Đề tài Chủ thể hợp đồng kinh tế trong quá trình phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế ở Việt Nam

MỤC LỤC

I. Quá trình phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế ở việt nam

1. Thời kỳ đầu xã hội chủ nghĩa ở miền bắc:

2. Sau đại hội lần VI Đảng cộng sản Việt N am (11/1986)

II. Chủ thể hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung

1. Đặc điểm, bản chất của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung

1.1. Bản chất, đặc điểm của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1954-1975:

1.2. Bản chất - đặc điển của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1975-1986:

2. Chủ thể của hợp đồng kinh tế

III. Chủ thể hợp đồng kinh tế chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế theo pháp lệnh về hợp đồng kinh tế 25/09/19899

1. Bản chất, đặc điểm của chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường:

2. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế

IV. Luật doanh nghiệp (2/06/1999) và những vấn đề đặt ra trong vấn đề chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế.

1. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong luật doanh nghiệp (12/06/1999).

2. Một số kiến nghị:

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ thể hợp đồng kinh tế trong quá trình phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, mọi ngành và mọi người tham gia vào việc thực hiện công tác này. Ngoài đặc điểm cơ bản trên, hợp đồng kinh tế trong cơ chế tập trung bao cấp còn có một số đặc điểm khác. Sự bình đẳng giữa các chủ thể là đặc điểm chung của mọi loại hợp đồng, nhưng trong điều kiện của xã hội chủ nghĩa nó mang một nội dung mới, sự bình đẳng này có tinh thần là bình đẳng giữa những người tuy có nhiệm vụ cụ thể khác nhau nhưng chung một mục đích cuối cùng phải bình đẳng trong sự hợp tác, tương trợ lẫn nhau. Các chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là tổ chức chứ không thể là một cá nhân với ý nghĩa là một cá thể, điều đó xuất phát từ cơ sở là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất, những người tham gia vào lưu thông, phân phối là những người chủ tư liệu sản xuất hay được giao quyền quản lý tài sản phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Các tổ chức xã hội chủ có thể có sự khác nhau về trình độ, hình thức sở hữu)quốc doanh, hợp tác xã, công ty hợp doanh…) có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh khác nhau và lợi ích riêng của họ cũng không giống nhau. Nhưng các tổ chức đó gặp nhau và xác lập quan hệ hợp đồng kinh tế với nhau trên cơ sở vì lợi ích chung của nhà nước, vì thế chúng đều được pháp luật nhà nước bảo vệ và duy trì sự bình đẳng, sự bình đẳng này vừa là điều kiện đảm bảo cho sự cân đối giữa các nghĩa vụ của các bên vừa là sự thể hiện tính cân đối giữa các hoạt động củak ế hoạch hoá nhà nước, vừa là điều kiện đảm bảo của mỗi đơn vị. Cũng vì những đặc điểm trên trong các hợp đồng kinh tế trong cơ chế tập trung bao cấp, nếu có các tranh chấp hoặc vi phạm của các chủ thể thì việc xử lý thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý kinh tế, nhưng trước hết do tự các bên thương lượng với nhau. Thủ tục truy cứu cũng như các hình thức trách nhiệm do các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng khi giải quyết các vi phạm chủ yếu nhằm vào lợi ích kinh tế của các tổ chức đã vi phạm và có lỗi. Tính chất bắt buộc của hợp đồng kinh tế cũng là một đặc điểm nổi bật của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tính bắt buộc này xuất phát từ chỗ hợp đồng kinh tế là công cụ thực hiện kế hoạch nhà nước mà kế hoạch nhà nước lại có tính pháp lệnh. Hợp đồng kinh tế tham gia vào tất cả các khâu kế hoạch hoá, những cam kết sơ bộ)gọi là hợp đồng kinh tế sơ bộ) là những căn cứ thực tế để xác định các chỉ tiêu khi đơn vị xây dựng kế hoạch chỉ có thể dựa trên các khả năng thực tế về mua bán vật tư, thiết bị, cung ứng nhiên