MỤC LỤC
Chương 1 : Tổng quan về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2
I. Cơ cấu kinh tế 2
1.1. Khái niệm: 2
1.2. Các tính chất cơ bản của một cơ cấu kinh tế 2
II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2
2.1. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế 2
2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó 3
2.3.Tính quy luật về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 4
2.4 Những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 5
2.5. Những nhân tố tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 6
III. Khái quát quan điểm, đường lối của Đảng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam qua các kỳ đại hội 7
Chương 2 : Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt nam 10
I. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam từ thập kỷ 1990 đến nay 10
1.1 Cơ cấu GDP 10
1.2 Cơ cấu lao động 18
II. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ đổi mới vừa qua 22
2.1 Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 22
2.2 Nguyên nhân của những mặt hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 25
Chương 3 : Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay 29
I. Những nhân tố mới ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam 29
1.1 Đặc điểm mới của bối cảnh kinh tế quốc tế 29
1.2 Điểm xuất phát mới của kinh tế Việt Nam 32
II. Các giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay 36
2.1 Các giải pháp cơ bản dài hạn 37
2.2 Các giải pháp trực tiếp 39
2.3 Triển vọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở VN đến năm 2020 47
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9166 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u lao động có sự thay đổi. Lao động trong các ngành dịch vụ và công nghiệp xây dựng tăng lên. Tỷ trọng lao động của các ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1%năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong các ngành nông lâm, thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Đến năm 2010 Việt Nam sẽ cố gắng đưa Tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ còn khoảng 50%.Đặc biệt Nghị quyết của Đảng đến năm 2020, Việt Nam cơ bản thành nước công nghiệp hoá. Tiêu chí của nước công nghiệp là gì? Rõ ràng là lao động nông thôn dưới 20%.
Bảng 1: có cấu lao động theo nhóm kinh tế %
Năm
Tổng số
Nông lâm, thủy sản
Công nghiệp xây dựng
Dịch vụ
1990
100
73,00
11,20
15,80
1995
100
71,30
11,40
17,30
2000
100
65,10
13,10
21,80
2005
100
57,20
18,20
24,60
2006
100
55,20
19,20
25,60
2007
100
53,90
20
26,10
2008
100
52,50
20,30
26,70
Nguồn: thời báo kinh tế năm 2008 -2009
Như vậy cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực trong tổng số lao động tăng thêm tufw1990 đến năm 2008 (15.624,9 nghìn người ). Nhóm Nông lâm thủy sản đã thu hút thêm 2,148 nghìn người. Chiếm 13,8% tổng số tăng. Nhóm ngành công nghiệp đã thu hút thêm 6079,8 nghìn người, chiếm 38,9% tổng số tăng. Nhóm nghành dịch vụ đã thu hút thêm 7396,4 nghìn người chiếm 47,3% tổng số tăng. Nhóm ngành dịch vụ tăng nhiều nhất. Sau đó đến công nghiệp xây dựng. Do năng xuất lao động của nhóm ngành công nghiệp xây dựng (62924 đông/ người) nên con đường chuyển dịch lao động cơ cấu theo ngành tăng và dịch (46849 đồng/người) cao hơn nhóm ngành nông, lâm, thủy sản. Do vậy, cơ cấu lao động sẽ dịch chuyển theo con đường nào mà năng xuất lao động chung và con đường giảm thiểu mức sống dân cư, giảm tỷ lệ nghèo cao.
