LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA KIỂM TOÁN VIÊN 2
1. Khái niệm và vai trò của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên 2
2. Các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp 3
2.1. Tính độc lập 3
2.2. Tính liêm chính và tính khách quan 6
2.3. Các chuẩn mực về nghiệp vụ và năng lực 7
2.4. Trách nhiệm đối với khách hàng - tính bảo mật 9
2.5. Trách nhiệm đối với khách hàng - thù lao phụ thuộc 10
2.6. Trách nhiệm đối với đồng nghiệp 11
2.7. Trách nhiệm và thông lệ khác - hành vi làm mất tín nhiệm 11
2.8. Trách nhiệm và thông lệ khác - quảng cáo và các hình thức lôi kéo khách 10
2.9. Trách nhiệm và thông lệ khác - hoa hồng 12
2.10 Trách nhiệm và thông lệ khác - các công việc không phù hợp 13
2.11. Trách nhiệm và thông lệ khác - hình thức hành nghề và tên gọi 14
2.12. Sự bắt buộc 14
PHẦN II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CHUẨN MỰC CỦA KIỂM TOÁN VIÊN Ở VIỆT NAM 16
1. Nhận xét, đánh giá chung thực trạng của chuẩn mực đạo đức của kiểm toán viên hiện nay 16
1.1. Ưu điểm 16
1.2. Nhược điểm 17
2. Số lượng kiểm toán viên còn ít so với nhu cầu ở Việt Nam 18
3. Chất lượng đào tạo kiểm toán viên 20
4. Chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm toán 21
5.So sánh thực trạng kiểm toán ở Việt Nam với thế giới 23
PHẦN III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 25
1. Giải pháp 25
2. Kiến nghị 26
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
32 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 5925 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àm căn cứ hợp lý cho các kết luận hoặc kiến nghị liên quan với hợp đồng.
- Dự đoán: Hội viên không đựoc phép sử dụng tên của mình gắn cho các dự đoán nghiệp vụ kinh tế tương lai phát sinh theo cách mà có thể dẫn đến sự tin tưởng là ngưòi hội viên đó cam đoan khả năng có thể đạt được của dự đoán.
Nguyên tắc 202 – Các chuẩn mực kiểm toán
Một kiểm toán viên không được phép để tên của mình gắn liền với vác báo cáo tài chính theo cách ngụ ý là anh ta đang hành sự như một kiểm toán viên độc lập trừ phi anh ta tuân thủ theo các chuẩn mực kiểm toán đã được thừa nhận do Viện ban hành.
Nguyên tắc 203 – Các nguyên tắc kế toán
Một hội viên không được trình bày ý kiến hoặc khẳng định các báo cáo tài chính hoặc các số liệu tài chính khác của bất kỳ tổ chức nào là được trình bày phù hợp với các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận hoặc tuyên bố là anh ta không biết đến bất kỳ một sự sửa đổi quan trọng nào sẽ được thực hiện cho các số liệu đó để cho chúng phù hợp với các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận.
Nguyên tắc 204 – Các chuẩn mực nghiệp vụ khác
Một hội viên phải tuân thủ câc chuẩn mực nghiệp vụ khác được ban hành bởi các bộ phận do Quốc hội chỉ định xây dựng những chuẩn mực đó, và những chiều hướng khác với các chuẩn mực này phải được chính bản thân người không tuân thủ theo chúng biện minh.
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ thuật và những chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận và các quy định pháp luật hiện hành. Các chuẩn mực kiểm toán này quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm toán viên có nghĩa vụ duy trì cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. Kiểm toán viên cần phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán và luôn ý thức rằng có thể tồn tại những tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu của báo cáo tài chính như khi nhận được bản giải trình đó đã là đúng, mà phải tìm được những bằng chứng cần thiết để chứng minh cho những giải trình đó. Điều đó nói lên rằng tính thận trọng trong nghề nghiệp đúng mực chính là điều kiện cần có để xác định và kiến nghị đúng đắn những cơ hội đem lại hiệu quả quản lý và có khả năng thu lợi nhuận tốt hơn.
