MỤC LỤC Trang
PHẦN I: TÌNH HÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU THỦY SẢN CỬU LONG AN GIANG.
I. Tài sản trong công ty.
II. Con người trong công ty.
III. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty.
PHẦN II: NHẬN DẠNG RỦI RO VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO.
I. I. Các loại rủi ro liên quan đến tài sản
II. II. Các rủi ro liên quan đến con người
III.Các rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh
PHẦN III: LỰA CHỌN CÔNG CỤ KIỂM SOÁT RỦI RO
PHẦN IV: LỰA CHỌN CÔNG CỤ TÀI TRỢ
I. Lập quỹ dự phòng
II. Bảo hiểm.
PHẦN V: LỰA CHỌN DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM.
2
3
5
6
9
10
15
17
18
21
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5150 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chương trình quản trị rủi ro cho công ty cổ phần xuất nhập khẩu thuỷ sản cửu long An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường hợp cụ thể như sau:
Ví dụ như với một hợp đồng xuất khẩu thủy sản cho công ty Singapore Food Industries Limited với giá trị hợp đồng là 157.500$ ( tỷ giá là 16.110VNĐ/$). Công ty đã ký kết hợp đồng với đội tàu Bến Nghé để vận chuyển sang Singapore. Giả sử trong quá trình vận chuyển tàu đâm va phải đá ngầm làm đắm tàu, số hàng trên tàu bị hư hỏng toàn bộ. Công ty phải chịu thiệt hại toàn bộ số hàng trên, ước tính là 2.537.325.000VNĐ, chưa kể các chi phí liên quan khác.
Trong chương trình quản trị rủi ro, chúng tôi chỉ đề cập đến các loại rủi ro thật sự quan trọng, mà các tổn thất tiềm năng cho các loại tài sản đủ lớn để đe dọa đến hoạt động kinh doanh hay sự tồn tại của doanh nghiệp. Cụ thể được phân tích qua bảng dưới đây:
Bảng phân tích rủi ro
Đơn vị tính: đồng
Tổn thất lớn nhất có thể
Các loại tổn thất
Giá trị tiền mặt thực tế
Chi phí thay mới
Tổn thất về tài sản:
- Nhà cửa, vật kiến trúc
- Nguyên vật liệu
- Thành phẩm
- Máy móc, thiết bị
- Thiết bị, dụng cụ quản lý
- Phương tiện vận tải
Xe công vụ (1 xe)
Xe tải chở hàng (6 xe)
- Tiền mặt
- Tiền gửi ngân hàng
17.119.000.000
222.871.000
24.025.719.000
22.312.000.000
609.922.000
571.496.000
1.143.000.000
246.709.000
966.934.000
19.032.000.000
222.871.000
24.025.719.000
28.274.000.000
861.209.000
750.000.000
1.850.000.000
246.709.000
966.934.000
Tổn thất trong quá trình vận chuyển
Tùy thuộc vào giá trị của mỗi chuyến hàng trong từng hợp đồng vận chuyển
II. Các rủi ro liên quan đến con người
Do đặc điểm của sản xuất chế biển thủy sản, người lao động làm việc tại bộ phận thành phẩm và bộ phận kho được chia làm 02ca/ngày, mỗi ca làm việc 8 giờ. Đối với khối văn phòng và các bộ phận khác chỉ làm việc 01ca/ngày. Công ty tổ chức làm việc từ thứ hai đến thứ bảy, nghỉ ngày chủ nhật. Với những bộ phận làm việc khác nhau thì mức độ rủi ro gặp phải cũng khác nhau.
Đối với lao động tại bộ phận thành phẩm sản xuất sản phẩm đông lạnh, do phải thường xuyên tiếp xúc với môi trường ẩm ướt nên họ có nguy cơ dễ mắc các bệnh nghề nghiệp như bệnh về đường hô hấp, da liễu… Mặc dù những lao động thủ công này doanh nghiệp có thể dễ dàng tìm mới, nhưng việc một lao động nghỉ việc (vì bất cứ lý do gì) cũng ít nhiều gây ra những ảnh hưởng cho công ty. Ngoài lợi nhuân doanh nghiệp thu được bị mất đi, doanh nghiệp sẽ mất thêm một khoản chi phí để tìm kiếm và đào tạo người thay thế.