Hiện nay do khu vực kinh tế nhà nước hiệu quả kinh doanh cũng như đóng góp vào GDP còn thấp. Mặt khác do lương của khu vực kinh tế nhà nước còn thấp. Vì vậy có sự chảy máu chất xám từ nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Thời điểm 31/12/2000 cục thống kê TP HCM đã có cuộc điều tra về cơ cấu lao động
BẢNG CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO KHU VỰC
Tổng số
Chia ra
Nhà nước
Ngoài Nhà nước
Có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng số
100,00
100,00
100,00
100,00
Phân theo ngành kinh tế
A. Nông nghiệp và Lâm nghiệp
0,43
0,93
0,13
B. Thủy sản
0,04
0,03
0,08
0,01
C. Công nghiệp khai thác mỏ
0,17
0,26
0,15
D. Công nghiệp chế biến
60,29
49,14
56,85
88,82
E. SX và PP điện, khí đốt, nước
2,16
4,87
0,33
F. Xây dựng
10,14
15,34
9,52
0,61
G. Thương nghiệp
11,99
15,32
14,48
1,00
H. Khách sạn và Nhà hàng
2,44
2,48
2,18
2,78
I. Vận tải, Kho bãi và Thông tin liên lạc
8,11
7,34
12,78
1,72
J. Tài chính, tín dụng
0,75
0,66
0,83
0,81
K. Hoạt động khoa học và công nghệ
0,01
0,02
L. Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
2,18
1,90
2,26
2,60
N. Giáo dục và Đào tạo
0,08
0,04
0,33
O. Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
0,05
0,11
0,06
P. Hoạt động văn hoá và thể thao
0,44
0,46
0,29
0,67
T. Phục vụ cá nhân và công cộng
0,72
1,27
0,41
0,13
Nguồn: tổng cục thống kê TP HCM 2005
(Nguồn: thời báo kt vn 2008 – 2009)
Trong tổng số lao động tăng thêm của toàn bộ nền kt 15624,9 nghìn người trong thời kỳ 1990-2008 thì khu vực nn tăng thêm 657,7 nghìn người chiếm 4,2% tổng số tăng thêm khu vực ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài tăng thêm 14967,2 nghìn người chiếm 42,9% tổng số tăng thêm. Do vậy cơ cấu lao động hiện nay có sự chuyển dịch. Xét riêng trong các loại hình doanh nghiệp tổng số lao động tính đến năm 2007 la 6715,2 nghìn người, tăng 89,9% so với năm 2000. Bình quân 11,9%- cao gấp nhiều lần của toàn nền kinh tế quốc dân trong thời gian tương ứng. Về số tuyện đối, tổng số lao động trong các doanh nghiệp tăng 3128,5 nghìn người. Trong đó doanh nghiệp nn giảm 188,6 nghìn người. doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 2329 nghìn người chiếm 73% tổng số tăng. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1037 nghìn người chiếm 32,7% tổng số tăng. Như vậy doanh nghiệp ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc thu hút lao động.
Lao động hiện nay không chỉ số lượng mà còn chất lượng. Hiện nay các trường đại học cao đẳng chuyên nghiệp với số lượng các trường ngày càng tăng vì vậy tỷ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.Tuy nhiên theo thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, Năm 2005 có đến 74,7% lực lượng lao động chưa qua đào tạo; còn số lao động đã qua đào tạo cũng không hoàn toàn giỏi nghề. Chính vì vậy, năng suất của lao động VN kém lao động các nước trong khu vực ASEAN từ 2 đến 15 lần. Chất lượng nguồn nhân lực của VN năm 2008 mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng, theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế giới (WB). 1 nghiên cứu khác cho thấy lao động VN chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
II. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ đổi mới vừa qua
2.1 Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Có thể có nhiều cách phân loại các nguyên nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời gian qua. Như đã nêu ở trên, những thành tựu nổi bật về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian qua chủ yếu biểu hiện qua chỉ tiêu cơ cấu GDP với sự gia tăng đều đặn tỷ trọng tỷ trọng các khu vực phi nông nghiệp, đồng thời với mức suy giảm tương ứng của tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong khi về giá trị tuyệt đối, quy mô của khu vực nông nghiệp vẫn tăng lên. Đóng góp vào thành tựu này có thể kể đến những nhân tố sau:
Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, rút kinh nghiệm từ bài học không thành công trong quá khứ về phân bổ nguồn lực phát triển, vấn đề công nghiệp hóa nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng được nhìn nhận lại theo tinh thần đổi mới tư duy kinh tế.
