MỤC LỤC
A .GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ 2
B. NỘI DUNG CHÍNH 3
I .Những lí luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3
1.Các khái niệm cơ bản: 3
1.1. Khái niệm chung về cơ cấu kinh tế : 3
1.2. Khái niệm chung về công nghiệp hóa – hiện đại hóa 4
1.3 .Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa 6
II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay 8
1.Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua : 8
1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ,hiện đại hóa ngành công nghiệp 8
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa ngành nông nghiệp 10
1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ,hiện đại hóa ngành dịch vụ 11
2.Những hạn chế còn tồn tại 13
2.1.Trong nông nghiệp 13
2.2 Ngành công nghiệp 13
2.3. Ngành dịch vụ: 14
3. Ý kiến của bản thân 15
4. Những giải pháp chung nhằm chuyển dịch ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 18
4.1. Trong công nghiệp: 18
4.2 Trong nông nghiệp 19
4.3.Trong ngành dịch vụ 20
III. KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6641 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đã biết công nghiệp hóa ,hiện đại hóa là tất yếu khách quan đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển như ở Việt Nam. Mục tiêu của công nghiệp hóa hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại ,cơ cấu kinh tế hợp lí.CNH- HĐH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế .Sự chuyển dịch đó phản ánh sự thay đổi về chất của nền kinh tế theo hướng CNH- HĐH ,tạo tiền đề vật chất cho sự ổn định của nền kinh tế. Ở nước ta xác định cơ cấu hợp lí có nghĩa là:
_ Giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, tăng dần tỉ trọng công nghiệp ,xây dựng và dịch vụ
_ Trình độ kĩ thuật của nền kinh tế phải phát triển phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới.
_ Khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước ,của các ngành ,các địa phương ,các thành phần kinh tế.
_ “ Cơ cấu mở” ,phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa kinh tế
1.3 .Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa
1.3.1 .Xuất phát từ xu hướng chung của khu vực và thế giới
Trong mấy thập kỉ qua ,khu vực kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương đã trở thành một khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới với sự ra đời của hàng loạt các nước công nghiệp hóa mới ,ra nhập vào hàng ngũ các nước có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới. Kinh tế phát triển, giá nhân công ngày càng cao nên các nước này phải thực hiện chuyển giao công nghệ sang các nước khác ở một số lĩnh vực sản xuất khó cạnh tranh.Các nước kém phát triển lại có nhu cầu tiếp nhận để từng bước tiếp cận vào thị trường thế giới .Sự gặp gỡ cung và cầu công nghệ trình độ thấp làm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, thay đổi cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển
Hơn nữa ,khoa học công nghệ phát triển hết sức nhanh chóng tạo ra những lĩnh vực công nghệ mới ,hiệu quả cao,tiết kiệm nguyên nhiên liệu, bảo vệ môi trường.tận dụng lợi thế của các nước đi sau ,ta phải nhận thức rõ để không bị biến thành “ thùng rác” của thế giới. Muốn vậy ,phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu ngành cho phù hợp với tình hình trong nước và trên thế giới.