Đối với những người phụ trách chuyên môn kỹ thuật, họ lại có nguy cơ gặp rủi ro trong quá trình sản xuất như tai nạn lao động. Giả sử trường hợp trưởng phòng kỹ thuật (chuyên trách về máy móc, dây chuyền sản xuất) nghỉ việc sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của công ty, ngoài ra công ty sẽ phải chịu thêm phần chi phí trong quá trình tìm kiếm và đào tạo người thay thế vị trí đó. .
Đối với cán bộ chủ chốt, bao gồm các thành viên trong HĐQT và BGĐ, khi họ chuyển đổi công tác, họ sẽ gây thiệt hại cho công ty trên các mặt: gián đoạn hoạt động, chi phí tìm mới, mất bạn hàng, và các thiệt hại khác… trong đó thiệt hai do mất khách hàng là rất đáng được quan tâm bởi với hầu hết các hợp đồng của công ty đều có giá trị trên 1 tỷ đồng. Do đó, thiệt hại từ việc mất bạn hàng là một trong những thiệt hại rất lớn của công ty.
Tổng GĐ, Phó Tổng GĐ điều hành và Phó Tổng GĐ kinh doanh là những cán bộ chủ chốt của công ty có trách nhiệm quản lý và điều hành mọi hoạt đông của công ty. Khi những người này không may bi tai nạn ốm đau ,bệnh tật phải nghỉ việc dù với thời gian ngắn hay dài cũng đều gây ra cho công ty những thiệt hại nhất định. Chẳng hạn như nếu Phó Tổng GĐ kinh doanh vì một lý do nào đó qua đời chắc chắn sẽ làm xáo trộn hoạt động của công ty bởi Phó Tổng GĐ có nhiệm vụ phụ trách điều hành hoạt động kinh doanh của công ty như xác định chiến lươc kinh doanh; kiểm tra, đánh giá hiệu quả của chiến lược kinh doanh; phê duyệt các kế hoạch đặt hàng và giao hàng để nhà máy sản xuất thực hiện, quản lý thưc hiên các dự án mới. Để bù đắp chỗ trống này, công ty phải bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ để tìm kiếm người thay thế, đồng thời công ty cũng có thể mất đi những hợp đồng kinh tế có thể ký kết được nhờ các mối quan hệ của Phó Tổng GĐ tiền nhiệm. Trong trường hợp Phó Tổng GĐ kinh doanh nghỉ việc để tìm chỗ làm khác thích hợp hơn, họ có thể mang theo những bí mât kinh doanh của công ty và tiết lộ cho đối thủ cạnh tranh. Hậu quả của điều này có thể gây khó khăn cho hoạt động của công ty, thậm chí dẫn đến sự phá sản. Tất cả những phân tích trên cho thấy những cán bộ chủ chốt có một vai trò rất quan trọng và công ty cần có những giải pháp để giữ “chân” họ.
Theo chúng tôi, người mà công ty cần quan tâm ưu đãi chính là những nhân viên thuộc phòng công nghệ (gồm 3 bộ phận chức năng: bộ phận QC, bộ phận kiểm nghiệm và bộ phận ISO, HACCP) . Do đặc điểm hoạt động của công ty là chế biến và xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản, những sản phẩm mà yêu cầu để đảm bảo kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm thường rất cao, đặc biệt khi bạn hàng chủ yếu là Nhật Bản và Hoa Kỳ, UAE. Nếu trong quá trình sản xuất không đảm bảo được các yêu cầu này thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Bạn hàng có thể từ chối nhận hàng và công ty phải chịu toàn bộ chi phí của lô hàng, thậm chí còn phải chịu bồi thường do không thực hiện đúng những cam kết trong hợp đồng, xa hơn là đối tác có thể chấm dứt quan hệ kinh doanh, điều mà không doanh nghiệp nào không muốn. Do đó có thể nói những nhân viên thuộc phòng công nghệ có vai trò lớn quyết định sự thành công của công ty. Những nhân viên này phải là những người có trình độ chuyên môn cao và có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Khi những người này gặp rủi ro công ty phải bỏ chi phí tìm kiếm người thay thế, đào tạo cho họ làm quen với công việc…
Các rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh
1. Rủi ro về nguồn nguyên, vật liệu
Trong quá trình sản xuất ngoài sử dụng nguyên liệu chính là cá tra, Công ty còn sử dụng các một số phụ liệu khác để đóng gói sản phẩm như: Thùng carton, bao bì PE, PA ..., cụ thể:
- Cá nguyên liệu chủ yếu được Công ty thu mua từ các hộ gia đình nuôi cá tra thuộc địa bàn các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ...
