sản phẩm . Đó là một thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam .
Trong khi đó hiện nay nước ta mới chỉ có 23,8% số doanh nghiệp đã có hàng xuất khẩu , 13,7% có triển vọng xuất khẩu , còn lại 62,5% số doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu . Tuy nhiên đến nay hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô chưa được chế biến hoặc chỉ được sơ chế .Ví dụ dầu thô chiếm 17,5% kim ngạch xuất khẩu (KNXK) , gạo chiếm 9% KNXK , cà phê chiếm 5% , hải sản chiếm 8,5% KNXK ... Còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là các sản phẩm chất lượng cao còn ít , sức cạnh tranh yếu . Trong khi đó các giá cả các mặt hàng nguyên vật liệu và sơ chế lại bấp bênh , hay bị tác động xấu bất lợi cho các nước xuất khẩu . Ta có thể thấy rõ điều này qua sự sụt giảm giá hàng loạt các sản phẩm nông sản như cà phê , tiêu ... xuất khẩu trên thế giới . Giá cà phê đã xuống đến mức thấp nhất trong tháng 11,12 năm 2001 vừa qua , dẫn đến việc chính phủ phải rút một khoản ngân sách lớn để bao tiêu sản phẩm giúp các nhà trồng cà phê không bị phá sản . Mặt khác giá hàng xuất khẩu của Việt Nam thường bị chèn ép trên thị trường và thuờng rẻ hơn 10-20% với giá bình quân trên thế giới .
Vì thế thị trường cho hàng hoá xuất khẩu còn rất hạn chế . Hiện nay thành phần hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đến các nước ASEAN chiếm chưa đến 1% trong tổng giá trị hàng nhập khẩu của các nước này , so với thị trường Đông Bắc á thì tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều , thị trường liên minh Châu Âu còn rất hạn chế trong phạm vi quan hệ song phương Anh , Pháp , Đức , Hà Lan ... Còn hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ thì rất ít do những yêu cầu khắt khe về phía Mỹ . Diễn đàn kinh tế thế giới mới đây quan sát và đánh giá sức cạnh tranh của 59 nền kinh tế thì Việt Nam xếp thứ53 /59
Khi mà chúng ta đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế thế giới trong đó có các thị trường lớn có triển vọng xuất khẩu mà khả năng cạnh tranh của hàng hoá ta không được cải thiện thì đó là một thách thức to lớn cho nền kinh tế nhỏ như Việt Nam .
d / Chính sách về thuế , luậtkhuyến khích đầu tư chưa được hoàn thiện còn là bước ngăn cản hội nhập kinh tế kinh tế .
Hiện nay trong hệ thống luật và các chính sách hiện hành còn nhiều điều bất hợp lí và chưa chặt chẽ . Như về thuế nhập khẩu , hiện nay thuế nhập khẩu có chức năng bảo vệ sản xuất trong nước nên thuế suất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được , do đó đã góp phần hỗ trợ tích cực cho thời kỳ đầu phát triển . Nhưng chính điều này cũng tạo ra những lệch lạc trong định hướng đầu tư trong nước , đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài . Trong những năm qua đầu tư nước ngoài đã được thu hút vào những ngành sản xuất ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước chứ không nhằm xuất khẩu . Do tổ chức quản lí điều hành xuất nhập khẩu còn yếu kém nên thị trường khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xuất khẩu mà cung ứng trên thị trường nội địa , và đây là việclàm đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc tiêu thụ sản phẩm . Điều này dẫn đến vốn đầu tư chưa thực sự góp phần tăng thêm tiềm lực xuất khẩu cũng như làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và chưa đẩy nhanh được khả năng thâm nhập thị trường thế giới của hàng Việt Nam , gây lãng phí trong việc sử dụng nguồn vốn này .