1.3.2.Xuất phát từ nhu cầu trong nước
Mục tiêu của nước ta đến năm 2020 là phấn đấu trở thành một nước công nghiệp.Muốn vậy ,phải phát triển lực lượng sản xuất tới trình độ khá hiện đại, lao động thủ công thay thế bằng lao động máy móc, dịch vụ và công nghiệp phải đạt tỉ trọng cao trong GDP và lao động xã hội.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ,hiện đại hóa là hết sức cần thiết.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng nhằm tận dụng được hết tiềm năng của nước ta như : nguồn lực con người, tài nguyên thiên nhiên phong phú, bờ biển dài trên 3000 km với vị trí địa lý thuận lợi.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa giúp cho công nghiệp hương ra xuất khẩu, hàng hóa Việt nam có cơ hội tiếp cận với thị trường thế giới ,nhất là khi Việt Nam vừa mới gia nhập WTO
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa tạo công bằng xã hội ,giúp giải quyết việc làm cho đông đảo tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đại bộ phân dân cư ở nông thôn
1.3.4.Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
_ Coi trọng công nghiệp hóa ,hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
_ Phát triển công nghiệp vã xây dựng
_ Cải tạo, mở rộng nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế
_Phát triển nhanh du lịch ,các ngành dịch vụ
_ Phát triển hợp lí các vùng lãnh thổ
_ Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
1.Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua :
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Sau hơn 20 năm đổi mới , kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và phát triển hết sức khả quan. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ,dưới sự quản lí của Nhà nước đã tạo nên một môi trường kinh tế có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Trong giai đoạn này cơ cấu kinh tế ngành của nước ta đã có sự chuyển dịch rất mạnh, tạo điều kiện nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Nhìn chung cơ cấu ngành kinh tế đã có những chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục trong những năm qua. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%/năm. Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640 USD). Năm 2006 GDP đã đạt mức tăng 8,2%, đến năm 2007, tốc độ tăng GDP của Việt nam là 8,44% đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc: 11,3% và Ấn Độ khoảng: 9%.)Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2007, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp đã giảm từ 38,7% xuống 20% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,5%, còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và 38,10% năm 2007.. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ,hiện đại hóa ngành công nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu. Các sản phẩm công nghiệp quan trọng đều tăng khá như điện, thép, phân bón, dầu thô, xi măng, than… Sự phát triển này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng GDP tính theo giá thực tế trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 23,2% năm 1996 lên 41,0% năm 2005, 41,6% năm 2006 và năm 2007 ước đạt 41,7% (năm 2007 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống mức khoảng 20,9% và khu vực dịch vụ tăng lên khoảng 37,6%). Tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP tăng dần thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế quốc dân (năm 2007 chỉ tính riêng khu vực công nghiệp chiếm khoảng 34,6%). Đây là năm thứ ba liên tiếp ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình quân khoảng 10%/năm trong giai đoạn 1997-2007. Về giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2007 ước tăng 17,1% so với năm 2006, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,3%; khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến từ 83,9% năm 2006 lên khoảng 84,4% năm 2007. Đối với nhóm ngành chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, nhất là chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp quan trọng vào cơ cấu chế biến với tỷ trọng là 21,0% năm 2006 và khoảng 21,3% năm 2007.
Công nghiệp chế biến xuất khẩu đã phát triển hơn nhiều so với các sản phẩm xuất khẩu thô. Nhiều sản phẩm công nghiệp không chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế như điện, than, phân bón, sắt thép… mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng cao (76,3%) như: mặt hàng nhựa, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính, thủ công mỹ nghệ… Tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này chủ yếu do một số ngành công nghiệp nhẹ; chẳng hạn, năm 2007, ngành dệt may đã chuyển từ sản xuất theo kiểu gia công xuất khẩu (có tỷ lệ lãi khoảng từ 3-6%) sang sản xuất theo phương thức mua đứt, bán đoạn (có tỷ lệ lãi khoảng từ 5-8%); kim ngạch xuất khẩu đạt 7,8 tỷ USD tăng khoảng 30% so với năm 2006. Các sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may và giày dép lần đầu tiên đạt trên 10 tỷ USD, dẫn đầu trong các ngành hàng tham gia xuất khẩu. Đặc biệt, các sản phẩm cơ khí xuất khẩu cũng là lần đầu tiên được bổ sung vào danh sách 10 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD (năm 2007 sản phẩm cơ khí tăng trưởng trên 120% so với năm 2006, đem lại kim ngạch xuất khẩu trên 2,2 tỷ USD). Đứng đầu danh sách nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD phải kể đến là dầu thô (trên 8,4 tỷ USD); tiếp theo là dệt may (7,7 tỷ USD); giày dép (3,9 tỷ USD)...
Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế, một số lọai sản phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như: lắp ráp ôtô, xe máy, đồ điện tử, đường, xi măng… đã cung cấp cho thị trường nội địa, vốn cần thiết cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nhiều mặt hàng có chất lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, tập trung vào nhóm ngành chế biến thực phẩm và dầu khí, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu của nước ta và có vị trí chủ yếu trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đây được coi là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH…
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa ngành nông nghiệp
Trong công cuộc đổi mới, nông nghiệp -nông thôn được đánh giá là một trong những lĩnh vực nhiều khởi sắc nhất trong các hoạt động kinh tế xã hội. Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, manh mún sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu tiêu dùng nội địa, sau một thời gian không dài đối với quá trình phát triển xã hội, đến nay sản xuất nông nghiệp nước ta đang dần hướng tới một nền sản xuất hàng hoá với nhiều sản phẩm xuất khẩu quan trọng đã xác định được vị thế trên thị trường thế giới. Không chỉ dừng lại ở niềm tự hào của một đất nước từ thiếu đói lương thực đã từng bước vươn lên trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới, ngày nay nhiều sản phẩm nông sản khác của Việt Nam đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới, đồng thời đáp ứng sức tiêu dùng về lương thực, thực phẩm, rau hoa quả của trên 80 triệu dân trong nước với các sản phẩm ngày càng phong phú, đa dạng và chất lượng cao.
Công nghiệp nông thôn đã có sự chuyển biến tích cực thực sự. Sự quản lý cứng, gò bó trước đây đã được xoá bỏ về cơ bản. Những chủ trương, chính sách về đời sống kinh tế đã dần dần thấm vào mỗi người dân; cơ cấu vốn đầu tư ở nông thôn đã chuyển theo hướng gìanh cho sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nhiều hơn.
Cơ cấu công nghiệp nông thôn đã thay đổi theo hướng thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong những điều kiện mới. Sự thay đổi rõ nhất là trong cơ cấu thành phần kinh tế. Kinh tế hộ và các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn tăng lên một cách nhanh chóng, trong khi các hợp tác xã và kinh tế Nhà nước giảm đi rõ rệt .
Nhiều ngành nghề, sản phẩm truyền thống từng bị mai một đã dần dần được khôi phục lại do yêu cầu khách quan của nền kinh tế, của thị trường trong nước và quốc tế. Sự phục hồi này thường gắn liền với sự đổi mới, hiện đại hoá các sản phẩm và công nghệ truyền thống. Mặt khác, nhiều làng truyền thống được khôi phục lại có sức lan toả khá mạnh sang các khu vực lân cận.
1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ,hiện đại hóa ngành dịch vụ
Nền kinh tế nước ta là một tổng thể kinh tế quốc dân thống nhất nó bao gồm nhiều ngành và mỗi ngành thực hiện một chức năng nhất định. Thương mại -dịch vụ là một trong những ngành kinh tế quốc dân quan trọng, ở những nước có nền kinh tế phát triển, 80% lực lượng lao động xã hội làm việc trong lĩnh vực dịch vụ và giá trị dịch vụ chiếm 2/3 trong tổng GDP một nước. ? nước ta trong thời kì vận hành nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hoạt động dịch vụ chủ yếu chỉ bó hẹp trong khâu phân phối lưu thông và do nhà nước tổ chức quản lý, các loại dịch vụ khác thì hầu như không có hoặc bị cấm. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành dịch vụ đã từng bước hình thành và phát triển đa dạng với tốc độ cao, góp phần phục vụ đắc lực cho sản xuất của các ngành nông nghiệp và công nghiệp.
Tỉ trọng của khu vực dịch vụ luôn ở mức cao trong tổng thu nhập quốc dân nước ta những năm gần đây. Tăng 8,26%, (kế hoạch tăng 8%), năm 2006. Trong năm 2007 là tỷ trọng khu vực dịch vụ( 38,1%) tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO(mức tăng trưởng 8,1%).
Trong nội bộ ngành dịch vụ, Bưu chính viễn thông có bước phát triển đáng kể nhờ việc sử dụng dịch vụ internet và điện thoại di động. Ngoài ra,chính sách đầu tư phát triển hạ tầng giao thông có hiệu quả của chính phủ đã hình thành hệ thống giao thông thông suốt từ Bắc tới Nam ,làm gia tăng tỉ trọng nhiều nhất của nhóm ngành vận tải .Sự gia tăng tỉ trọng còn được nhận thấy trong các nhóm ngành thuộc về hoạt động khoa học và công nghệ .Vì chính khoa học công nghệ là nền tảng để tạo bước tiến về năng suất,hiệu quả, chất lượng của các ngành khác. Đặc biệt, với sự ra đời của một loại thị trường mới năng động, sáng tạo “Thị trường chứng khoán” đã làm mới , hứa hẹn mang lại sắc màu mới cho nền kinh tế non trẻ đầy tiềm năng như Việt Nam.