Tuy vậy, các kiểm toán viên trải qua nhiều giai đoạn trong quá trình phát triển nghề nghiệp. Họ có trình độ năng lực khác nhau do mỗi cá nhân có kiến thức, kỹ năng và kỷ luật cũng như bề dày kinh nghiệm khác nhau. Do đó cần phải lưu ý khi giao trách nhiệm kiểm toán cho kiểm toán viên.
2.4. Trách nhiệm đối với khách hàng – tính bảo mật.
Nguyên tắc 301 – Thông tin bảo mật của khách hàng: Hội viên không được tiết lộ bất kỳ thông tin bí mật nào thu được trong tiến trình công tác nghiệp vụ ngoại trừ khi có sự đồng ý của khách hàng.
Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá trình kiểm toán, không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép của người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
Trong tiến trình kiểm tra, các kiểm toán viên thu được một số lượng lớn thông tin bảo mật, gồm cả lương của các viên chức, quá trình định giá sản phẩm, các kế hoặch quảng cáo, số liệu chi phí sản phẩm. Nếu những thông tin này bị tiết lộ ra ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách hàng biết thì mối quan hệ giữa kiểm toán viên với Ban quản trị sẽ trở nên căng thẳng nghiêm trọng, thậm chí còn có thể là nguyên nhân làm hại đến công ty khách hàng.Hơn nữa, được tiếp cận với các bản tư liệu sẽ cho các nhân viên của công ty khách hàng một cơ hội để làm thay đổi thông tin trên các tư liệu đó. Vì thế, luôn luôn phải cẩn trọng để bảo vệ các tư liệu.
Kiểm toán viên chỉ có thể cung cấp tư liệu cho người khác khi được phép của công ty khách hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp các tư liệu đó được toà án triệu đòi hoặc được sử dụng như một bộ phận của chương trình xem xét chất lượng tự nguyện với các công ty kiểm toán khác thì sẽ không cần có sự cho phép. Nếu tư liệu bị triệu đòi, công ty khách hàng phải được thông báo ngay. Công ty khách hàng và luật sư hợp pháp của công ty có thể phản đối trát đòi này.
2.5. Trách nhiệm đối với khách hàng – Thù lao phụ thuộc.
Theo nguyên tắc 302- thù lao phụ thuộc: Các dịch vụ về nghiệp vụ không được bán hoặc cung cấp theo một sự thu xếp mà theo đó không có khoản thù lao nào được tính trừ phi đạt được một phát hiện cụ thể, hoặc ở đó thù lao phụ thuộc vào những phát hiện hoặc kết quả của những dịch vụ đó. Tuy vậy, thù lao của một hội viên có thể thay đổi tuỳ theo, thí dụ, tính phức tạp của dịch vụ cung cấp. Giả sử có một công ty kiểm toán hợp đồng với khách hàng là thù lao được tính là 4000 USD, nếu là một báo cáo chấp nhận hoàn toàn, nhưng chỉ là 2000 USD, nếu là một báo cáo chấp nhận có loại trừ.
Và thường thì công ty kiểm toán tính thù lao căn cứ trên số giờ làm việc. Các mức giá theo thời gian khác nhau được tính cho các trình độ khác nhau của nhân viên. Song trong những năm gần đây, các công ty kiểm toán đã tăng dần các cuộc đấu thầu hợp đồng dựa trên một căn cứ tính thù lao cố định mà không cần xem xét đến nhu cầu về thời gian phải bỏ ra.
Các khoản thù lao không được xem là phụ thuộc nếu chúng được quy định bởi toà án hay các tổ chức quyền lực khác hoặc, trong các vấn đề về thuế, nếu được xác định dựa trên các kết quả của các vụ kiện theo luật hoặc những phát hiện của các cơ quan nhà nước.