- Thùng carton, bao bì PE, PA... chủ yếu được nhập từ các công ty trong nước.
Nguồn nguyên liệu chính của Công ty chủ yếu là cá tra được thu mua từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Trong vài năm trở lại đây, diện tích nuôi cá tra và sản lượng cá tra thu hoạch tại các tỉnh này không ngừng tăng cao. Theo Bộ Thủy sản, diện tích nuôi cá tra, ba sa ở Đồng bằng sông Cửu Long đến cuối năm 2006 đã trên 5.000ha. Từ đầu năm 2007 đến nay, diện tích ao cá đào mới tại các tỉnh trong vùng tăng lên thêm gần 2.000 ha, trong đó nhiều nhất là An Giang, Ðồng Tháp.
Cũng theo Bộ Thuỷ Sản, năm 2005 sản lượng cá tra sau thu hoạch ở khu vực các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt khoảng 373 nghìn tấn, đến năm 2006 sản lượng tăng đột biến lên 825 nghìn tấn (tăng tới 2,2 lần so với năm trước đó), trong đó An Giang và Ðồng Tháp là hai tỉnh dẫn đầu về sản lượng cá tra nuôi, đạt gần 400 nghìn tấn.
Như vậy, việc nhà máy Công ty nằm trong vùng nguyên liệu cá tra là tỉnh An giang nói riêng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung là một lợi thế rất lớn, do đó nguồn cung ứng nguyên liệu cá tra của Công ty rất ổn định. Tuy nhiên trước sự thay đổi và biến động của nguồn nguyên liệu cũng gây một số khó khăn cho công ty, ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của công ty. Về nguồn nguyên liệu có các rủi ro chính sau:
Rủi ro từ nguồn cung cấp nguyên liệu: Nguồn nguyên liệu chính của công ty chủ yếu là cá tra được thu mua từ các tỉnh đồng bằng sông cửu Long. Hiện nay diện tích nuôi cá tra, ba sa không ngừng được tăng lên tuy nhiên nhà nước vẫn chưa có chiến lược quy hoạch tổng thể nghề nuôi và chế biến cá tra, ba sa ở đồng bằng sông Cửu Long. Sự tăng lên số lượng hộ nuôi cá không theo quy hoạch rất dễ dẫn đến ô nhiễm nguồn nước làm giảm sản lượng cá. Mặt khác, những yếu tố khách quan về thiên tai bão lụt cũng ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu cung ứng.
Rủi ro trong quá trình bảo quản nguyên liệu: trong quá trình bảo quản nguyên liệu trong kho công ty có thể gặp phải các rủi ro như cháy, nổ làm giảm lượng nguyên liệu đưa vào chế biến.
Rủi ro về giá nguyên liệu: Các công ty luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh thu mua nguyên liệu từ các đơn vị khác. Sự biến động về nguồn nguyên liệu ắt hẳn sẽ gây ra sự tăng giá nguyên liệu và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động SXKD của Công ty nếu Công ty không có chính sách dự trữ hợp lý. Thực tế do cá tra fillet thành phẩm có thể bảo quản trong thời gian dài mà không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng nên hoạt động sản xuất chế biến có thể tách biệt với hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời tuỳ từng thời điểm giá xuất khẩu của công ty luôn được điều chỉnh phù hợp theo biến động giá nguyên vật liệu đầu vào nên nhìn chung biến động giá cả thị trường nguyên vật liệu đầu vào cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty song không đáng kể.