2.Những hạn chế còn tồn tại
2.1.Trong nông nghiệp
Trước hết là tình trạng kinh tế thuần nông, cây lúa chiếm tỷ lệ tuyệt đối, sức mua còn rất nhỏ. Trình độ kỹ thuật của công nghiệp nông thôn còn thấp cả về sản phẩm, thiết bị lẫn công nghệ. Trừ một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm, của công nghiệp nông thôn có chất lượng thấp, mẫu mã, kiêủ dáng chậm thay đổi, tốn nhiều nguyên vật liệu, năng lương. Phần lớn thiết bị và công nghệ sản vuất của công nghiệp nông thôn là công cụ thủ công cải tiến hoặc thiết bị thải loại của các cơ sở công nghiệp đô thị. Công nghiệp nông thôn nước ta phát triển không đồng đều, mới chỉ tập trung ở những địa phương có ngành nghề truyền thông, ở ven đô thị, đầu mối giao thông quan trọng
Cho đến nay, kinh nghiệm kinh doanh của người dân nông thôn trên các lĩnh vực phi nông nghiệp còn hạn chế, do đó họ chưa dám chấp nhận rủi ro và mạnh dạn kinh doanh. Hơn nữa, họ cũng thiếu những kiến thức về kinh doanh (kinh nghiệm và kiến thức về nghiên cứu thị trường, marketing...). Thực tế cho thấy, Việt Nam đang thừa lao động nhưng lại rất thiếu lao động có kỹ năng không chỉ trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ mà cả chính trong nông nghiệp.
Một vấn đề quan trong nữa là hàng nông sản Việt Nam chưa tạo được thương hiệu cho riêng mình. Theo bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện nay, có tới 90% số hàng nông sản xuất khẩu của nước ta phải thông qua trung gian để bán với những thương hiệu nước ngoài, chỉ có khoảng 10% mang thương hiệu Việt Nam.
2.2 Ngành công nghiệp
Ngành công nghiệp nước ta tuy đã có những bước chuyển biến đáng kể nhưng vẫn vấp phải rất nhiều khó khăn chưa thể giải quyết.
Ngành công nghiệp chế biến tuy chiếm khoảng 80% giá trị sản lượng nhưng chỉ đóng góp 50% giá trị gia tăng của ngành công nghiệp -xây dựng là do đã phát triển mạnh các lĩnh vực gia công, có giá trị gia tăng thấp. Đây là một nhược điểm quan trọng làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập . Những ngành có hàm lượng công nghệ cao, nhất là ngành công nghệ thông tin phát triển còn chậm và tỷ trọng trong cơ cấu công nghiệp còn ở mức thấp so với khu vực. Hiện tại những ngành công nghệ cao của công nghiệp nước ta chỉ chiếm 15,7% trong tổng công nghiệp chế biến (tính theo giá trị sản xuất), công nghệ trung bình chiếm 31,5% và công nghệ thấp chiếm 52,8%. Nếu tính theo giá trị gia tăng thì tỷ trọng trên còn thấp hơn nhiều vì phần lớn những ngành công nghệ cao của nước ta chủ yếu là lắp ráp.
Số lượng cơ sở công nghiệp nước ta tăng nhanh nhưng quy mô phổ biến là nhỏ. Điều này cũng làm hạn chế sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trong giai đoạn CNH, HĐH hiện nay.
Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp nước ta còn thấp, trình độ công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp còn lạc hậu, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của một doanh nghiệp còn ở mức thấp….
