MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN 1
I. Cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 1
1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế : 1
1.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế: 1
1.1.2 Cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế: 3
1.2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 3
1.2.1 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 3
1.2.2 Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế: 4
1.3. Các mô hình về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 5
1.3.1 Mô hình 2 khu vực của Lewis: 5
1.3.2 Mô hình 2 khu vực của trường phái tân cổ điển: 8
1.3.3 Mô hình 2 khu vực của Oshima: 11
1.4. Ý nghĩa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến phát triển kinh tế. 13
I) Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long 15
2.1. Thực trạng về các ngành nông nghiệp ở vùng Đồng Bằng sông Cửu Long 15
2.1.1. Sản lượng về nuôi trông thuỷ sản : 15
2.1.2. Sản lượng 1 số ngành nông nghiệp nông thôn ĐBSCL: 15
2.2.Những kết quả đạt được và những hạn chế trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL 16
2.2.1.Những kết quả và thành tựu đạt được 16
2.2.2.Những hạn chế, thách thức và nguyên nhân 18
II) Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vùng DBSCL: 20
3.1. Định hướng phát triển các ngành nông nghiệp nông thôn Vùng DBSCL 20
3.2. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá các ngành nông nghiệp nông thôn vùng DBSCL: 21
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3884 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một mức độ nhất định còn giải thích nguồn gốc của những hậu quả xã hội, sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế .
Cơ sở nghiên cứu của mô hinh Lewis là từ Ricardo. Trong nghiên cứu của mình , Ricardo đã đưa ra hai vấn đề : một là , khu vực nông nghiệp có lợi nhuận biên giảm dần theo qui mô và tiến tới bằng không ( nguyên nhân của hiện tượng này là do qui mô sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng lên đòi hỏi phải sử dụng đất đai ngày càng xấu hơn , dẫn đến chi phí sản xuất tăng dần khi sản xuất một tấn lương thực , với mức tăng cho trước ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục nhỏ hơn ở đầu ra .Ông cho rằng lao động dư thừa ở nông thôn về hình thức khác với lao động dư thừa ở thành thị . Ở thành thị , lao động được coi là dư thừa khi họ có khả năng lao động , có mong muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm . Còn ở nông thôn thì không phải như vậy , hiện tượng phổ biến ở đây là mọi người đều có việc làm nhưng với năng suất lao động ngày càng thấp , các thành viên trong gia đình phải chia việc ra để làm . Sản phẩm biên của lao động giảm dần và tiến tới bằng không . Hiện nay các nhà kinh tế gọi là thất nghiệp trá hình ( vô hình hoặc bán thất nghiệp).
Do đó khu vực nông nghiệp mang tính trì trệ tuyệt đối , cần phải giảm dần qui mô và tỉ trọng đầu tư . Cần xây dựng công nghiệp để thu hút lao động
Tpm3(K3)
TPM2(K2)
TPM1(K1)
TPA
A1
A2
A3
TPM1
LA
LA1
LA2
TPM3
TPM2
M1
M2
M3
0
0
LM1
LM2
LM3
TPM
LM
ADL,MDL
MDL
ADL
A
LA2
WM
WM1
WM
D1
D2
D3
D4
D5
E1
E2
E3
E4
E5
SLM
LM1
LM2
LM3
LM4
LM
LA
O
O
Hàm sản xuất với các yếu tố L, K,T
Sản phẩm biên nông nghiệp giảm dần và =0 ( khai thác hết đất và lao động tiếp tục đưa vào )
Nguyên tắc là tiền lương bằng với sản phẩm biên. Khi sản phẩm biên bằng 0 thì tiền lương bằng sản phẩm trung bình.