Chúng ta đều biết, Việt Nam cũng như các nước thuộc hệ thống XHCN (cũ) đã có một thời kỳ dài theo đuổi mô hình công nghiệp hóa XHCN theo phương châm chủ đạo chung là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Đồng thời, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mọi nguồn lực phát triển của nền kinh tế hầu như nằm trong khu vực công hữu (sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể), nên ưu tiên phát triển công nghiệp nặng cũng đồng nghĩa với ưu tiên cho riêng khu vực công nghiệp quốc doanh. Những nghiên cứu phân tích về hệ thống XHCN (cũ) đều thống nhất cho rằng, cả hai đặc điểm này đã là những nguyên nhân căn bản nhất, trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế nói riêng và khủng hoảng kinh tế - xã hội mang tính toàn hệ thống nói chung. Đầu thập kỷ 1990, sự sụp đổ của hệ thống XHCN (cũ) đã đem lại bài học, bắt buộc phải nhìn nhận lại vấn đề về cách tiếp cận mô hình công nghiệp hóa cũng như việc phân bổ các nguồn lực phát triển và chuyển dich cơ cấu ngành kinh tế kém phát triển, bước vào quá trình công nghiệp hóa muộn như Việt Nam, ít nhất có hai bài học quan trọng được rút ra từ thất bại của kiểu công nghiệp hóa trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung là:
+ Nhận thức về quá trình tái sản xuất mở rộng với quy luật “ các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất, sau đó đến sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng; và chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng” (V.I Lenin- Toàn tập, tập1 NXB Tiến bộ, Matxcova, 1976, tr 98). Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, không phải chỉ xem xét bó hẹp trong phạm vi mỗi nền kinh tế quốc gia; mà còn trong những điều kiện cụ thể, nền kinh tế mang tính toàn cầu trong sự phân công lao động quốc tế.
+ Đối với mỗi nền kinh tế quốc gia, nhất là với nhưng nền kinh tế còn kém phát triển, không thể tập trung mọi nguồn lực hiện có của đất nước để ưu tiên phát triển riêng ngành công nghiệp nặng mà không chú ý đến các ngành kinh tế khác. Bởi vì, thực tế cho thấy rằng trong lúc nguồn vốn tích lũy cho công nghiệp hóa còn rất thiếu, sản xuất chưa đủ tiêu dùng, mà dồn mọi nguồn lực sẵn có cho công nghiệp nặng thì các khu vực sản xuất khác sẽ không có điều kiện phát triển. Công nghiệp nặng với đặc điểm cần lượng vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài…., đã hạn chế khả năng khắc phục những thiếu thốn trước mắt về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu.
Hướng đổi mới cách tiếp cận chuyển dịch cơ cấu để thực hiện công nghiệp hóa trên thực tế đã có nhóm NIEs thành công với mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu trong sự đối lập với mô hình công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu đã tỏ ra không có triển vọng xét về dài hạn.
Nguyên nhân chủ quan
Nước ta đã có sự đổi mới về chính sách cơ cấu, ngày càng phù hợp hơn với tình hình thực tế, nên đã có tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa.
Những chính sách điều chỉnh cơ cấu đầu tư, phân bổ lại nguồn lực của nền kinh tế nói chung và nguồn vốn ngân sách nói riêng đã có tác dụng làm giảm bớt mức độ căng thẳng do chủ trương tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp nặng quá sức chịu đựng của nền kinh tế gây ra. Thật vậy, từ năm 1980, sự điều chỉnh chính sách cơ cấu được đánh dấu bằng chủ trương coi nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”. Và sau đó là “ba chương trình mục tiêu về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Quyết sách về sự điều chỉnh cơ cấu này không chỉ có ý nghĩa thực tế to lớn là giảm sự bất cân bằng trong các mối quan hệ kinh tế vĩ mô cơ bản như tích lũy – tiêu dùng, xuất khẩu – nhập khẩu,…; mà điều không kém phần quan trọng trong bối cảnh nhận thức lý luận lúc đó là phá vỡ tư tưởng giáo điều, để từ đó đi một bước ngoặt quyết định trong tư duy đổi mới toàn diện nền kinh tế theo hướng thị trường mở cửa.