liệu động, lực điện, điện,…và tiêu thụ sản phẩm thì kế hoạch mới có căn cứ chắc chắn. Nhất là thực tế trong thời kỳ này, một trong những phương châm mới của công tác kế hoạch hoá là mở rộng tính đân chủ của kế hoạch, phát huy tính độc lập, tự chủ của đơn vị nên bên cạnh việc nhà nước tập trung quản lý những mặt hàng quan trọng thì xu hướng thì xu hướng trong lưu thông là thu hẹp danh mục chỉ tiêu pháp lệnh và các chỉ tiêu mặt hàng nhà nước quản lý, còn lại hàng triệu mặt hàng nhà nước cho phép các đơn vị cơ sở có những quyền rộng rãi và linh hoạt hơn khi lập kế hoạch lưu thông. Kế hoạch toàn diện của một đơn vị gồm các chỉ tiêu pháp lệnh và các chỉ tiêu kế hoạch do xí nghiệp tự làm bằng nguyên liệu tự lo, chỉ có thể được thực hiện khi mà xây dựng nó đã có những cam kết sơ bộ với những cơ quan có liên quan, những hợp đồng kinh tế sơ bộ cũng chính là những căn cứ vững chắc để bảo vệ kế hoạch, chính trong quá trình bàn bạc đã ký kết những hợp đồng kinh tế sơ bộ, đơn vị cơ sở có thể nhận thấy trước những khó khăn, thuận lợi của quá trình thực hiện sau này và cũng qua đó phát hiện những mặt mất cân đối của kế hoạch, từ đó có những phương án bảo vệ, nếu cần có thể điều chỉnh kế hoạch. Ngoài những đặc điểm chung của hợp đồng kinh tế mà chúng ta đã phân tích ở trên, tuỳ vào từng điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội khác nhau mà hợp đồng kinh tế có những đặc điểm, bản chất và nội dung khác nhau. 1.1. Bản chất, đặc điểm của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1954-1975. Đầu năm 1960 khi công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sắp hoàn thành thì cơ cấu kinh tế có sự thay đổi, thành phần kinh tế tập thể đã được mở rộng qua phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, kinh tế tư bản tư doanh đã được thay thế bằng hình thức tư bản nhà nước dưới công ty hợp doanh. Vào thời điểm này, nhà nước ta đã xác định bước vào xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế được xác định chỉ còn tồn tại hai thành phần kinh tế chủ yếu đó là quốc doanh và tập thể, được tập trung vào kế hoạch hoá cao độ dưới sự quản lý của nhà nước. Do đó, điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế số 735/ttg ngày 10/04/1956 được coi là không thích hợp nữa. Trong điều kiện đó, nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế theo nghị định số 04/ttg ngày 04/01/1960 của Thủ tướng chính phủ, đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của pháp luật kinh tế ở nước ta. Về khái niệm hợp đồng kinh tế, bản điều lệ này đã đưa ra một khái niệm chung:”hợp đồng kinh tế nói trong điều lệ này là hợp đồng về sản xuất, về cung cấp và tiêu thụ hàng hoá, về vận tải, xây dựng, bao thầu…”(điều 1). Về nguyên tắc ký kết điều 2 đã quy định:”ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc trong quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan nhà nước”. Cơ sở ký kết hợp đồng kinh tế là chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh, cơ quan nhà nước chỉ được ký kết hợp đồng trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch nhà nước. Hợp đồng kinh tế chỉ được điều chỉnh hay huỷ bỏ khi được nhà nước điều chỉnh hay huỷ bỏ các chỉ tiêu pháp lệnh nhà nước, ngoài ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu gặp phải những trở ngại khách quan không tthể khắc phục được, hai bên ký kết hợp đồng có thể điều chỉnh hợp đồng trong phạm vi không được ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch nhà nước và được hội đồng trọng tài đồng ý(điều 4). Nghiên cứu bản điều lệ này ta thấy, bản thân hợp đồng kinh tế trở thành công cụ để thực hiện kế hoạch nhà nước của các xí nghiệp, cơ quan cho nên việc ký kết hợp đồng trở thành một nghĩa vụ, một kỷ luật bắt buộc, hợp đồng dần dần mất đi giá trị đích thực của nó. Chủ thể hợp đồng kinh tế bị hạn chế chỉ trong phạm vi các tổ chức kinh tế quốc doanh và các cơ quan nhà nước, rõ ràng hợp đồng kinh tế