Trong luật thuế có quy định áp dụng giá tính thuế tối thiểu với 15 nhóm mặt hàng do nhà nước quản lí . Việc áp dụng này chưa phù hợp với quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ phải cam kết thực hiện khi gia nhập AFTA và WTO cũng như trong hiệp định thương mại Việt – Mỹ . Đó là quy định của hoạt động xác định giá hải quan theo GATT . Luật thuế xuất nhập khẩu cũng quy định một số loại hàng hoá chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng , nghiên cứu khoa học , giáo dục được xét miễn giảm thuế nhập khẩu . Tuy nhiên trên thực tế rất khó xác định rạch ròi các loại hàng hoá này vì thế vừa làm cho thủ tục xét miễn giảm thuế phức tạp nhưng vẫn không bảo đảm được sự chính xác , chặt chẽ dẫn tới lợi dụng trốn thuế . Trong tổ chức thực hiện luật thuế xuất khẩu , nhập khẩu cũng có nhiều bất cập như việc tính thuế đôi lúc còn tuỳ tiện ở các cửa khẩu biên giới , công tác quản lí nhiều khi còn buông lỏng cộng với tình trạng đánh thuế quá cao một số mặt hàng nhập khẩu dẫn đến tình trạng nhập lậu gia tăng , hàng lậu lấn át hàng ngoại làm cho sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài gây thiệt hại nhiều cho các doanh nghiệp .
Những năm đổi mới vừa qua nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu . Điều đó đã góp phần tích cực thúc đẩy xuất nhập khẩu , điều tiết tiêu dùng . Tuy vậy thuế xuất nhập khẩu hiện hành còn nhiều điều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập , tự do hoá thương mại : mức thu còn cao , biểu thuế còn nhiều thuế suất làm phức tạp quá trình thực hiện . Thêm vào đó những bất cập trong tổ chức thực hiện đang làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh , gây khó khăn cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của thương mại Việt Nam .
Các chính sách khuyến khích đầu tư của Việt Nam đối với người nước ngoài còn nhiều điều chưa hoàn thiện gây cản trở cho việc nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam . Ví dụ tiền thuê mặt bằng làm văn phòng đại diện , cơ sở sản xuất cao , giá vé máy bay , cước thông tin liên lạc , các dịch vụ ... còn phân biệt người nước ngoài và khách nội địa ... Muốn các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh nhất là những vùng chậm phát triển thì trước hết ta phải tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng , điện, nước, an ninh trật tự ... để họ dễ dàng hoạt động .Như vậy với những hạn chế trong chính sách khuyến khích đầu tư đã làm cho môi trường đầu tư vào Việt Nam thiếu sức hấp dẫn .
Muốn hội nhập thành công với nền kinh tế thế giới và khu vực thì nhất thiết là phải hoàn thiện các chính sách về thuế và các chính sách khuyến khích đầu tư .
2.1 Những nguy cơ đối với Việt Nam
a/ Nguy cơ mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay là do gia nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực , nước ta phải giảm dần thuế quan , và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan , thì hàng hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta , chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước kéo theo hệ quả xấu về việc làm , thu nhập và đời sống người lao động .
Thực chất thì hội nhập kinh tế thế giới chính là nhằm mục đích cạnh tranh tìm kiếm thị trường , vì thế điều quan trọng nhất là hàng hoá của Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh về chất lượng , số lượng và giá cả .nhưng do Việt nam có trình độ công nghệ thấp , máy móc thiết bị đã cũ kỹ lạc hậu nên khả năng cạnh tranh còn kém , một khi hàng hoá nước ngoài tràn vào Việt Nam sẽ đánh bại hàng hoá nội địa .Nhất là hiện nay với chính sách bảo hộ của nhà nước thuế nhập khẩu một số hàng hoá của nước ngoài còn được duy trì khá cao , vậy mà hàng nhập khẩu vẫn có giá rẻ hơn hàng hoá trong nước và tràn ngập thị trường gây khó khăn không ít với các ngành sản xuất trong nước. Cho đến khi Việt Nam gia nhập AFTA năm 2006 , thuế nhập khẩu giữa các nước ASEAN chỉ còn từ 0-5% lúc đó sẽ thực sự khó khăn cho hàng hoá của ta . Về lí thuyết khi ta gia nhập AFTA có thể tạo điều kiện để xuất khẩu hàng hoá sang các nước ASEAN vì hàng rào bảo hộ của các nước đó cũng cắt giảm tương ứng . Nhưng trên thực tế triển vọng gia tăng xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang các nước ASEAN vẫn chưa có những hứa hẹn thay đổi . Bởi những hàng hoá thế mạnh của Việt Nam thì cũng là những hàng hoá xuất khẩu thế mạnh của các nước bạn , và Việt Nam có thể vượt qua họ được . Như vậy dường như càng ngày thị trường của Việt Nam càng bị thu hẹp .