Cùng với sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư là các chính sách khuyến khích sự phát triển một nền kinh tế đa hình thức sở hữu, trong đó có mốc đặc biệt quan trọng là:
+ Khoán sản phẩm trong nông nghiệp, coi nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản (Chỉ thị 100/CT năm 1981 và Nghị quyết 10- BTC năm 1988) đã huy động được nguồn lực to lớn của nông dân đầu tư vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Kết quả là nông nghiệp từ chỗ sản xuất không đủ lương thực tiêu dùng đã nhanh chóng trở thành một trong số nhưng quốc gia có lượng gạo xuất khẩu hàng đầu thế giới.
+ Ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 ( và đến nay đã 3 lần sửa đổi vào các năm 1992, 1996 và 2000), đã thu hút được một nguồn vốn đầu tư rất quan trọng từ bên ngoài (bình quân chiến 20-25% tổng đầu tư xã hội). Chủ yếu tập trung vào phát triển các lĩnh vực công nghiệp chế biến và một số lĩnh vực công nghiệp chế biến và một số lĩnh vực dịch vụ có công nghiệp hiện đại. Sự hiện diện của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của khu vực công nghiệp và dịch vụ, hiện đang tạo ra chừng hơn 10%GDP, hơn 50% giá trị xuất khẩu, có đóng góp vào việc tạo việc làm với mức lương khá cao so với mặt bằng chung, vào ngân sách, vào việc du nhập công nghệ kỹ thuật và quản lý hiện đại, vào việc tạo ra một nền kinh tế ngày càng có tính cạnh tranh hơn.
+ Ban hành Luật doanh nghiệp (1999) và Luật khuyến khích đầu tư trong nước (năm 1994) đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở trong nước đối với các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Kể từ năm 2000, số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài Nhà nước mới đăng ký liên tục tăng lên. Tính đến hết tháng 6/2005 đã có gần 140 nghìn doanh nghiệp mới đăng ký trong 9 năm, từ năm 1991-1999 có khoảng 40.000 doanh nghiệp đăng ký; đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký của khu vực tư nhân ở nước ta lên khoảng 180 nghìn doanh nghiệp tư nhân. Số doanh nghiệp mới đăng ký trong thời gian 2000-6/2005 cao gấp 3,5 lần so với 9 năm trước (1991-1999).
Những điều chỉnh chính sách nêu trên (cùng với nhiều chính sách cụ thể theo tinh thần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường), đã tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện và các nguồn lực đã có điều kiện tốt hơn để hướng vào những lĩnh vực có lợi thế của nền kinh tế.
2.2 Nguyên nhân của những mặt hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Thứ nhất , tuy cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô trong GPD đã có những thay đổi và tỏ ra không khác nhiều lắm so với cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô của một số nền kinh tế có trình độ công nghiệp cao hơn, nhưng nếu phân tích sâu hơn các khía cạnh phản ánh chất lượng của chúng như tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, tỷ trọng các lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ xuất khẩu có giá trị gia tăng cao …thì thấy rằng, phía sau quan hệ tỷ lệ phản ánh cơ cấungành kinh tế vĩ mô có nhiều tiến bộ, vẫn còn ẩn chứa nhiều nhân tố chưa đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Thứ hai, mặt hạn chế đặc biệt đáng lo ngại cơ cấu lao động có quá ít sự thay đổi. Phần lớn lao động tăng thêm vẫn còn nằm lại trong khu vực nông nghiệp năng suất thập và nguồn lao động vẫn chủ yếu là lao động phổ thông, không có nhiều cơ hội để tự thực hiện sự chuyển đổi một cách linh động.
Những hạn chế này chứng tỏ những chính sách công nghiệp hóa nói chung và điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói riêng tuy đã có tác dụng nhất định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức vừa phải (khoảng 7-7,5%/ năm) và chuyển dịch cơ cấu GDP ở một mức độ nhất định, nhưng còn xa mới được coi là đáng mong đợi. Vậy, có thể coi những nguyên nhân chủ yếu của những mặt hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời gian qua gồm:
Về phương diện tư duy chính sách: Vấn đề công ăn việc làm nói chung và chuyển dịch lực lượng lao động từ khu vực nông nghiệp và các ngành dịch vụ năng suất thấp sang khu vực công nghiệp chế biến và dịch vụ có giá trị tăng cao nói riêng, hiện vẫn còn 1 quan điểm chính sách tổng thể, chưa thể hiện một quyết tâm chính trị đủ lớn và mang tầm chiến lược rõ ràng, để từ đó đưa ra được một chương trình đồng bộ, có hệ thống, nhất quán và dài hạn. Trong tư duy chính sách, những nỗ lực ưu tiên vẫn nghiêng nhiều hơn về khía cạnh tăng trưởng GDP và chuyển dịch cơ cấu GDP ở tầm ngắn hạn, trong khi chưa dành sự quan tâm thỏa đáng đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động và chấ lượng của các ngành nghề.