Trong điều kiện dư thừa lao động thì tiền lương trong nông nghiệp chỉ ở mức tối thiểu
Khu vực công nghiệp trả cao hơn 30% để thu hút lao động
Hết lao động dư thừa thì tiền lương mới tăng ( đường cung lao động dốc lên )
Khi lao động vẫn còn thừa , đường cầu lao động càng lớn thì lợi nhuận cho nhà tư bản càng lớn ; cơ sở của sự tích luỹ và phân hoá xã hội
Khi hết dư thừa , tiền lương tăng làm lợi nhuận công nghiệp giảm , bất binhg đẳng giảm
Cần đầu tư lại vào nông nghiệp để giảm cầu lao động ở khu vực nông nghiệp
Tóm lại : Mô hình Lewis giải quyết mối quan hệ giữa hai khu vực trong qua trình tăng trưởng . Khi nông nghiệp có dư thừa lao động thì tăng trưởng kinh tế được quyết định bởi khả năng tích luỹ và đầu tư của khu vực Công nghiệp .Chỉ ra được những hệ quả về mặt xã hội , lí giải được mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng xã hội trong mô hình chữ U ngược (Kuznet)
Tuy nhiên còn một vài giả định không thực tế :
-Tỉ lệ lao động thu hút sang khu vực công nghiệp tương ứng với tỉ lệ vốn tích luỹ ở khu vực này ( thâm dụng vốn hoặc đầu tư nơi khác ).
Thành thị không có thất nghiệp.
Nông thôn có thể giải quyết được việc làm mà không cần phải chuyển ra thành phố .
Tiền lương công nghiệp không tăng ( thực tế vẫn tăng do nhu cầu về lao động tay nghề và công đoàn ).
1.3.2 Mô hình 2 khu vực của trường phái tân cổ điển:
Một trong những điểm mới trong tư tưởng nghiên cứu của các nhà kinh tế của trường phái tân cổ điển là đặt khoa học công nghệ ( T là một yếu tố trực tiếp và mang tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế .
Khu vực nông nghiệp :
Con người có thể cải tạo và nâng cao chất lượng ruộng đất . Với lập luận đó , đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông nghiệp với yếu tố lao động biến đổi TPA=F(LA) của trường phái tân cổ điển sẽ luôn có xu thế dốc lên , thể hiện ở sơ đồ sau:
TPA
TPA=f(LA)
LA
Đường hàm sản xuất trong nông nghiệp tân cổ điển
Qua sơ đồ ta thấy mặc dù đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông nghiệp không có phần nằm ngang nhưng độ dốc cũng có xu thế giảm dần , tức là với một số lượng lao động tăng lên bằng nhau , càng về sau thì mức tăng lên của tổng sản phẩm ngày càng giảm đi . Biểu hiện trì trệ này được giải thích bởi qui luật lợi nhuận biên giảm dần theo qui mô, cho dù có sự tác động của khoa học công nghệ nhưng đất đai trong nông nghiệp vẫn có dấu hiệu giảm đi về số và chất lượng , nên sản phẩm biên của lao động không bằng không nhưng có chiều hướng giảm dần . Sản phẩm biên trong nông nghiệp luôn dương nên tiền công được trả theo mức lao động cận biên . Đường cung lao động trong nông nghiệp vì thế không có đoạn nằm ngang ( hơi dốc lên ) .Tân cổ điển coi công nghệ (T) là yếu tố trực tiếp quyết định tăng trưởng
LA
W
SLA
Đường cung lao động nông nghiệp
* Khu vực công nghiệp :
Sản phẩm biên của lao động khu vực nông nghiệp luôn dương , khi chuyển dịch lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp sẽ làm tăng liên tục sản phẩm cận biên của lao động còn lại trong nông nghiệp , cho nên khu vực công nghiệp phải trả mức tiền công ngày càng cao hơn cho số người lao động chuyển từ nông nghiệp ngày càng nhiều . Khi lao động chuyển khỏi nông nghiệp làm cho đầu ra( tổng sản phẩm ) của nông nghiệp giảm xuống và kết quả là giá cả nông sản ngày càng cao, tạo ra áp lực phải tăng lương cho người lao động khu vực công nghiệp .