Như vậy, việc tính thù lao dựa trên kết quả của dịch vụ cung cấp là để giúp các kiểm toán viên giữ vững tính khách quan khi điều tra các cuộc kiểm toán hoặc khi cung cấp các dịch vụ về thuế hoặc tư vấn quản lý.
2.6. Trách nhiệm đối với đồng nghiệp.
Mối quan hệ tốt đẹp giữa các đồng nghiệp được AICPA thừa nhận là rất quan trọng. Cách mà những người trong cùng một nghề đối xử với nhau sẽ ảnh hưởng đến thái độ của xã hội đối với nghề nghiệp đó. Sự hỗ trợ lẫn nhau nên bao gồm việc cung cấp người trợ lý có nghiệp vụ chuyên môn cao trong các vấn đề có tính nghiệp vụ cho bạn hành nghề và sự hạn chế hợp lý trong việc thay thế các công ty kiểm toán hiện hữu ở các khách hàng hiện nay của họ.
Mỗi thành viên của Công ty là một phần thành tố làm nên năng lực của cả Công ty. Các kiểm toán viên phải gắn kết với nhau, tạo nên một khối năng lực thống nhất, không tách rời. Sự gắn kết ấy không chỉ thể hiện ở sự đoàn kết thuần tuý theo cách hiểu lâu nay mà còn thể hiện ở công việc, ở trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ở công tác quản lý. Có nghĩa rằng, trong nghiệp vụ chuyên môn tất cả phải có trách nhiệm, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần cùng học tập và cùng tiến bộ. Mỗi kiểm toán viên phải tự học và học hỏi lẫn nhau, đó là động lực, là trách nhiệm và quyền lợi của chính mình, của công ty.
2.7. Trách nhiệm và thông lệ khác – Hành vi làm mất tín nhiệm.
Hành vi làm mất tín nhiệm không được định nghĩa rõ ràng trong các nguyên tắc, các văn bản hướng dẫn, hoặc các quy định ( không có quy định nào về hành vi làm mất tín nhiệm ). Tuy nhiên, trong nguyên tắc 501 nói rõ hội viên không được phạm phải một hành vi làm mất tín nhiệm đối với nghề nghiệp.
Có ba văn bản hướng dẫn, nhưng ngoài văn bản đầu tiên, hai văn bản còn lại cũng rất mơ hồ. Ba văn bản hướng dẫn có thể được tóm lược như sau:
1. Giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không được đáp ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Thí dụ, giả sử Ban quản trị không trả thù lao cho công ty kiểm toán và các chủ chung vốn của công ty kiểm toán do đó từ chối trả lại sổ sách của khách hàng. Chủ chung vốn của công ty kiểm toán đã vi phạm nguyên tắc 501.
2. Một công ty kiểm toán không được phân biệt đối xử giữa các chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác hoặc quốc tịch.
3. Nếu một người hành sự đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan nhà nước, mà cơ quan này quy định các thể thức kiểm toán khác với GAAS , thì cả các thể thức của cơ quan nhà nước đó và GAAS đều phải được tuân thủ trừ phi báo cáo kiểm toán được diễn đạt bằng một cách khác.
Để hướng dẫn về những gì cấu thành một hành vi làm mất tín nhiệm, các văn bản dưới luật của AICPA cung cấp những hướng dẫn rõ ràng hơn là Bản Điều lệ đạo đức. Các văn bản dưới luật nói rõ rằng một hội viên trong AICPA sẽ bị khai trừ mà không cần nghe phán xét kết tội đối với bất kỳ sự vi phạm nào trong bốn loại vi phạm sau:
Sự phạm tội có thể bị phạt tù giam từ một năm trở lên.
Cố ý quên không điền vào bất kỳ bản khai thuế lợi tức nào mà kiểm toán viên, với tư cách là người nộp thuế cá nhân, được yêu cầu điền vào theo luật.
Nhân danh kiểm toán viên hoặc khách hàng điền một bản khai thuế lợi tức giả hoặc gian dối.
Cố tình giúp đỡ lập hoặc trình bày một bản khai thuế lợi tức giả hoặc gian dối của khách hàng.