Rủi ro về chất lượng nguyên liệu: Trong quá trình nuôi trồng thuỷ sản do sự gia tăng nhanh số hộ dân nuôi trồng cá một cách không theo quy hoạch trong khi môi trường nước không được bảo vệ có thể dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng đến chất lượng cá nuôi. Mặt khác các hộ nuôi trồng luôn muốn tăng lợi nhuận của họ lên nên đã cho nhiều loại khoáng chất, kháng sinh trong quá trình nuôi. Việc sử dụng khoáng chất, kháng sinh một cách không khoa học và hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng cá nuôi không đủ các tiêu chuẩn để đảm bảo an toàn thực phẩm và các yêu cấu của thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu.
Nếu doanh nghiệp không kiểm soát được chất lượng nguyên liệu đầu cào cung ứng thì sẽ phải đối mặt với những thiệt hại rất lớn mà quan trọng nhất đó chính là uy tín, danh tiếng của công ty tên thị trường trong nước và quốc tế.
2. Rủi ro trong quy trình chế biến nguyên liệu
Quy trình chế biến là khâu quan trọng, mang tính quyết định đến chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong quy trình sản xuât doanh nghiệp có thể gặp phải các rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm như:
Môi trường tiếp xúc xung quanh bao gồm:
- Nước sử dụng trong chế biến sản phẩm, làm vệ sinh các bề mặt tiếp xúc với sản phẩm có thể bị nhiễm vi sinh vật.
- Nước đá tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm không đảm bảo chất lượng
- Các bề mặt tiếp xúc với sản phẩm như: Bao tay, yếm, ủng và dụng cụ sản xuất: thau, rổ, dao, thớt, liếc, bàn, bồn chứa, thùng rửa, khuôn, cân, PE xếp khuôn… và các bề mặt tiếp xúc gián tiếp với sản phẩm như trần, tường, nền nhà, đèn, cửa kính, các máy móc thiết bị, cống rãnh…
- Lây nhiễm chéo từ các vật thể mất vệ sinh sang thực phẩm, công nhân ở khu vực không sạch sang khu vực sạch, vật liệu bao gói, các bề mặt tiếp xúc với thực phẩm bao gồm: dụng cụ, bao tay, bảo hộ lao động, môi trường không sạch sang môi trường sạch… và từ động vật gây hại sang thực phẩm
- Vật liệu chứa đựng, bao gói hàng thuỷ sản như: thùng carton, bao bì PE, PA
- Sức khoẻ công nhân có thể là nguồn lây nhiễm vi sinh vật cho thực phẩm, vật liệu bao gói và bề mặt tiếp xúc thực phẩm
- Động vật gây hại và côn trùng trong phân xưởng sản xuất, gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
- Chất thải làm ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường trong phân xưởng sản xuất, gây nhiễm cho sản phẩm
- Vệ sinh cá nhân của công nhân tham gia trực tiếp trong phân xưởng sản xuất.
Nhiệt độ: nhiệt độ trong phân xưởng sản xuất tăng lên ngoài phạm vi cho phép (20 ¸ 240C) do sự cố về điện, về máy móc thiết bị hay nhiệt độ bên ngoài phân xưởng quá cao
Máy móc ngừng hoạt động: như vậy sẽ không đảm bảo công suất, làm gián đoạn quy trình sản x ất và không đảm bảo chất lượng nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời.
3. Rủi ro về đối tác và thị trường
Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Cửu Long An Giang là một trong những công ty có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trong năm 2006 Công ty là một trong 15 Công ty có kim ngạch xuất khẩu cá tra lớn nhất của Việt Nam, sang năm 2007 vị thế của Công ty so với các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực đã có thay đổi đáng kể, Công ty đã vượt lên đứng hàng thứ 5 trong các Công ty có kim ngạch xuất xuất khẩu cá tra lớn nhất của Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam: Năm 2006, Nhật Bản chiếm 25,1%. EU chiếm 21,6%, Mỹ 19,8%, các nước Châu Á (trừ Nhật Bản và ASEAN) 14,7%, còn lại là các thị trường khác. Đến quý II/2007, giá trị xuất khẩu vào thị trường EU đã tăng lên đáng kể chiếm 28,52%, Mỹ còn 14,10%, các nước Châu Á (trừ Nhật Bản và ASEAN) 19,02%, Nhật Bản 14,89%, còn lại là các thị trường khác. Cơ cấu thị trường xuất khẩu đa dạng hơn và tổng giá trị xuất khẩu vào từng thị trường cũng tăng lên đáng kể. Do đó rủi ro của các doanh nghiệp Việt Nam được giảm thiểu, không còn phụ thuộc quá nhiều vào các thị trường truyền thống.