Với lo ngại đó nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp trung bình và yếu kém thường đòi hỏi nhà nước thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt .Tuy nhiên nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước ta không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh nghiệp đó được . Bởi lẽ , một là Việt Nam có nghiã vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại vào các nước 2006 và 2020 khi tham gia vào AFTA và APEC cũng như những cam kết khác khi được kết nạp vào WTO . Hai là , việc thi hành chính sách bảo họ mậu dịch luôn tạo ra sự ỉ nại của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ không nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình trong việc hội nhập nền kinh tế thế giới và cho rằng việc cắt giảm hàng rào thuế quan khi hội nhập vào khu vực và quốc tế là còn rất xa xôi . Việc bảo hộ có chọn lọc , có điều kiện , có thời hạn thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới , tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh hơn . Một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành “ gậy ông lại đập lưng ông ” gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội . Một tài liệu nghiên cứu gần đây cho thấy “ Việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhâpj khẩu chưa có thuế là 50% ( khoảng 20-22 $ / tấn ) .Toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu $ năm 1999 để bảo hộ ngành sản xuất xi măng , trong đó gần 1/2số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài , số tiền tương đương 40% ngân sách giáo dục của cả nước , gấp gần 4 lần ngân sách khoa học kỹ thuật ”
Với trình độ công nghệ kém hơn , Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh dựa trên tính độc đáo của chủng loại và mẫu mã sản phẩm . Vì thế nếu Việt Nam vẫn không tích cực đẩy mạnh đổi mới công nghệ , nâng cao chất lượng hàng hoá , giảm giá thành sản phẩm , thay đổi hình thức mẫu mã hàng hoá thì nguy cơ bị thu hẹp thị trường là không thể tránh khỏi .
b/ Một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt ra là phải làm sao giữ được độc lập tự chủ trong tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế thế giới . Vì lệ thuộc về kinh tế sẽ rất dễ dẫn đến lệ thuộc về chính trị và mất tự chủ về kinh tế Trong quá trình hội nhập , Việt Nam vẫn còn là một nước có nền kinh tế non yếu , vị thế của nước ta trên trường quốc tế còn thấp nên ta sẽ vấp phải rất nhiều nguy cơ dẫn tới mất tự chủ về kinh tế .
Thứ nhất là nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao , tỷ lệ giao hoán bất lợi , xuất phát từ việc xuất khẩu nông khoáng sản thô giá rẻ và nhập khẩu hàng cao cấp giá cao . Sự thiệt thòi triền miên năm này qua năm khác mỗi năm ước tính hàng nhiều tỉ USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo thêm .
Thứ hai là nguy cơ nhập siêu đưa đến đâm thủng cán cân thương mại buôc phải vay tiền nước ngoài . Trong những năm 1995 đến 1997 chúng ta nhập siêu trên dưới 3 tỉ USD , nợ quốc tế tăng 2-3 tỉ / năm .
Thứ ba là nợ quốc tế tăng gia với tốc độ nhanh hàng năm đưa đến tình trạng nợ đáo hạn và vốn lời mỗi năm tăng . Nợ quốc tế tăng đến một mức độ nào đó sẽ dẫn tới tình trạng khủng hoảng tài chính – tiền tệ và có thể dẫn tới khủng hoảng chính trị như ở Achentina vào cuối năm 2001 . Tình hình nợ quốc tế của ta ít hơn rất nhiều lần so với Achentina nhưng bài học ở đây cho thấy rằng nợ quốc tế tăng có thể đưa đến việc ngân hàng trung ương không còn khả năng thanh toán quốc tế , đặc biệt là các trang trải nhập khẩu thông thường và lúc bấy giờ sẽ xẩy ra khủng hoảng tài chính – tiền tệ ...
Thứ tư , hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam tranh thủ kỹ thuật , khoa học ,vốn công nghệ ...Tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư tại Virtj Nam nếu họ có lợi . Như vậy chúng ta ở trong thế yếu , chỉ có khả năng hạn chế họ bớt lợi mà thôi , nhưng nếu đầu tư mà chỉ thu được lợi ít , họ sẽ ngưng hay giới hạn lượng đầu tư . Kinh nghiệm cho thấy trong thập niên 90 những thiết bị đầu tư ở Việt Nan thường là những thiết bị cũ . Thị phần các doanh nghiệp Việt Nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh , nhiều công ty phía Việt nam có phần hùn vốn 30% nhờ phần đóng góp mặt bằng , nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn nước ngoài 100%do nhiều lí do , trong số có lí do phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng phía ta không đáp ứng được . Nếu tình trạng này gia tăng , người nước ngoài sẽ làm chủ các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam . Khi đó sẽ khó giữ được độc lập tự chủ kinh tế quốc gia .