Như vậy, trong trường hợp một người uống rượu quá say, hành động gây mất trật tự, hoặc những hành vi khác mà nhiều người xem là trái với tiêu chuẩn nghề nghiệp thì không bị coi là hành vi làm mất tín nhiệm.
2.8. Trách nhiệm và thông lệ khác – Quảng cáo và các hình thức lôi kéo khách.
Nguyên tắc 502: Hội viên không được tìm cách thu hút khách hàng bằng quảng cáo hoặc các hình thức lôi kéo khách theo cách sai trái, lừa dối hoặc bịp bợm. Sự lôi kéo khách bằng hành vi ép buộc, đánh lừa, hoặc quấy rầy đều bị nghiêm cấm.
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện khác nhau, như tạp chí và đài để thông báo các thông tin thú vị về các dịch vụ của công ty kiểm toán. Việc quảng cáo nhằm mục đích ký hợp đồng với khách hàng mới thay vì chấp nhận họ tự đến với công ty. Ví dụ như tổ chức chiêu đãi khách hàng tương lai để giải thích các dịch vụ của công ty kiểm toán, mở các hội thảo về những thay đổi của luật thuế hiện hành cho khách hàng tiềm tàng, và tờ quảng cáo trong những trang vàng của niên giám điện thoại.
Ngày nay, mọi hình thức quảng cáo mà không giả dối hoặc bịp bợm đều được chấp nhận. Sự thay đổi này trong các nguyên tắc về hành vi đạo đức tương tự như sự thay đổi trong các ngành nghề khác. Hiện nay, quảng cáo được chấp nhận ở hầu hết ngành nghề.
2.9. Trách nhiệm và thông lệ khác – Hoa hồng.
Nguyên tắc 503: Hội viên không được trả hoa hồng để có khách hàng, và cũng không được nhận hoa hồng cho việc chuyển cho khách hàng một kết quả hoặc dịch vụ của người khác. Nguyên tắc này không nghiêm cấm các khoản thanh toán đối với việc mua một dịch vụ kế toán hoặc thanh toán tiền hưu trí cho các cá nhân trước đây được thuê mướn trong thực tiễn công tác kiểm toán độc lập hoặc các khoản thanh toán cho người thừa kế của họ hoặc bất động sản của họ.
Nguyên tắc này nhằm ngăn ngừa sự quá khích trong lĩnh vực kiểm toán thông qua việc “ trả thù lao cho người tìm kiếm” đối với đội ngũ nhân viên, ngân hàng và những người khác để có thể giúp công ty mở rộng hoạt động của mình.
Nguyên tắc này cũng nhằm ngăn ngừa kiểm toán viên tính thêm ngoài dịch vụ đã thực hiện.
2.10. Trách nhiệm và thông lệ khác – Các công việc không phù hợp.
Nguyên tắc 504: Hội viên làm việc trong công ty kiểm toán công cộng không được đồng thời làm việc trong bất kỳ doanh nghiệp nào hoặc làm công việc nào mà có thể sinh ra mâu thuẫn về quyền lợi khi cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp.
Hiện tại vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về công việc không phù hợp và hầu như không có các quy định đạo đức.
2.11. Trách nhiệm và thông lệ khác – Hình thức hành nghề và tên gọi.
Nguyên tắc 505: Hội viên có thể hành nghề kiểm toán độc lập với tư cách là một chủ sở hữu hoặc một nhân viên, chỉ dưới hình thức sở hữu cá nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần chuyên ngành mà có đặc điểm phù hợp với các nghị quyết của Quốc hội.