Hoạt động của công ty tập trung chủ yếu vào sản xuất chế biến xuất khấu nhiều loại hình sản phẩm từ cá tra như: cá tra fillet các loại, cá tra nguyên con, cá tra lăn bột các loại cấp đông… Sản phẩm của công ty đa dạng và được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau (màu sắc, kích cỡ, trọng lượng…) tùy theo yêu cầu của khác hàng và thị trường xuất khẩu. Việc tạo uy tín với khách hàng, đặc biệt với các khách hàng chiến lược và khách hàng lớn là rất quan trọng, điều này giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thị trường thế giới., mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Một số khách hàng có giá trị hợp đồng lớn năm 2007:
HỢP ĐỒNG CUNG CẤP SẢN PHẨM
STT
KHÁCH HÀNG
SỐ HỢP ĐỒNG
NGÀY KÝ
THỜI HẠN GIAO HÀNG
SẢN PHẨM
GIÁ TRỊ HỢP ĐỒNG (USD)
1
Abramczyk Ltd
CL-ABR-02/07
04/01/2007
01/02/2007
Cá tra fillet đông lạnh
786.240
2
Saudi Pan Gulf Trading Co. Ltd
CL-SPF-03/07
10/01/2007
01/04/2007
Cá tra fillet đông lạnh
637.000
3
Pomona Terreazur
CL-PTA-01/07
20/01/2007
01/03/2007
Cá tra fillet đông lạnh
329.280
4
Pasapesca S.A
CL-PSA-01/07
27/01/2007
01/03/2007
Cá tra fillet đông lạnh
385.625
5
Sanan & Al Sayer Foodstuff Co
CL-SA-02/07
03/03/2007
01/04/2007
Cá tra fillet đông lạnh
155.000
6
Singapore Food Industries Limited
CL-SFI-01/07
05/03/2007
01/04/2007
Cá tra fillet đông lạnh
157.500
7
Royal Crown Fisheries Factory
CL-RF-01/07
15/03/2007
01/04/2007
Cá tra fillet đông lạnh
151.000
8
Seville Products Ltd
CL-SE-01/07
22/03/2007
01/04/2007
Cá tra fillet đông lạnh
157.500
9
Quwat Albahr For Trading
CL-QA-01/07
06/04/2007
01/05/2007
Cá tra fillet đông lạnh
195.000
10
The Deep Seafood Co.L.L.C
CL-DSF-05/07
09/04/2007
01/05/2007
Cá tra fillet đông lạnh
283.000
Thị trường xuất khẩu cá tra của công ty là rất lớn nên công ty có thể gặp phải các loại rủi ro về thị trương như:
Rủi ro về thay đổi yêu cầu của thị trường xuất khẩu
- Sự thay đổi về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm: Thị trường các nước nhập khẩu sản phẩm của ACL luôn quy định rất khắt khe về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Những tiêu chuẩn này có thể thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau, thường là bổ sung hoá chất cấm sử dụng hoặc quy định mức tối thiểu về dư lượng chất kháng sinh. Các doanh nghiệp phải được Cục an toàn quản lý chất lượng vệ sinh và thú y thủy sản ( thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) kiểm tra và cho phép doanh nghiệp xuất khẩu vào các thị trường. Ví dụ đối với thị trường Nhật Bản : chỉ những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn đảm bảo an toàn thực phẩm của Bộ Thuỷ sản mới được phép xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật Bản, doanh nghiệp này phải thực hiện kiểm tra chứng nhận nhà nước về dư lượng hoá chất, kháng sinh cấm đối với 100% lô hàng giáp xác, nhuyễn thể chân đầu và sản phẩm phối chế từ các loại nguyên liệu thuỷ sản nêu trên trước khi xuất khẩu vào Nhật Bản.