Sự phối hợp của 4 nguy cơ trên có khả năng đưa đất nước đến tình trạng mất độc lập tự chủ về kinh tế , tài chính , tiền tệ gây ra cảnh lệ thuộc vào nước ngoài .
c/Một thách thức nữa không kếm phần quan trọng được đặt ra đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc , đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước . Đây không chỉ là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo chung của nhiều nước khác trên thế giới .Bởi song song với quá trình hội nhập kinh tế cũng diễn ra sự hội nhập về nhiều lĩnh vực khác như văn hoá , tư tưởng , lối sống ... Quá trình đó làm nảy sinh mối nguy aơ ghê gớm về “sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn , đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá , nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của nhân loại ”
Nguy cơ nói trên lại càng tăng lên gấp bội khi một siêu cường nào đó tự cho các giá trị văn hoá của mình là ưu việt , là tối thượng , từ đó làm nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là “xâm lược văn hoá ”với nhiều biện pháp trắng trợn và tinh vi .
Đứng trước tình hình đó , chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa khước từ giao lưu , trao đổi, đối thoại với bên ngoài .Trái lại với bản lĩnh vốn có của dân tộc trong quá trình giao lưu văn hoá với thế giới suốt mấy ngàn năm chúng ta có thể vững tin và chủ động lựa chọn , tiếp thu các yếu tố nhân bản , hợp lí , khoa học , tiến bộ văn hoá các nước cả phương Đon và phương Tây để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc , xem đó là nhân tố cực kỳ quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị văn vật chất tinh thần mới trong công cuộc CNH-HĐH đất nước . Đồng thời chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kỳ ”của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay , dở, tốt , xấu, để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá , gây hậu quả xấu về tư tưởng , đạo đức , lối sống của các tầng lớp dân cư . Tóm lại chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc , đi đôi với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại , thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò quan trọng vừa là mục tiêu , vừa là động lực và hệ điều tiết của sự phát triển kinh tế –xã hội .
Những lợi thế của Việt Nam khi bước vào hội nhập kinh tế thế giới .
Bên cạnh những khó khăn thử thách mà Việt Nam phải đối mặt thì chúng ta cũng có những lợi thế khi bước vào hội nhập nền kinh tế thế giới .
Việt Nam có sự ổn định chính trị , xã hội tương đối caotrong vùng .
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới , chúng ta đã đạt được nhiều thắng lợi quan trọng tạo nên thế và lực mới cho đất nước . Chính sự ổn định khá vững chắc của đất nước đã góp phần quan trọng cho Việt Nam hạn chế bớt những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng khu vực và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất vùng Đông Nam á thứ nhì thế giới sau Trung Quốc . Nhất là sau cuộc khủng bố hôm 11/9/2001 tại Mỹ vừa qua cả thế giới mới chợt bừng tỉnh ,một đất nuớc muốn phát triển bền vững thì phải có một nền chính trị xã hội ổn định . Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế thì Việt Nam được coi là nơi an toàn nhất trong vùng Châu á Thái Bình Dương . Đây là một đánh giá có ý nghĩa to lớn với nền kinh tế Việt Nam . Bởi các nhà đầu tư sẽ không mạo hiểm để đầu tư một lượng vốn lớn vào một đất nước mà nền chính trị luôn bất ổn định , xã hội luôn có nguy cơ bị đe doạ bởi khủng bố và nội chiến . Với đánh giá đó Việt Nam thực sự trở thành “ Điểm đến của thiên niên kỷ mới ”
2.2Vị trí địa lí chính trị và địa lí kinh tế của Việt Nam trong vùng Đông Nam á .