2.3. Ngành dịch vụ:
Dịch vụ là ngành có nhiều tiềm năng phát triển ở nước ta trong hơn hai thập kỉ qua, nhưng ngoài những bước phát triển mạnh đã đạt được thì nhóm ngành này còn có rất nhiều hạn chế mà chúng ta cần phải kịp thời nhận biết và khắc phục. Trình độ của các hoạt động dịch vụ còn ở mức thấp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế và so với trình độ chung của khu vực và thế giới, chất lượng các sản phẩm dịch vụ còn kém sự cạnh tranh so với các nu?c khỏc. Việc tổ chức quản lý đối với các hoạt động dịch vụ trong nước chưa mang lại hiệu quả cao, tính tự phát còn thể hiện khá rõ. Thêm nữa, thị trường dịch vụ chưa hình thành một cách đầy đủ , dẫn dến cạnh tranh không bình đẳng và thiếu lành mạnh, nhất là thị trường du lịch, dịch vụ quảng cáo và tiếp thị, dịch vụ xuất nhập khẩu….
Trong một số ngành dịch vụ, khu vực nhà nước vẫn chiếm vị thế độc quyền. Ví dụ như trong ngành bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ được tham gia vào thị trường viễn thông Việt Nam thông qua hình thức hợp tác kinh doanh. Đối với dịch vụ hàng không, các chính sách vẫn chưa thực sự thông thoáng. Cơ chế hiện tại chỉ cho phép bên nước ngoài tham gia liên doanh không quá 40% vốn pháp định.
Trong khu vực tài chính, các tổ chức tín dụng Việt Nam đang nắm giữ tới 90% thị phần tiền gửi, riêng ngoại tệ chiếm 85% và không bị giới hạn về các loại tiền gửi. Thị phần nhỏ nhoi còn lại là của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Ý kiến của bản thân
Trong những năm qua ,kinh tế nước ta đã có bước phát triển khá nhanh, đồng thời có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ.Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vị tăng lên rõ rệt, tỉ trọng các ngành nông lâm ngư nghiệp giảm đi đáng kể.
Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu. Sự phát triển này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng GDP tính theo giá thực tế trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 23,2% năm 1996 lên 41,0% năm 2005, 41,6% năm 2006 và năm 2007 ước đạt 41,7% (năm 2007 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống mức khoảng 20,9% và khu vực dịch vụ tăng lên khoảng 37,6%). Tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP tăng dần thực sự trở thành động lực cho phát triển kinh tế quốc dân (năm 2007 chỉ tính riêng khu vực công nghiệp chiếm khoảng 34,6%). Đây là năm thứ ba liên tiếp ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trong khu vực công nghiệp trong thời gian qua là do: Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách thương mại, nhiều doanh nghiệp đã và đang tận dụng mọi cơ hội để vươn lên trong môi trường cạnh tranh, giành lấy và mở rộng thị phần trên thị trường. Ba là, đã định hướng đúng việc tập trung vào nhóm các sản phẩm có lợi thế so sánh trong xuất khẩu và khả năng cạnh tranh cao, có nguồn gốc từ nông nghiệp và công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm như hàng may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô, than đá… Tuy nhiên, nhìn chung khả năng cạnh tranh của khu vực công nghiệp còn yếu ngay cả với các nước trong khu vực. Trong khi tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khá cao thì tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm còn thấp (năm 2007 con số này là khoảng 17,1% so với khoảng 10,2%
Tiềm lực kinh tế của nền kinh tế nước ta chưa đủ mạnh,. Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu là phát triển theo bề rộng, chậm chuyển biến về mặt chất lượng và phát triển theo chiều sâu. tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%.
Về nông nghiệp, Vấn đề lớn của nông nghiệp nước ta sau thời kỳ đổi mới là chất lượng nông sản còn thấp, vì chủ yếu xuất khẩu nông sản thô, quy mô sản xuất nhỏ nên giá thành cao, năng suất lao động thấp. Muốn tăng giá trị nông sản, cần cải tiến chất lượng sản phẩm bằng cách phát triển các sản phẩm có xuất xứ địa lý, sản phẩm bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm quốc tế và sản phẩm hữu cơ. Để làm được việc này, cần xây dựng một thể chế quản lý chất lượng nông sản đi đôi với việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản.