- Rủi ro về các vụ kiện chống phá giá: Với mức tăng trưởng xuất khẩu hàng năm gần 20% trong những năm gần đây và việc chúng ta càng ngày càng phải đối mặt với nhiều vụ kiện thương mại đối với các mặt hàng xuất khẩu điển hình là thuỷ sản trên các thị trường lớn (Mỹ, EU). Các vụ kiện xuất hiện ngày càng nhiều sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch tăng trưởng xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên bình diện quốc tế. Bên cạnh đó, các vụ kiện này cũng có những tác động tiêu cực rất lớn đến những vấn đề xã hội như: việc làm, thu nhập cho người lao động.... Từ vụ kiện các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa Việt Nam của Hiệp hội các nhà nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) cho thấy các vụ kiện chống bán phá giá sẽ còn tiếp tục diễn ra, cho nên doanh nghiệp Xuất nhập khẩu thuy sản Cửu Long An Giang tiềm ẩn nguy cơ có thể phải đối đầu với những vụ kiện này. Riêng tại thị trường lớn nhất của Công ty hiện nay là Châu Âu, các vụ kiện chống bán phá giá về sản phẩm cá tra, basa không có nguy cơ xảy ra. Nguyên nhân là do khu vực này có khí hậu lạnh, không thích hợp với điều kiện nuôi thả và phát triển loài cá này. Cho nên, trường hợp xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá để bảo hộ là không có khả năng xảy ra.
Rủi ro về đối tác: Khi đối tác gặp phải những rủi ro khiến doanh nghiệp phá sản hay đối tác hủy bỏ hợp đồng, hủy bỏ đáo hạn hợp đồng thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm.
4. Rủi ro về tỉ giá hối đoái
Sản lượng xuất khẩu của Công ty Xuất Nhập Khẩu Cửu Long An Giang chiếm tới 2,4% tổng kim ngạnh xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, các nước Châu Á ( không kể Nhật Bản)… Do hiện nay 95% doanh thu của Công ty là doanh thu xuất khẩu nên các biến động tỷ giá hối đoái giữa VNĐ và các ngoại tệ khác có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động của Công ty. Sản lượng xuất khẩu vào các nước EU và Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng lớn nên đồng USD là phương tiện thanh toán chính. Chính vì vậy mà trước sự biến động mạnh của đồng USD trong thời gian gần đây đã ảnh hưởng lớn đến các hợp đồng mua bán của công ty, đặc biệt là khi đồng USD mất giá trong thời gian dài làm giảm một phần doanh thu.
Năm 2007 Nhà Nước mới ban hành quy định cho phép biên độ dao động của tỷ giá đã đặt. Cụ thể, biên độ tỷ giá sẽ được nới rộng từ +/-0,5% lên +/-0,75%. Trước đó, Ngân hàng Nhà nước đó hai lần thực hiện mở rộng biên độ tỷ giá: ngày 1/7/2002, mở rộng biên độ từ +0,1% lên +/-0,25%; ngày 31/12/2006, mở rộng biên độ từ +/-0,25% lên +/-0,5%. Tháng 3/2008, nhà nước quy định biên tỷ giá mua, tỷ giá đối với Đô la Mỹ là không được vượt quá biên độ ±1% (quy định trước đây: không được vượt quá biên độ ±0,75%) so với tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, áp dụng cho ngày giao dịch do Ngân hàng Nhà nước thông báo. Trước sự biến động liên tục của đồng đôla đặt ra một thách thức đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta bởi lẽ : tăng biên độ dao động của tỷ giá làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh của họ. Khi tỷ giá giảm làm đồng nội tệ lên giá dẫn đến giảm xuất khẩu làm giảm doanh thu và lợi nhuận. Khi tỷ giá tăng làm cho đồng nội tệ mất giá làm tăng xuất khẩu nhưng doanh thu giảm do nội tệ mất giá.