Việt Nam nằm ở bán đảo Đông Dương , án ngữ giao lộ hàng hải , hàng không nội vùng và quốc tế . Các đường bay từ Hồng Kong , Nhật Bản đi Thái Lan đều có con đường lợi nhất là ngang qua không phận Đà Nẵng . Đường cáp quang quốc tế cũng có mạch nối vào Đà Nẵng . Hạm đội Nga đầu thế kỷ này cũng đã trú chân tại Cam Ranh .Con đường bộ xuyên á không chỉ đi qua thành phố Hồ Chí Minh mà hành lang Đông Tây qua đường 9 và cả hành lang Đong Tây mở rộng sẽ không chỉ là lối thông ra biển Đông của Lào , Đông Bắc Thái Lan và Vân Nam mà còn là cây cầu dài trên bộ nối liền ấn Độ Dương với Thái Bình Dương tạo ra con đuờng vận tải liên vận ngắn nhất từ Tây sang Đông trong tương lai gần . Mặt khác Việt nam cũng nằm trong khu vực diễn ra những hoạt độngkinh tế sôi động nhất của thế kỷ mới . Một vị trí trung tâm Đông Nam á như vậy quả là nổi trội . Trên thực tế Mỹ , Tây Âu nhìn vào Việt Nam không chỉ như một nơi có nhiều tiềm năng nói chung mà trước hết vì thế địa lí chính trị và kinh tế của Việt Nam trong Đông Dương , trong ASEAN , APEC, ASEM . Có thể nói lợi thế này còn cao hơn lợi thế về một số loại khoáng sản hiện có . Khoáng sản có thể cạn kiệt nhưng lợi thế vị trí địa lí chính trị , kinh tế này thì còn mãi , và nếu biết khai thác thì có thể có vị thế cao trong vùng .
2.3 Quy mô dân số lớn thứ 2 trong vùng , lao động trẻ chiếm đa số , có trình độ văn hoá , có khả năng khá khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới
Dân số nước ta hiện nay có trên 80 triệu người , trong đó tổng lao động trẻ chiếm ~50 triệu người. Đây là một lợi thế trong quá trình phát triển . Lao động còn trẻ nên khả năng tiếp cận , tiếp thu khoa học công nghệ mới nhanh hơn và sáng tạo hơn . Đối với bất cứ một nền kinh tế nào điều cần thiết nhất chính là nguồn nhân công . ở Việt nam đã có một nguồn dồi dào , vấn đề là ở chỗ ta có biết khai thác nguồn lực đó hay không hay để tình trạng thất nghiệp gây lãng phí . Các nhà đầu tư đã nhận thấy khả năng khai thác tiềm lực to lớn này ở nước ta : nguồn nhân công vừa dồi dào vừa rẻ . Với lợi thế đó mà chúng ta có những đường lối chính sách về giáo dục đào tạo hợp lí phù hợp để nâng cao chất lượng của người lao động thì đây sẽ điểm mạnh , một yếu tố quyết định thắng lợi của quá trình hội nhập kinh tế thế giới .
2.4Nông nghiệp nhiệt đới được ứng dụng khoa học kỹ thuật đảm bảo an ninh lương thực và chiếm vị thế cao trong xuất khẩu nông sản .
Nước ta nằm trong khu vực khí hậu rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp . Từ Băc vào Nam được chia thành các đới khí hậu khác nhau rất đa dạng phong phú thích hợp với nhiều các loại cây lương thực , thực phẩm , cây công nghiệp thuộc các miền khí hậu khác nhau . Trog đó lợi thế lớn nhất của Việt Nam là trồng lúa gạo . Với sự ưu đãi của khí hậu , địa hình và mạnh dạn áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới , Việt Nam từ một nước nghèo đói về lương thực phải vay nợ thế giới tới những năm 90 bỗng vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau T hái Lan . Các cây công nghiệp xuất khẩu như cà phê , tiêu điều , cao su , chè ... vẫn có thị trường ổn định . Năm 2001 vừa qua Việt Nam vươn lên đứng thứ 2 trên thế giới sau Brazil về xuất khẩu cà phê . Ngoài ra các loại thuỷ , hải sản dồi dào phục vụ cho công nghiệp chế biến thực phẩm cũng là một thế mạnh của Việt Nam . Hiện nay các mặt hàng hải sản chế biến , đông lạnh của Việt nam đã tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường Mỹ và Châu Âu .