Hội viên không được hành nghề với tên một công ty mà gồm cả tên hư danh, chỉ rõ nguyên nhân hoặc làm nhầm lẫn về hình thức tổ chức ( sở hữu cá nhân, công ty hợp danh hoặc công ty cổ phần ). Thí dụ tên “ công ty kiểm toán chất lượng” là vi phạm quy định. Tuy vậy, tên của một hoặc nhiều người chung vốn hoặc cổ đông có thể được ghi vào trong tên của công ty. Như tên công ty kiểm toán Johnson và Rogers, được chấp nhận nếu cả hai người chung vốn đó đều đã đủ phẩm chất để hành nghề với tư cách là các kiểm toán viên độc lập vào lúc công ty hợp danh được hình thành. Tương tự, người chung vốn còn lại sau khi những người chung vốn kia chết hoặc rút vốn có thể tiếp tục hành nghề dưới tên gọi của công ty hợp danh trong vòng 2 năm sau khi trở thành người hành nghề duy nhất.
2.12. Sự bắt buộc.
Không chấp hành các nguyên tắc đạo đức có thể dẫn đến việc bị khai trừ khỏi AICPA. Điều này tự bản thân nó không ngăn ngừa kiểm toán viên hành nghề kiểm toán độc lập. Nhưng nó nhất định là một hình phạt nặng về mặt xã hội.
Mỗi kiểm toán viên được cấp một giấy phép hành nghề. Khi có một sự vi phạm đáng kể quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng có thể dẫn đến việc mất bằng và giấy phép hành nghề kiểm toán viên. Mặc dù ít xảy ra, song điều này khai trừ người hành nghề khỏi ngành kiểm toán độc lập.
Vì vậy, tất cả các kiểm toán viên phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nêu trên.
PHẦN II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CHUẨN MỰC CỦA
KIỂM TOÁN VIÊN Ở VIỆT NAM.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG CỦA CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA KIỂM TOÁN VIÊN HIỆN NAY.
Trong một thời gian dài chúng ta quản lý nền kinh tế đất nước mà không có hệ thống kiểm toán nên các công ty, xí nghiệp, các tổ chức kế toán không biết nhờ ai, cơ quan nào có đầy đủ khả năng chuyên môn để kiểm tra kế toán hay hợp đồng nhằm giúp thực hiện tốt công tác kế toán của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán, thời gian gần đây nhà nước đã bắt đầu triển khai công tác kiểm toán. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, công tác kiểm toán cũng thể hiện những mặt hạn chế cần khắc phục.
1.1. Ưu điểm.
Hoạt động kiểm toán đang đi dần vào nề nếp và ngày càng có hiệu quả, trình độ của các kiểm toán viên ngày càng tiến bộ và chất lượng của cuộc kiểm toán ngày được nâng lên. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, ngành kiểm toán đã được công nhận và đáng tin cậy hơn bao giờ hết. Chính vì vậy nghề kiểm toán đòi hỏi một khung pháp lý với mức độ quyền lực cần thiết để hoạt động.
Trải qua 13 năm xây dựng và trưởng thành, đội ngũ cán bộ kiểm toán viên được tin cậy giao phó các nhiệm vụ mới mẻ nhưng rất nặng nề. Tuyệt đại bộ phận cán bộ kiểm toán viên đã chứng tỏ sự vững vàng về bản lĩnh chính trị, thường xuyên tu dưỡng đạo đức, lối sống, có phong cách dân chủ tập thể, có ý thức tổ chức kỷ luật, nói đi đôi với làm, đã có nhiều sự đóng góp vào sự nghiệp chung được đồng nghiệp tín nhiệm, được các đối tượng kiểm toán tin cậy, yêu mến. Hầu hết kiểm toán viên tuổi đời còn rất trẻ, có trình độ học vấn, có nhiệt tình tâm huyết với ngành, có tinh thần trách nhiệm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, có đồng chí đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở và chiến sĩ thi đua ngành.