Về phương diện triển khai thực hiện các chính sách đã ban hành: Những hạn chế về tư duy chính sách nêu trên không đồng nghĩa với việc hoàn toàn thiếu vắng các chính sách đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động có chất lượng của các ngành nghề trong nền kinh tế. Trái lại, các vấn đề nêu trên đề đã được nêu trên đề đã được đề ra thành các nội dung ở nhiều văn bản chính sách khác nhau. Ví dụ như những quy định ưu tiên đối với các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là với lao động nữ, khuyến khích áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, xác đinh một số loại ngành nghề được ưu tiên… đều đã được ban hành. Nhưng việc triển khai các chính sách này trên thực tế lại chẳng mấy khi được đúng như tinh thần của văn bản. Lý do chủ yếu là:
+ Ở góc độ chung nhất, nguồn cung lao động vẫn lớn hơn nhiều so với mức cầu, nhất là đối với lực lượng lao động phổ thông, nên những người sử dụng lao động có xu hướng duy trì mức trả lương thấp và không tuân thủ đầy đủ những quy định về điều kiện lao động mà vẫn dễ dàng tuyển dụng lao động khi cần thiết. Nói cách khác, chi phí tuyển dụng lại lao động vẫn còn rẻ hơn chi phí duy trì điều kiện lao động theo quy định của luật pháp. Đây cũng là đặc điểm đặc trưng của thị trường lao động trong điều kiện cung còn lớn hơn cầu và mức lương tối thiểu cờn ở mức thấp.
+ Quá trình đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường gặp nhiều lực cản nên có xu hướng chậm chạp về tốc độ và kéo dài thời gian, cũng đồng thời có nghĩa là những nguyên nhân chủ yếu cản trở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây vẫn tồn tại mà chưa bị loại bỏ hoàn toàn, thậm chí có xu hướng phục hồi trở lại. Thật vậy, các chế độ bao cấp, độc quyền, bảo hộ vẫn được duy trì, mà đối tượng hưởng lợi chính từ những chính sách này vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nàh nước, nhất là từ khi có chủ trương “kích cầu” của Nhà nước nhằm khắc phục tác động ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trên thế giới. Việc kéo dài chế độ bao cấp độc quyền và bảo hộ dưới tác động của các chính sách “kích cầu” đã khiến cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo thị trường để hướng các nguồn lực vào lĩnh vực có lợi thế hơn trở nên rất khó thực hiện, do chỗ các thông tin thị trường đã bị méo mó, sai lệch. Nhiều khoản tiền đầu tư lớn tư ngân sách đã được dành cho ngày càng nhiều hơn các dự án đang thực hiện dang dở, vừa chưa tạo ra được nhiều việc làm như mong đợi, lại vừa chưa thể hoàn thành để có thể đưa vào sử dụng, thậm chí nếu có hoàn thành để sử dụng thì hiệu quả lại rất kém. Những ví dụ tiêu biểu nhất về tình hình đầu tư gây nợ đọng là các công trính chậm đưa vào sử dụng ở Hà Giang, tình hình vốn đầu tư khó có khả năng thu hồi ở chương trình đánh bắt sa bờ, tình hình bảo hộ dẫn đến kém hiệu quả trong công nghiệp ô tô… đã chứng minh điều mày. Và đó cũng chính là những nguyên nhân cơ bản gây ra những mặt hạn chế, yếu kém của tình hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời gian qua.