Thể chế thị trường nông sản, nếu chủ yếu chỉ dựa vào quan hệ nông dân - doanh nghiệp theo kiểu hợp đồng nông nghiệp sẽ dẫn đến sự độc quyền của doanh nghiệp chế biến và lưu thông. Nông dân, những người sản xuất trực tiếp vẫn chịu nhiều thiệt thòi. Hiện nay, các dịch vụ công phục vụ phát triển nông nghiệp còn yếu, đặc biệt các hộ nghèo ít được hưởng lợi. Chúng ta đã xây dựng được một số hệ thống cung cấp dịch vụ công do các tổ chức nông dân thực hiện cùng với Nhà nước và thị trường, cho phép nâng cao hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ cho nông dân, tới đây cần nhân rộng các mô hình này.
Vấn đề nông thôn
Trong quá trình đổi mới, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng xa nhau, do chưa có chiến lược đổi mới hiệu quả. Nông nghiệp mâu thuẫn với phát triển nông thôn. Các vùng phát triển nông nghiệp mạnh thì không chuyển đổi được cơ cấu kinh tế nông thôn, không tạo thêm được việc làm và không tăng nhanh thu nhập của nông dân. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn không thuận lợi cho việc nâng cao năng suất lao động nông thôn và tăng thu nhập của nông dân. Việc để nông dân đi bán sức lao động ở nơi khác với giá rẻ mạt, việc không có quy hoạch lao động, đã dẫn đến nhiều vùng thiếu lao động và giá lao động tăng mạnh.Thêm nữa ,môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm nghiêm trọng,cần có biện pháp xử lí hợp lí,thích hợp.
Ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã có chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tính chất thuần nông, thuần lương thực, mang tính tự cung tự cấp sang một nền nông nghiệp đa dạng mang tính chất sản xuất hàng hóa.
Về dịch vụ: Tỉ trọng ngành dịch vụ trong GDP gần như không thay đổi trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ như viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp xu hướng tích cực là tỉ trọng hàng hoá trong tổng sản phẩm tăng lên, cơ cấu sản xuất đã bước đầu hướng về xuất khẩu.
Theo em sự biến đổi căn bản, toàn diện cơ cấu kinh tế xã hội từ nước nông nghiệp chuyển sang một nước công nghiệp do CNH -HĐH đem lại phải diễn ra theo một trật tự và theo định hướng XHCN. Kinh tế xã hội không phải là hai mặt tách rời của quá trìnhCNH -HĐH mà phải được coi là hai mặt của một quá trình. CNH -HĐH chỉ được triển khai khi có sự ổn định ở mức độ cần thiết. Chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa tới công tác giáo dục để tạo ra nguồn lực dồi dào cho đất nước.
4. Những giải pháp chung nhằm chuyển dịch ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.1. Trong công nghiệp:
Ta cần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp một cách hợp lý trên cơ sở huy động tối đa sức mạnh của các thành phần kinh tế. Cần thay đổi định hướng cơ cấu đầu tư công nghiệp, đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước đầu tư để phát triển các ngành xuất khẩu thay vì đầu tư cho thay thế nhập khẩu. Đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cần ưu tiên lựa chọn các dự án có triển vọng công nghệ và thị trường quốc tế. Chuyển hướng đầu tư tập trung cho các ngành sử dụng nhiều lao động và những ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật cao.
Xác định có trọng tâm và đầu tư đúng mức vào những ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất theo các nhóm ngành: nhóm ngành có lợi thế cạnh tranh, nhóm ngành nền tảng và nhóm ngành tiềm năng. Trước mắt, dựa trên cơ sở lợi thế so sánh động, cần xác định ưu tiên và xây dựng kế hoạch ngắn, trung và dài hạn đối với các ngành công nghiệp trọng điểm. Chẳng hạn, các ngành công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên có chọn lọc phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường giúp cho quá trình tích lũy vốn nhanh hơn, tạo ra cơ sở ổn định lâu dài cho việc cung cấp những nguyên liệu cơ bản của toàn bộ sự phát triển công nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, bao gồm các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, dầu khô, khí đốt, than, luyện thép, vật liệu xây dựng... Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ như các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp... có ý nghĩa chiến lược xét về trung và dài hạn. Hiện đại hóa một số ngành cơ khí có đủ khả năng cung cấp công cụ và thiết bị cho một số ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến.
Ngoài ra, cũng cần nâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10519.doc