1.2. Nhược điểm.
Hiện nay các chính sách, chế độ quản lý của nhà nước còn nhiều bất cập, các văn bản thay đổi liên tục và cách hướng dẫn thi hành không được cụ thể làm cho người đọc hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Mặt khác, một số kiểm toán viên thiếu vốn sống thực tiễn cũng chỉ do trình độ của các kiểm toán viên không đồng đều. Một số kiểm toán viên chưa am hiểu về các doanh nghiệp kể cả lĩnh vực tin học và ngoại ngữ cũng đang thiếu và yếu làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Chẳng hạn như khi kiểm toán một đơn vị hoạt động xuất nhập khẩu, nhiều hợp đồng, chứng từ bằng tiếng nước ngoài các kiểm toán viên không đọc được, hay một số doanh nghiệp áp dụng phần mềm tin học vào kế toán, mình không đủ trình độ để kiểm tra trên vi tính, mà yêu cầu họ in ra chỉ một vấn đề rất nhỏ đã là một khối lượng giấy rất lớn rồi, các kiểm toán viên không có thời gian để có thể đọc được hết dẫn đến rủi ro của các cuộc kiểm toán rất cao.
Bên cạnh đó, một số kiểm toán viên đến với nghề vì mục đích vật chất tầm thường, chỉ vì sẵn có việc làm và được ở lại thành phố, thị xã... Một khi họ vào nghề với động cơ cá nhân thì khó lòng yêu say nghề thực sự, từ đó bắt đầu nảy sinh tư tưởng không lành mạnh, nhũng nhiễu, ưu sách, một số tác phong làm việc kém.
Hiện nay, công tác kiểm toán vẫn chưa được thực hiện một cách rộng rãi, có hệ thống với những hướng dẫn cụ thể bằng pháp luật. Để giải quyết tình hình này, việc tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng kiểm toán viên được coi là một trong những hướng khả quan. Để xây dựng được chương trình đào tạo, bồi dưỡng thì điều quan trọng không thể thiếu được là phải xác định rõ mục tiêu đào tạo. Đối với cơ quan kiểm toán, tất cả các lĩnh vực hoạt động đều còn mới mẻ đòi hỏi những chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, đồng thời phải thành thạo trong nghiệp vụ để tổ chức các nghiệp vụ có hiệu quả. Có thể nói đây là một lĩnh vực đòi hỏi sự nghiêm ngặt về chất lượng, về quy phạm và hết sức khoa học. Mặt khác, xét về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu của công tác kiểm toán còn có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của sự phát triển sự nghiệp kiểm toán trong thời kỳ mới.
2. SỐ LƯỢNG KIỂM TOÁN VIÊN CÒN ÍT SO VỚI NHU CẦU Ở VIỆT NAM.
Về số lượng kiểm toán viên, có thể nói đây là sự bất cập lớn trong ngành kiểm toán ở Việt Nam. Việt Nam đang trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi, mở rộng liên doanh trong nước và nước ngoài, thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nên nhu cầu kiểm toán là rất lớn. Tuy nhiên, kiểm toán là một nghề mới xuất hiện ở Việt Nam nên khả năng đáp ứng những nhu cầu này là quá nhỏ.
2.1. Kiểm toán nhà nước.
Theo nghị định 70/CP của Chính phủ ngày 11/7/1994, Kiểm toán Nhà nước đã được thành lập. Năm 1999 là năm thứ 5 đi vào hoạt động, đánh dấu giai đoạn đầu ra đời và phát triển của kiểm toán nhà nước, tạo nên những tiền đề cơ bản để bước sang giai đoạn phát triển mới khẳng định vị trí trong hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát kinh tế tài chính vĩ mô của nhà nước, giúp Đảng và Nhà nước tăng cường hiệu lực hiệu quả điều hành và quản lý nền kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN. Kiểm toán nhà nước Việt Nam được tổ chức thành hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương.