lúc này là một biện pháp để hình thức hoá quan hệ kế hoạch. Do quan niệm và cơ chế quản lý lúc đó chủ yếu theo quan hệ dọc chỉ huy từ trên xuống dưới, báo cáo từ dưới lên, hơn nữa nhà nước ta đang muốn thu hẹp, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, hợp đồng kinh tế dù được ký kết thể hiện sự phối hợp, hợp đồng giữa các bên nhưng lợi ích giữa các bên ít được quan tâm. Việc thực hiện đúng hợp đồng được coi là nghĩa vụ của hai bên đã ký đối nhà nước, đồng thời là trách nhiệm giã đôi bên. Chính do cơ chế kế hoạch hoá nên các đơn vị sản xuất kinh doanh theo kế hoạch nhà nước, lãi nộp ngân sách, lỗ xin trên, do vậy việc xử lý vi phạm hợp đồng và đặc biệt các biện pháp đảm bảo thi hành hợp đồng không được điều lệ này đề cập đến. 1.2. Bản chất - đặc điển của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn 1975-1986 Qua 15 năm thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế theo điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế dần đi vào nền nếp đã góp phần thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch nhà nước, cải tiến một bước kế hoạch hoá. Nhưng do cơ cấu của nền kinh tế tiếp tục có những biến đổi và nhằm đáp ứng yêu cầu mới của quản lý kinh tế, thực hiện nghị quyết trung ương lần thứ 20)khoá III đề ra là:"Xoá bỏ lối hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa", ngày 10-3-1975, Hội đồng chính phủ đã ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Bản điều lệ này đã đưa ra khái niệm:"hợp đồng kinh tế là công cụ pháp lý của nhà nước trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nó góp phần quan trọng trong việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, củng cố chế độ hạch toán kinh tế. Nó làm cho lợi ích của các đơn vị kinh tế cơ sở khớp với lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân, gắn liền công tác quản lý của nhà nước với sự tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế cơ sở. Nó xác lập và thắt chặt mối quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các bên có liên quan đến việc ký kết hợp đồng kinh tế và thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết, quy định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bên đối với nhau, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên ký kết chuẩn bị kế hoạch, xây dựng kế hoạch một cách vững chắc, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước với hiệu quả cao nhất“(điều1). Vẫn với quan điểm hướng nền kinh tế theo một kế hoạch thống nhất và coi hợp đồng kinh tế là công cụ để thực hiện kế hoạch nên bản điều lệ này đã đề ra nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế tại điều 2:"Ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật nhà nước". Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức kinh tế phải ký hợp đồng kinh tế trong mọi hoạt động kinh tế có liên quan với nhau. Tính bắt buộc đó là do tính pháp lệnh của nhà nước quy định. Nghiên cứu bản điều lệ hợp đồng ban hành kèm theo Nghị định số 54/CP ngày 10-3-1975 có thể đưa ra những nhận xét khái quát như sau: Các tổ chức phải ký kết hợp đồng kinh tế khi có chỉ tiêu pháp lệnh; chỉ tiêu pháp lệnh là cơ sở để ký kết hợp đồng kinh tế, hợp đồng không được thay đổi, huỷ bỏ theo ý chí của các bên, nó chỉ được thay đổi, huỷ bỏ khi chỉ tiêu bị thay đổi, huỷ bỏ. Cũng vì mang nặng tính tập trung hành chính nên bản điều lệ này đã không đề cập dến biện pháp bảo đảm của hợp đồng. Dù sao đây cũng là một khiếm khuyết của chế định này. Tính hành chính còn thể hiện trong quy định về cơ quan giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế có cả cơ quan quản lý cấp trên. Về mặt kỹ thuật lập pháp, chế định hợp đồng kinh tế được thể hiện khá rõ, khá chính xác bằng các quy đinh về nội dung hợp đồng, thủ tục ký kết và trách nhiệm thực hiện hợp đồng kinh tế. 2. Chủ thể hợp đồng kinh tế: Trong điều kiện của thời kỳ quá độ, tại nước nào cũng vậy, nền kinh tế có nhiều