Chương 3 : Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay
I. Những nhân tố mới ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì CNH. Tập hợp các nhân tố quyết định tăng trưởng ( vốn đầu tư, vốn tài nguyên, lao động, công nghệ, chính sách...) cũng đồng thời là những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu:
1.1 Đặc điểm mới của bối cảnh kinh tế quốc tế
Nền kinh tế thế giớ đang trong những năm đầu tiên của thiên niên kỉ mới với biến động khó lường và ảnh hưởng rất lớn đến môi trường kinh doanh của thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng. Điều này đã đặt nước ta đang phát triển, đang tiến hành công nghiệp hóa vào một tình thế hoàn toàn mới, nhất là xét về phương diện lựa chọn một cơ cấu phát triển kinh tế hợp lý. Những điểm nổi bật là:
Sự hình thành nền kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển công nghệ, kỹ thuật hiện đại
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ với với nội dung chủ yếu là cách mạng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học , công nghệ vật liệu mới , có đặc trưng nổi bật là sự sâm nhập nhanh của tri thức và công nghệ cao vào tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các quyết định xu hướng hình thành cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế thế giới đương đại phải giảm dần các lợi thế so sánh cổ điển và thay thế vào đó là lợi thế phát triển mới: khoa học- công nghệ và trí tuệ- kỹ năng của con người. Và lúc này chất lượng nguồn nhân lực được đo bằng trình độ tri thức và kỹ năng sử dụng công nghệ cao, trở thành yếu tố chủ chốt của phát triển.
Sự di chuyển của những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, thậm trí cả những ngành sử dụng nhiều vốn từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước khác tạo cơ hội cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thực hiện được CNH rút ngắn, bởi nó tạo điều kiện cho những nước “ đến muộn” tiếp xúc với công nghệ cao, hiện đại của các nước đi trước.
Đặc điểm mới của toàn cầu hóa kinh tế
Đặc điểm thứ nhất: Toàn cầu hóa tài chính chi phối quá trình toàn cầu hóa
+ Về tài chính, Toàn cầu hóa tuy không phải hiện tượng mới nhưng đang bước vào giai đoạn phát triển về chất và chịu sự dẫn dắt của toàn cầu hóa tài chính. Điều này làm cho danh giới các quốc gia ngày càng mờ nhạt , các doanh nghiệp trong nước ngày càng phải chịu sức ép trong các cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Hơn nữa các quan hệ quốc tế cũng chịu sự chi phối của nhiều chính sách tài chính, tiền tệ, đã mở ra cơ hội thu hút vốn đầu tư để đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH ở các nước đang phát triển như Việt Nạm
+Về phương diện lao động, cũng như toàn cầu hóa tài chính, sự gia tăng tốc độ và quy mô di chuyển dòng nhân lực cũng đã đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam trong công cuộc CNH, bao gồm: Cơ hội cho người lao động ở các nước đang phát triển đi ra nước ngoài tìm việc( xuất khẩu lao động) tăng lên kéo theo sự gia tăng của thu nhập lẫn mức sống…Tăng quy mô tổng cầu kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải gánh chịu trong thời kì này đó là tình trạng “ chảy máu chất xám” đang diễn ra. Vì vậy hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử, chính sách trọng dụng nhân tài trở thành một vấn dề mang tầm vóc chiến lược.
+ Đối với lĩnh vực thương mại hóa và dịch vụ, do ảnh hưởng của cả thế giới giai đoạn này phát triển mạnh về thương mại và dịch vụ nên Việt Nam cũng đang phát triển khá nhanh về dịch vụ và thương mại.
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu ngành vĩ mô ( từ nông nghiệp sang công nghiệp và từ công nghiệp, nông nghiệp sang dịch vụ) Việt Nam cũng như những nước đang CNH ngày nay còn có cơ hội chuyển dịch cơ cấu vi mô( cấp doanh nghiệp) theo hướng hội nhập quốc tế. Muốn rút ngắn thì phải nhờ một phần quan trọng từ chính sách thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu với cách tiếp cận này.