*ở Trung ương có 4 đơn vị kiểm toán chuyên ngành:
- Kiểm toán ngân sách nhà nước
-Kiểm toán đầu tư và dự án
- Kiểm toán chương trình đặc biệt
- Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước
+ Một văn phòng
+ Một trung tâm khoa học và xây dựng cơ bản
+ Một phòng thanh tra và kiểm tra thuộc bộ kiểm toán nhà nước
*Kiểm toán khu vực gồm:
- Kiểm toán khu vực phía Bắc
- Kiểm toán khu vực phía Nam
- Kiểm toán khu vực miền Trung
- Kiểm toán khu vực miền Tây Nam Bộ
Bộ máy tổ chức kiểm toán nhà nước được hình thành, củng cố và hoàn thiện dần qua từng năm theo phương châm bảo đảm sự thống nhất và phù hợp với chức năng nhiệm vụ theo quy định của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Hiện tại, kiểm toán nhà nước có gần 600 cán bộ công nhân viên trong đó có hơn 400 người là kiểm toán viên. Kiểm toán nhà nước phải thực hiện kiểm toán tại các cơ quan, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước trên hầu hết các lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực dự trữ quốc gia, an ninh quốc phòng, kinh tế Đảng. Với số lượng kiểm toán viên như vậy thì đội ngũ kiểm toán viên nhà nước còn thiếu rất nhiều. Tuy vậy, cũng cần phải thừa nhận rằng, kết quả kiểm toán đã góp phần đáng kể vào việc lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý các hoạt động kinh tế – tài chính.
2.2. Kiểm toán độc lập.
Năm 1991 công ty kiểm toán độc lập đầu tiên đã được thành lập ở Việt Nam – công ty VACO - đến năm 1995 đã lên tới 13 công ty kiểm toán độc lập, trong đó có 4 công ty 100% vốn nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam mới có khoảng 1400 cán bộ kiểm toán trong đó gần 600 cán bộ kiểm toán nhà nước và 800 cán bộ kiểm toán độc lập. Trong khi đó ngành kiểm toán ở Pháp có khoảng 1000 cán bộ, ở Trung Quốc mới chỉ xuất hiện ít năm nay nhưng đội ngũ của họ đã lên tới 78000. Để thực hiện được mục tiêu kiểm toán 6000 doanh nghiệp nhà nước, hàng vạn doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì con số 1400 kiểm toán viên chỉ là như muối bỏ bể.
2.3. Kiểm toán nội bộ.
ở nước ta, kiểm toán nội bộ thực hiện gắn liền với kế toán và quản lý, chưa tách ra thành một hệ thống riêng với những quá trình và phương pháp kỹ thuật riêng. Do đó chưa có sự quan tâm đào tạo cho đội ngũ kiểm toán nội bộ này.
3. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO KIỂM TOÁN VIÊN.
Chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên hiện nay còn có nhiều bất cập so với những yêu cầu chất lượng cao có tính chuẩn mực về kiểm toán. Do mới được thành lập nên phần lớn cán bộ kiểm toán hiện nay đều được chuyển từ lĩnh vực khác sang hoặc có tuổi đời còn trẻ. Vì vậy, điều tất yếu khó tránh khỏi là vốn hiểu biết về nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán cùng những kinh nghiệm công tác của họ về lĩnh vực này còn thiếu. Điều này không chỉ đúng với đội ngũ kiểm toán viên trong nước mà còn đúng với các nhân viên kiểm toán quốc tế đang làm việc ở Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì nếu ngoại trừ trình độ chuyên môn và tay nghề kiểm toán thì vốn hiểu biết về Việt Nam như pháp luật, các văn bản chính sách, chế độ... của các kiểm toán viên nước ngoài này còn yếu. Điều này đòi hỏi nhu cầu bồi dưỡng và đào tạo không chỉ đặt ra với kiểm toán viên trong nước mà còn đối với cả kiểm toán viên nước ngoài.