thành phần nên các quan hệ kinh tế rất phức tạp, đa dạng. ở nước ta trong giai đoạn này có 6 thành phần kinh tế và tất cả đều tham gia vào quá trình trao đổi. Trong đó chủ yếu là các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Những xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã và các cơ quan nhà nước, các đơn vị quân đội và một số tổ chức xã hội là chủ thể chính, thường thấy trong quan hệ hợp đồng kinh tế. Trong quá trình cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh, hai thành phần, công ty hợp doanh và tư bản tư doanh được phép kinh doanh taị Miền Nam cũng là những người tham gia vào quá trình lưu thông xã hội chủ nghĩa và cũng có mục đích phục vụ kế hoạch nhà nước. Như vậy, có thể coi cả 4 thành phần kinh tế trên đều là những chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, xoay quanh vấn đề này còn nhiều ý kiến chưa thống nhất, những tổ chức và cơ sở kinh tế như thế nào mới được tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế ? Trong thực tế hiện nay có những tổ chức, cơ sở quốc doanh hay tập thể ký những bản hợp đồng với tư nhân, người sản xuất cá thể, cũng có ý kiến cho đây cũng là những hợp đồng kinh tế, nhưng trong đó hàng loạt các vấn đề khác như: trách nhiệm khi vi phạm, vấn đề giám sát, kiểm tra, thực hiện hợp đồng lại không thể áp dụng nhưng quy định như đối với giữa các tổ chức với nhau Muốn giải quyết vấn đề có những chủ thể nào tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế thuộc lưu thông kinh tế của nước ta trong giai đoạn này, cần phải xuất phát từ những cơ sở nhất định.Trước hết cần thống nhất về các đặc điểm cơ bản của hợp đồng kinh tế xã hội chủ nghĩa như đã phân tích ở trên. Chỉ những quan hệ kinh tế nào trực tiếp phục vụ những quan hệ hợp đồng kinh tế cần nói tới ở đây. Đối với từng đơn vị cơ sở, các quan hệ đó nhằm giải quyết trực tiếp những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà kế hoạch nhà nước đã giao cho, đặc biệt là các chỉ tiêu pháp lệnh. Cũng cần nói thêm là: lưu thông ở đây là chỉ trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh chứ không bao gồm mọi lĩnh vực kinh tế –xã hội. Từ những cơ sở trên, đặt trong điều kiện cụ thể nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này có thể đi đến những quy kết về điều kiện của một chủ thể tham gia quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Muốn các chủ thể tham gia quan hệ với nhau theo ý chí của nhà nước, nhà nước có thể kiểm soát, hướng dẫn quan hệ này theo quỹ đạo kế hoạch của mình thì các chủ thể phải đạt những điều kiện theo pháp luật nhà nước quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi, được gọi là tư cách pháp nhân. khoa học pháp lý thừa nhận hoặc cho phép có một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh, có tài sản riêng, có quyền độc lập tương đối về tài sản và hoạt động với danh nghĩa riêng. Những chủ thể có đủ những điều kiện đó được xác lập độc lập về mặt pháp lý, có tư cách pháp nhân và được phép tham gia vào các quan hệ hợp đồng kinh tế, đó là những điều kiện chung, còn đối với từng chủ thể trong những thành phần kinh tế cụ thể, nhà nước có những quy định cụ thể, như thế thông thường các chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế là những tổ chức độc lập của kinh tế quốc doanh, hợp tác xã và công ty hợp doanh. Tuy nhiên, trong công cuộc cải tiến quản lý kinh tế và vấn đề cải tạo công thương nghiệp hợp tác hoá, trong giai đoạn này một tổ chức còn có nhiều biến đổi, nhiều tổ chức mới được hình thành, chưa được quy định rõ địa vị pháp lý cũng như tư cách chủ thể trong các mối quan hệ. ở khu vực kinh tế quốc doanh, nhiều liên hiệp xí nghiệp mới được thành lập, có liên hiệp thực hiện hạch toán độc lập, toàn diện nhưng có nơi chỉ là một cơ quan chỉ đạo chung, trong điều kiện cách mạng nước ta lúc đó, các tổ chức quân đội tham gia vào cá quan hệ kinh tế ngày càng nhiều, tư cách pháp nhân của chúng