Năm 2006 lãi do chênh lệch tỷ giá là 98.178.256VNĐ. Nhưng do sự biến động của tỷ giá mạnh vào năm 2007 (nhất là sự mất giá của đồng USD) khiến lợi nhuận của công ty giảm đi 572.795.409 VNĐ, chiếm 0.028% trong tổng doanh thu bán hàng của công ty 204.936.064.400VNĐ và chiếm 0.9% lợi nhuận trước thuế của công ty.
Do kinh tế Mỹ tiếp tục suy thoái đồng USD mất giá, lạm phát lên cao kéo theo là tình hình lạm phát diễn ra trên toàn cầu, đẩy chi phí xản xuất hàng hoá tăng, trong khi đó sức mua của người dân giảm, lạm phát củaViệt Nam trong vài năm gần đây đều trên 8% đặc biệt là năm 2007 là 11,6% đến 3 tháng đầu năm 2008 lạm phát là 12,6%. Chính vì lạm phát liên tục tăng cao khiến doanh nghiệp xuất nhâp khẩu gặp nhiều khó khăn bởi những hợp đồng đã ký trước đó, như : Công ty có 7 hợp đồng đã ký năm 2007 xuất đầu năm 2008 trị giá 1.400.000 USD (250 tấn), nếu tính theo giá giao hàng năm 2007 thì 1 kg cá fillet thành phẩm là 5.6$, do lạm phát và do giá xăng dầu tăng cao, nguyên vật liệu đều tăng lên dể sản xuất được 1 kg cá thành phẩm vào năm 2008 thì giá phải là 6.1$. Như vậy mỗi 1 kg cá fillet thành phẩm sẽ thiệt 0.5$ và tồng thiệt hại của 15 hợp đồng đó là 125.000$.
Chính vì những rủi ro trên ta thấy tổn thất của nó gây lên cho doanh nghiệp là không nhỏ, thậm chí có thể làm gián đoạn hoạt động kinh doanh, giảm doanh thu bán hàng và giảm lợi nhuận, cho nên công ty cần có các biện pháp kiểm soát rủi ro làm giảm rủi ro và hạn chế tổn thất.
PHẦN III: LỰA CHỌN CÔNG CỤ KIỂM SOÁT RỦI RO
Các công cụ kiểm soát rủi ro được lựa chọn là:
Lắp đặt hệ thống chữa cháy để bảo vệ cho tòa nhà văn phòng và nhà máy sản xuất. Trang bị phương tiện chữa cháy như: hệ thống dập cháy bằng Co2; hệ thống tự động dập tắt tia lửa điện cho nhà máy sản xuất, chế biến.
Trang bị cho công nhân kỹ thuật, lao động sản xuất trực tiếp các trang thiết bị bảo hộ, đảm bảo an toàn và vệ sinh trong quá trình sản xuât.
Đối với hàng hóa vận chuyển cần lựa chọn doanh nghiệp vận tải có uy tín, có kinh nghiệm, có khả năng xử lý tốt những rủi ro để hạn chế tối đa tổn thất. Sau khi đã kí hợp đồng với nhà vận chuyển cần kiểm tra tiêu chuẩn của tàu được lựa chọn. ta có thể lựa chọn một số doanh nghiệp vận tải có uy tín như: các đội tàu của tổng công ty hàng hải Việt Nam( Vinalines) như:
- Đội tàu Vosco: đội tàu của VOSCO gồm 22 tàu chở hàng khô và 4 tàu chở dầu thành phẩm với tổng trọng tải là 421.730 DWT. Trong số này, lớn nhất là tàu chở dầu Đại Nam với trọng tải 47.102 DWT. Năm 2006, đội tàu này của VOSCO đã chuyên chở được khoảng 5 triệu tấn hàng. Các tàu của VOSCO được các Hội đăng kiểm đáng tin cậy như NK đăng kiểm Nhật Bản) , GL (đăng kiểm Ðức), LR (đăng kiểm Anh), DNV (đăng kiểm Nauy), VR (đăng kiểm Việt Nam) và ABS( Đăng kiểm Mỹ) phân cấp.