Những năm qua, đội ngũ các kiểm toán viên có nhiệt tình tâm huyết với ngành, có tinh thần trách nhiệm phấn đấu vượt qua khó khăn thực hiện hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán các kiểm toán viên còn lúng túng, còn sai sót nhầm lẫn. Mặt khác, tác động của bệnh quan liêu, tham nhũng cũng ảnh hưởng đến kiểm toán viên. Khi tiếp xúc với đối tượng kiểm toán còn có hiện tượng nhũng nhiễu, hạch sách, hăm doạ... vi phạm pháp luật của Nhà nước, quy chế của cơ quan gây lãng phí, thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Chất lượng chuyên môn của đội ngũ kiểm toán viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, một phần do đào tạo bồi dưỡng của chúng ta như hiện nay còn thiếu mảng kiến thức thực tế về các báo cáo chuyên đề thực tiễn kiểm toán. Quá trình đào tạo chưa đi sâu tìm tòi đúc rút bài học kinh nghiệm từ những kết quả và công việc đã làm được và những tồn tại yếu kém sau một cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách ở một cấp, báo cáo tài chính ở một cơ quan, ở một đơn vị sự nghiệp, một đơn vị kinh tế nhà nước và một đoàn thể, một tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. Để các hoạt động có hiệu quả đều phải được hướng dẫn bởi tri thức khoa học và kinh nghiệm. Những tri thức, kinh nghiệm được hình thành có ý thức trong quá trình học tập, hoạt động nghiêm túc lâu dài mới có được.
Mặt khác, sự ra đời và phát triển nhanh chóng cả về quy mô và loại hình hoạt động của hệ thống kiểm toán, công tác bồi dưỡng và đào tạo kiểm toán trở thành mối quan tâm của nhiều trường đại học và các tổ chức đào tạo. Sự quan tâm sốt sắng đến sự nghiệp đào tạo kiểm toán viên là điều đáng mừng. Song sự thiếu thống nhất về chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo và đào tạo theo kiểu “ trăm hoa đua nở” như hiện nay là điều đáng lo. Một điều đáng nói nữa là đội ngũ giáo viên kiểm toán cũng còn rất thiếu. Chính vì những nguyên nhân này mà nhu cầu cấp bách đối với Việt Nam hiện nay là kịp thời đẩy mạnh và đưa hoạt động bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ kiểm toán viên bằng một chương trình trọng điểm trong chiến lược phát triển của ngành kiểm toán Việt Nam.
4. CHƯƠNG TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ KIỂM TOÁN.
Các trường đại học chính quy ở Việt Nam hiện nay tham gia đào tạo kiểm toán còn ít. Mỗi khoá các trường chỉ đào tạo khoảng 70 – 150 kiểm toán viên. Ngoài ra công ty kiểm toán VACO cũng tổ chức các lớp bồi dưỡng kiểm toán viên, thêm vào đó là lớp bồi dưỡng và thi cấp chứng chỉ của Bộ Tài chính và còn có các dự án đào tạo kiểm toán như dự án ADB và ODA của cộng hoà liên bang Đức. Tính đến năm 1998 thì bộ tài chính đã tổ chức và thi cấp chứng chỉ cho khoảng 100 kiểm toán viên độc lập, kiểm toán viên nhà nước. Đã có một số kiểm toán viên nhà nước đi đào tạo ở cộng hoà liên bang Đức theo dự án ADB và ODA.
Một vấn đề tồn tại nữa là đội ngũ giảng viên kiểm toán. Để đào tạo được các kiểm toán viên có trình độ cũng như đầy đủ các phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp thì cần phải có một đội ngũ giảng viên đáp ứng được yêu cầu đặt ra của đào tạo. Trong thực tế nước ta hiện nay đội ngũ giảng viên còn thiếu và chưa đủ mạnh, về chất lượng họ chưa được đào tạo một cách bài bản. Hơn nữa, chưa có sự thống nhất về chương trình đào tạo nên vẫn xảy ra tình trạng chưa thống nhất chương trình giảng dạy giữa các trường, các giảng viên. Thêm vào đó là tình trạng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo thiếu, nguồn tài liệu nghèo nàn, chủ yếu là các tài liệu dịch của nước ngoài và các hướng dẫn của Bộ Tài chính. Điều này dẫn đến tình trạng sinh viên học tập một cách thụ động, khó xác định phương hướng. Với mô hình đào tạo như vậy thì sau khi ra trường, sinh viên kiểm toán sẽ như thế nào?
Việt Nam chuyển đổi san
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K1276.doc