đang dần dần được hình thành và hoàn thiện. Thông thường thì đó là các đơn vị hạch toán độc lập, nhưng cũng có đơn vị là tổ chức hành chính sự nghiệp thường nhận thêm nghiên cứu triển khai khoa học kỹ thuật hoặc gia công một số sản phẩm. Trong khu vực kinh tế tập thể, có nhiều hinh thức hiệp tác sán xuất như tập đoàn sản xuất, hợp tác xã bậc thấp, sự hợp tác có khi chỉ từng việc, từng sản phẩm hay một vụ, từng thời gian hợp tác, từng khâu tiền vốn, lao động hoặc toàn diện đén cả phân phối, ăn chia… Tình hình này thường thấy tại các tỉnh phía nam, cũng tại đó có nhiều tư bản tư nhân với nguyên vật liệu và một số vốn đầu tư của nhà nước đã tiến hành sản xuất kinh doanh theo hướng kế hoạch và bán sản phẩm cho nhà nước. Những tư bản tư nhân được nhà nước cho phép hoạt độngk trong một số ngành, lĩnh vực và trong một thời gian nhất định, nó có tính chất như một biện pháp quản lý tạm thời. Những nét mới của tùnh hình trên đã tồn tại trong một khoảng thời gian dài sau đó, nên quan điểm về tư cách chủ thể đối với những tổ chức, cơ sở này vừa phải dựa trên nguyên lý chung về quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, lại vừa chiếu cố đến những điều kiện nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này, trong từng thời kỳ cụ thể, tuỳ vào sự phát triển của ba cuộc cách mạng mà trước hết là cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học- kỹ thuật mà điều kiện cụ thể của mỗi chủ tham gia quá trình lưu thông kinh tế cũng có sự thay đổi thích hợp. Nhưng những điều kiện chung đối với những cơ sở, tổ chức mới hình thành thì nên là: nếu là quan hệ trực tiếp sản xuất- kinh doanh thì chúng phải thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, nghĩa là về mặt năng lực hành vi nó có đủ khả năng dùng tài sản của mình để hoàn thành những nghĩa vụ tài sản mà theo các hợp đồng chúng tham gia. Điều này cần được xem xét cụ thể với từng loại cơ sở quốc doanh hay tập thể, tư nhân và mức độ chung giá trị hợp đồng ký kết, sở dĩ như vậy là vì theo quan điểm của pháp luật kinh tế, ngoài việc đảm bảo yếu tố kế hoạch, thể hiện ở tính hợp pháp, còn phải đặc biệt coi trọng yếu tố tài sản khi xem xét các quan hệ kinh tế, những tài sản thuộc quyền quản lý hay sở hữu của một đơn vị nói lên khả năng có thể đảm bảo cho các cam kết về thực hiện về trách nhiệm pháp lý về tài sản của chúng, một đơn vị có hoạch toán kinh tế độc lập thì mới được coi là có tài sản riêng, có quyền độc lập với những tài sản đó thì mới được mới đựoc tham gia vào các quan hệ hợp đồng kinh tế mà các quyền và nghĩa vụ luôn luôn mang nội dung tài sản. Cố nhiên là những đơn vị này khi có đủ những điều kiện về tài sản thì cũng phải còn đảm bảo các quy định về đăng ký kinh doanh, quản lý nhà nước mà pháp luật đã quy định, còn đối với những quan hệ nghiên cứu, triển khai khoa học- kỹ thuật, tuy có mục đích cuối cùng là phục vụ sản xuất kinh doanh, thường là của một bên và nặng về nghiên cứu thiết kế thì điều kiện được xem nhẹ hơn và cũng được xác định là chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh tế. Còn lại những cơ quan, tổ chức nào chỉ có vị chí chỉ đạo, quản lý hành chính- kinh tế…thì không thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế, thì cũng có thể là chủ thể của hợp đồng kinh tế khi quyền và nghĩa vụ của chúng cũng mang nội dung tài sản, trong đa số những quan hệ khác mà chúng tham gia thì lại với tư cách không phải là chủ thể hợp đồng kinh tế. Sự bàn bạc thoả thuận giữa các tổ chức xã hội chủ nghĩa để quản lý với nhau một bản hợp đồng kinh tế thực chất là sự hợp tác giữa các bộ phận của cùng một thể kinh tế thống nhất, có cùng mục đích chung là thực hiện kế hoạch nhà nước. Vì vậy, thẩm quyền của các chủ thể khong thể do tự họ quy định mà phải nằm trong khuân khổ mà nhà nước quy định, mức độ thẩm quyền của từng chủ thể tuỳ thuộc vào vị trí và nhiệm vụ kế hoạch của chúng, nói cách khác, quyền hạn, nhiệm vị và