- Đặc điểm thứ hai: Sự hình thành mạng lưới quốc tế và mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, mạng lưới sản xuất quốc tế hình thành và phát triển đã đem lại cho hoạt động sản xuất trên toàn cầu, với đầu tầu là các công ty xuyên quốc gia’
Bước sang thế kỉ XXI, các nước thực hiện CNH ngày nay đang phải đối mặt với tình hình: Trong khi những nhiệm vụ của quá trình công nghiệp chưa hoàn tất thì thế giới đã đang chuyển sang một thời kì phát triển mới, thời kì kinh tế tri thức mà đặc điểm là sự gia tăng của khu vực dịch vụ với hàm lượng lao động trí tuệ ngày càng cao. Đồng thời, khuynh hướng toàng cầu hóa, dựa trên những nguyên lí cơ bản của kinh tế thị trường đã trở thành phổ quát. Quá trình CNH- HĐH trong bối cảnh mới này đang đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trong tư duy phát triển mà chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Điểm xuất phát trong tư duy mới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hiện nay là những đặc điểm của kinh tế tri thức trong thời đại toàn cầu hóa. Là một nước đến muộn, vấn đề đầu tiên là làm thế nào để xâm nhập, chen chân vào mạng lưới thị trường đang cạnh tranh gay gắt, chọn lựa được một chỗ đứng trên thị trường là vấn đề vô cùng khó khăn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Các chiến lược cơ cấu và sự điều chỉnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia không chỉ thuần túy được nhìn nhận từ góc độ chuyển dịch ngành kinh tế của mỗi quốc gia như cách tiếp cận truyền thống. Để CNH, chính sách cơ cấu ngành kinh tế tuy về mặt tổng quát vẫn là từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại và thêm vào đó là chuyển sang dịch vụ hiện đại, nhưng cách thức chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày nay còn phải tính đến sự hoạt động của mạng lưới đa quốc gia với mạng lưới thông tin toàn cầu. Nghĩa là giờ đây phải thông qua việc gia nhập các chuỗi giá trị toàn cầu để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi quốc gia khi tiến hành CNH- HĐH. Đó chính là cái khác của quá trình CNH mới sao với CNH trước đây, khi trước đây chủ yếu diễn ra sự phân công lao động quốc tế qua cung cấp sản phẩm chứ không qua chuyên môn hóa.
Những động thái mới nhất của thị trường thế giới
Xu hướng dân số và sự thay đổi cầu: Tình trạng lão hóa dân số ngày càng trở thành vấn đề nổi cộm của nhiều nước công nghiệp phát triển, nơi mà mức thu nhập tính theo đầu người rất cao. Xu hướng già đi của các nước công nghiệp phát triển chắc chắn sẽ làm thay đổi xu hướng tiêu dùng của kinh tế thế giới so với hiện nay. Những xu hướng phát triển các ngành sản xuất và phục vụ giành cho hoạt động an dưỡng, chăm sóc sức khỏe…, sẽ gia tăng nhiều hơn. Vì vậy mà cơ cấu các ngành cũng phải thay đổi.
Giá cả thế giới hiện nay: Cùng với sự thay đổi về cơ cấu dân số và cơ cấu tiêu dùng , một trạng thái mới nữa là xu hướng gia tăng của cả thế giới trong mấy năm gần đây đang có xu hướng tăng lên một cách vượt bậc. Môi trường kinh tế quốc tế cũng có những bước chuyển vượt bậc. Nhiều xu hướng phát triển xuất hiện: Tốc độ quy mô tự do hóa, kết cấu hoạt động sản xuất và kinh doanh đang ở mức độ tổng quát làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch sang thời kì mới, thời kì hậu công nghiệp với nền kinh tế tri thức.
Tính chất đang giao thời( chưa định hình chưa chuẩn mực) tuy mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng gây ra không ít khó khăn cho việc định hình chính sách lựa chọn cơ cấu kinh tế và hướng chuyển dịch cơ cấu của của các nước đang CNH như nước ta.
1.2 Điểm xuất phát mới của kinh tế Việt Nam
Ở phần trên khi phân tích về thực trạng cơ cấu kinh tế, chúng ta thấy rõ phần nào điểm xuất phát hiện nay của Việt Nam trong hành trình CNH. Phần này tập trung vào những khía cạnh phản ánh tính bức xúc của việc phải đẩy nhanh hơn nữa tiến trình thực hiện CNH trước những áp lực đua tranh mang tính thờ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở việt nam.doc