2.5 Việt Nam còn có lợi thế của một nước đi sau .
Việt Nam tiến hành hội nhập kinh tế thế giới sau rất nhiều nước nên sẽ có cơ hội để rút kinh nghiệm học hỏi từ những thành công hay thất bại của các nước đi trước . Nếu biết tận dụng lợi thế so sánh này thì sự tụt hậu hiện nay có thể lại là một lợi thế tương đối để đi ngay vào công nghiệp hiện đại , đi vào xây dựng một xã hội văn minh hiện đại mà trong một số trường hợp có thể đi tắt đón đầu , không qua giai đoạn công nghiệp hoá cổ điển .Việc bứt lên hàng nhì của khu vực về phát triển bưu chính viễn thông , sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã cho thấy khả năng tận dụng lợi thế của những nước đi sau là hiện thực . Lợi thế của nước đi sau còn thể hiện ở chỗ chúng ta có thể tạo ra môi trường thông thoáng hơn để tiếp nhận vốn và chuyển giao công nghệ , mở rộng thị trường ra nước ngoài .
Với những lợi thế ấy Việt Nam đang từng bước bứt phá trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới để đạt được những thành tựu nhất định đáng khích lệ . Những thành công bước đầu của Việt nam càng khẳng định đường lối đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là đúng đắn , là điều tất yếu của sự phát triển kinh tế .
3. Kết quả bước đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới .
3.1 Tiến trình hội nhập của Việt Nam .
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới .
Điều này được thể hiện rõ qua sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức kinh tế khu vực và trên thế giới .
Từ ngày 25/7/1995 ta đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và từ ngày 1/11/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên của ASEAN bằng cách chính thức tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA) và hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của ASEAN (AFTA/CEPT) .Điều này đánh dấu sự mở đầu có tính chất đột phá trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam :về đối ngoại , tạo vị thế quốc tế mới ; về kinh tế ,tạo thị trường láng giềng ổn định tăng sự hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài . Tham gia vào ASEAN ta trở thành viên của một tổ chức khu vực gồm 10 nước thành viên có diện tích 4,5 triệu km2 với dân số khoảng 500 triệu người , với tổng sản phẩm quốc gia khoảng 737 tỉ USD và tổng buôn bán thương mại khoảng 720 tỉ USD Bằng việc tham gia vào AFTA /CEPT , Việt Nam sẽ phải tuân thủ thực hiện đầy đủ các quy định ,cam kết cơ bản và bắt buộc của hiệp định nhưng vẫn phải tìm những cách vận dụng phù hợp các quy định có tính linh hoạt của hiệp định để vừa bảo hộ một cách hợp lí , đồng thời nâng dần khả năng sản xuất cũng như cạnh tranh của các ngành sản xuất trong nước nhằm giảm tối đa những bất lợi của ta khi thực hiện các bước tham gia vào AFTA.
Ngày 15/6/1996 , ta đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998 đã trở thành viên chính thức của tổ chức này , một tổ chức hiện có 21 thành viên , trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển , đang phát triển và chuyển đổi . Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa và thuânj lợi hoá thương mại đầu tư , thương mại , hợp tác kinh tế kỹ thuật theo các nguyên tắc bình đẳng , cùng có lợi ,tự nguyện công khai và không phân biệt đối xử giữa các thành viên . Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc , do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm .
Tiếp đó tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác á-Âu (ASEM) . ASEM là cơ chế hợp tác liên khu vực Âu -á , thành lập năm 1996 , hiện có 26 nước thành viên ,gồm 15 nước Châu Âu , 10 nước Châu á .ASEM dự tính tập trung vào thúc đẩy hợp tác và mở cửa hợp tác thương mại với những nguyên tắc như APEC . Ta đã tham gia ASEM tích cực ngay từ buổi đầu với các mục tiêu là xúc tiến mở rộng thị trường thương mại , đầu tư hợp tác kinh tế , khoa học kỹ thuật trên cơ sở cùng có lợi .
Tháng 12/1994 , Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) tiền thân của tổ chức thương mại thế giới thế giới WTO và vào năm 1995 chính thức đề nghị gia nhập WTO . WTO là tổ chức thương mại quốc tế mang tính toàn cầu có mục đích cơ bản là thưong lượng để thiết lập các luật lệ chung bảo đảm thông thoáng cho thương mại cũng như cho các lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế khác , và một môi trường kinh doanh có thể dự đoán được , theo dõi việc thực hiện cam kết của các nước thành viên , bảo đảm tính công khai về chế độ thương mại và các luật l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21144.doc