trách nhiệm của các chủ thể tronh các quan hệ hợp đồng ở mức độ cần thiết tương ứng cho sự thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch được nhà nước giao. Khi xác định quan hệ hợp đồng ở mức độ cần thiết tương ứng cho sự thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch được nhà nước giao cho, khi xác định quan hệ hựop đồng, các bên phải ý thức và đặt việc thực hiện những nhiệm vụ kế hoạch làm mục tiêu cao nhất. Xuất phát từ tính cân đối của kế hoạch nên quyền hạn và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng cũng có tính cân đối, trong quan hệ hợp đồng không bên nào có đặc quyền hay quyền dùng một ưu thế nào đó để gây khó khăn cho bên kia, vì làm như thế suy cho cùng người chịu thyệt hại không ai khác là nhà nước. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các quan hệ kinh tế mang nội dung mới về chất, trong điều kiện đó điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo nghị định 54/cp ngày 10/03/1975 không còn phù hợp nữa, nhà nước đã ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989, nghị định số 17/hđbt ngày 16/01/1990 và nhiều văn bản khác để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng theo quan điểm đỏi mới. đến ngày 10/05/1997 quốc hội đã thông qua luật thương mại mà trong đạo luật này, có nhiều quy định về một mảng hợp đồng kinh tế- đó là hợp đồng thương mại. Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu những quy định thực hành chủ yếu của nhà nước ta về hợp đồng kinh tế, đây là quy định đáp ứng được các yêu cầu của bước chuyển sang cơ chế thị trường, đánh dấu một bước phát triển mới của hợp đồng kinh tế nước ta. Sau bước chuyển này,nhà nước sẽ tạo một khung pháp lý tương đối ổn định cho các quan hệ hợp đồng kinh tế- thương mại rất đa dạng, phong phú trong thời gian sau. II- chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế theo pháp lệnh về hợp đồng kinh tế 25/09/1989: 1. Bản chất, đặc điểm của chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường: Chủ thể kinh tế là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế bình đẳng, tự nguyện thoả thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ đối với nhau, theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế và điều 1 Nghị định 17/HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể hợp đồng kinh tế là pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, thì trong đó có ít nhất một bên là pháp nhân. Thực ra khái niện pháp nhân và cá nhân là những khái niệm truyền thống, cơ bản được sử dụng trước hết là luật dân sự. Trước hết, pháp nhân là một khái niệm được dùng để ám chỉ một loại chủ thể pháp lý độc lập, để phân biệt với các chủ thể là con người)bao gồm cá nhân và tập thể người). Như vậy, pháp nhân là một thực thể trừu tượng, được hư cấu thể hiện tình trạng tách bạch về mặt tài sản của nó với tài sản còn lại của chủ sở hữu, người đã sáng tạo ra nó, trong kinh doanh người sáng tạo ra pháp nhân, hiểu theo nghĩa này là chủ sở hữu doanh nghiệp- người đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Nếu coi doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân nghĩa là toàn bộ vốn và tài sản mà nhà nước đã giao cho doanh nghiệp là của doanh nghiệp, chúng tồn tại tách bạch và độc lập về mặt pháp lý với toàn bộ tài sản khác thuộc sử hưũ toàn dân. vì lẽ đó khi thành lập lại các doanh nghiệp)theo nghị định 388/hđbt ngày 20/01/199) và khi thành lập mối doanh nghiệp nhà nước)theo luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20/04/1996) đều có thủ tục giao và nhận vốn. Cũng vì không có tài sản tách bạch nên trước đây các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của ta chưa bao giờ tồn tại thực sự là những pháp nhân. Trong trướng hợp là công ty)theo luật công ty ngày21/12/1990) điều này cũng có bản chất pháp lý như vậy, cụ thể khi thành lập công ty đối vốn, các thành viên góp đủ số vốn vào công ty và tồn tại tách bạch với phần