- Công ty Vận tải biển Vinaship: được thành lập từ năm 1984, công ty chủ yếu vận chuyển hàng hóa giữa các cảng trong nước và khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á. Hiện Công ty có đội tàu 17 chiếc với tổng trọng tải 159.445 DWT, trong đó có 1 tàu 12.500 DWT mới nhận đầu năm 2008 sau khi đưa vào khai thác 1 tàu 12.367 DWT vào cuối tháng 8/2007.
Ngoài ra cần thực hiện tốt quy trình xử lý kỹ thuật để tạo ra sản phẩm tốt, bao bì đầy đủ và đóng gói thích hợp, giảm thiểu tổn thất của rủi ro do nội tì, ẩn tì của sản phẩm gây nên. Tránh tình trạng xếp hàng quá tải và sai quy cách, phải có thông báo cho nhà vận chuyển đầy đủ về tính chất lý hoá của sản phẩm.
Đối với nguồn nguyên liệu: Doanh nghiệp có thể tự giảm thiểu độ rủi ro về nguồn nguyên liệu bằng các giải pháp như:
- Xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu, đảm bảo hệ thống cung cấp nước sạch an toàn, thực hiện nuôi cá theo đúng quy trình kỹ thuật.
- Tăng cường công tác quản lý, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất nguyên liệu với chế biến xuất khẩu nhằm ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; giảm dần các yếu tố tự phát trong quá trình sản xuất, xuất khẩu và tiêu thụ nội địa; đầu tư tăng năng lực chế biến mặt hàng có giá trị gia tăng cao, nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
- Thực hiện phương thức thu mua theo chất lượng thực tế của lô nguyên liệu sau chế biến. Điều này đã kích thích người nuôi không ngừng cải tiến kỹ thuật, gắn chất lượng cá nuôi với sản xuất chế biến và xuất khẩu.
- Cần nắm bắt kịp thời tình hình biến động nguồn nguyên liệu: số lượng, cơ cấu, chất lượng, giá cả… trên cơ sở đánh giá thông qua sự biến động giá cả của thị trường xuất khẩu và thị trường nguyên liệu để có chính sách thu mua hợp lý phù hợp với từng tình hình cụ thể nhằm đảm bảo hoàn thành được kế hoạch sản xuất và kinh doanh có lãi.
Để giảm thiểu rủi ro về thị trường và đối tác doanh nghiệp cần phải có các biện pháp sau:
- Xây dựng chiến lược xâm nhập thị trường: Nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất giúp giá cả phù hợp với giá cả cạnh tranh cạnh tranh trên thị trường. Xây dựng kế hoạch tiếp thị quảng cáo nhằm nâng cao thương hiệu của công ty trên thị trường thế giới.
- Đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng tiềm năng và mở rộng thị trường chất lượng cao thông qua hội chợ thủy sản quốc tế hay qua cập nhật thông tin trên internet. Thông qua đối tác, khách hàng thân thuộc ở các thị trường để lập kênh phân phối độc quyền. Hỗ trợ dịch vụ cho khách hàng như: hỗ trợ giá ưu đãi cho khách hàng mới, hỗ trợ về phương thức thanh toán ưu đãi cho khách hàng truyền thống, cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng: giao hàng đúng tiến độ, chất lượng sản phẩm bảo đảm chính xác theo hợp đồng.
PHẦN IV: LỰA CHỌN CÔNG CỤ TÀI TRỢ
I. Lập quỹ dự phòng
Doanh nghiệp đã lập ra một số loại quỹ dự phòng để dự phòng các khoản phát sinh khi xảy ra một số rủi ro hoặc biến cố. Quỹ này lập ra dựa trên doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp và mức độ rủi ro của từng loại.
Quỹ dự phòng tổn thất: dùng để dự phòng trong các trường hợp không nằm trong phạm vi bảo hiểm ( tổn thất loại trừ); trong trường hợp vượt quá phạm vi bảo hiểm ( đối với bảo hiểm tài sản giá trị lớn thường chỉ bảo hiểm 70- 80% giá trị tài sản) hay những tổn thất dưới mức khấu trừ.
Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc với số tiền 105.072.200 VNĐ, dùng để thể bù đắp những tổn thất xảy ra khi người lao động nghỉ việc, một mặt giúp họ trang trải những chi phí lú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12791.doc