còn lại thuộc sở hữu của thành viên của công ty mà không đưa vào vốn của công ty. Với tư cách thiết kế về pháp lý như vậy suy cho cùng chỉ nhằm mục đích là để các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hưởng trách nhiệm hữu hạn mà thôi, nói cách khác, pháp nhân không phải là khái niệm nhằm khẳng định tính độc lập về pháp lý của mọi chủ thể kinh doanh hay thương nhân. Theo lẽ đó, pháp luật nước ta)mà trước hết pháp luật kinh tế- dân sự) cũng như pháp luật của mọi quốc gia trên thế giới đều coi pháp nhân là một thực thể pháp lý: + Được thành lập hay thừa nhận mộy cách hợp pháp. Có tài sản riêng. Tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình bằng số tài sản đó. Là nguyên đơn hay bị đơn trước cơ quan tài phán. Bên cạnh các pháp nhân còn có một loại chủ thể pháp luật nữa, cũng là những thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ thể, song ở đó không có sự tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó với chủ sở hữu của nó. vì vậy, ở đây khi xem xét tính chất về chế độ trách nhiệm, về mặt tài sản trong kinh doanh thì chính thực thể pháp lý đó và cùng với chủ sở hữu của nó)các cá nhân và các tổ chức góp vốn) cùng liên đới chịu trách nhiệm v"hạn về các khoản nợ của thực thể pháp lý đó. Như vậy,"đứng ra chịu trách nhiệm"về mặt tài sản ở đây trên thực tế có thể là cá nhân hay thậm chí cả tổ chức, nhưng thực thể pháp lý đó được khoa học pháp lý truyền thống gọi chung là thể nhân mà không nhất thiết là cá nhân. 2. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế bình đẳng, tự nguyện, thoả thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế và điều 1 nghị định 17/HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể pháp lệnh hợp đồng kinh tế là pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, trong đó có ít nhất một bên là pháp nhân. cá nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp luật quy định là người đã được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh)đó là cá nhân kinh doanh nhỏ dưới vốn pháp định hay doannh nghiệp tư nhân). theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì chủ thể hợp đồng kinh tế một bên phải là pháp nhân còn bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh. Tất cả các chủ thể kinh tế khi ký kết hợp đồng kinh tế phải tuân theo các quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế, ngoài các chủ thể kể trên, theo quy định tại điều 42,43 pháp lệnh hợp đồng kinh tế những người làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân, hộ gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, tổ chức và cá nhân nước ngoài tại việt nam cũng phải áp dụng các quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ cần một đại diện để ký kết hợp đồng kinh tế) khoản 1 điều 5 pháp lệnh hợp đồng kinh tế). Nếu là pháp nhân thì đại diện phải hợp pháp của pháp nhân đó, đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và đang giữ chức vụ đó. người đại diện hợp pháp của pháp nhân chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi thẩm quyền đại diện do pháp luật hoặc điều lệ pháp nhân quy định, như vậy người đứng đầu pháp nhân là người đại diện đương nhiên theo pháp luật của pháp nhân. Nếu là các cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì người ký kết hợp đồng phải là người đứng tên giấy phép kinh doanh, được cấp giấy phép kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong tất cả các trường hợp, không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký vào hợp đồng)đây là điểm khác với bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo nghị định 54/CP ngày 10/03/1975). Trường hợp một bên là người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký kết hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc theo hợp đồng, nếu có nhiều người cùng tham làm thì người ký vào bản hợp đồng k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35124.doc
Tài liệu liên quan