LM
W
WM1
WM2
DLM1
SLM
Đường cung cầu lao động khu vực công nghiệp
Tân cổ điển cho rằng để cho quá trình trao đổi giữa hai khu vực không tạo ra những bất lợi ngày càng nhiều cho công nghiệp thì các nhà tân cổ điển cho rằng cần phải đầu tư cả cho nông nghiệp ngay từ đầu chứ không phải chỉ quan tâm đến đầu tư cho công nghiệp. Việc đầu tư cho nông nghiệp phải được thực hiện theo hướng nâng cao năng suất lao động ở khu vực này để mặc dù rút bớt lao động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp nhưng không ảnh hưởng đến sản lượng lương thực , thực phẩm , giá nông sản không tăng , giảm áp lực tăng giá tiền công lao động công nghiệp . Mặt khác để giảm bớt áp lực , khu vực công nghiệp một mặt , cần đầu tư theo chiều sâu để giảm cầu lao động ; mặt khác , khu vực này cần tập trung đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá xuất khẩu để đổi lấy lương thực , thực phẩm nhập khẩu từ nước ngoài về . Tuy khu vực nông nghiệp không có thất nghiệp nhưng vẫn có biểu hiện trì trệ tương đối so với công nghiệp tức là với một số lượng lao động bổ sung cho nông nghiệp bằng nhau nhưng mức tổng sản phẩm gia tăng có xu hướng ngày càng giảm , vì vậy nên giảm tỉ trọng đầu tư khu vực nông nghiệp .
1.3.3 Mô hình 2 khu vực của Oshima:
Harry T. Oshima là nhà kinh tế người Nhật bản , ông nghiên cứu mối quan hệ giữa 2 khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước chấu Á so với các nước Âu- Mỹ , đó là nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao. Tỏng tác phẩm “ tăng trưởng kinh tế ở các nước châu á gió mùa “ Oshima đã đưa ra quan điểm mới về mô hình phát triển và mối quan hệ công – nông nghiệp dựa trên những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp và hoạt động kinh tế châu Á.
Theo Oshima, dư thừa lao động khu vực nông nghiệp không phải lúc nào cũng xảy ra nên mô hình Lewis không thik hợp với đặc điểm Châu Á, nhất là những vùng lúa nước. Oshima cho rằng về mặt lí thuyết thì trường phái tân cổ điển hoan toàn đúng khi họ đặt vấn đề phải đầu tư từ đầu cho Nông nghiệp và công nghiệp hay quan điểm của Ricardo là mô hình phát triển phải bắt đầu từ khả năng xuất khẩu Công nghiệp để nhập khẩu lương thực , tuy nhiên hai quan điểm này là thiếu thực tế trong điều kiện các nước đang phát triển ( thiếu nguồn lực vốn đầu tư , lao động , kĩ năng quản lí và quan hệ quốc tế ).
Oshima : đầu tư phát triển nền kinh tế theo 3 giai đoạn với mục tiêu và nội dung khác nhau .
Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng :
Tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp . Phù hợp với khả năng vốn , trình độ kĩ thuật của nông thôn trong giai đoạn đầu .
Biện pháp :
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp , xen canh , tăng vụ trồng thêm rau quả , cây lấy củ , mở rộng chăn nuôi , trông cây lâm nghiệp .
Hỗ trợ của nhà nước để nâng cao năng suất : hệ thống tưới , vận tải nông thôn , giáo dục và điện khí hoá nông thôn .
Cải tiến các tổ chức : tổ chức dịch vụ, tổ chức tín dụng
Tăng xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ ( nhập khẩu máy móc cho công nghiệp nhiều lao động )
Kết thúc khi nông nghiệp có qui mô lớn .
* Giai đoạn hai:
Hướng tới việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng thời nông nghiệp và công nghiệp ( theo chiều rộng )
Biện pháp :
-Tiếp tục đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp .
-Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản hàng hoá .
-Phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp (nông cụ cải tiến ).
-Phát triển ngành sản xuất phân bón , giống , các yếu tố đầu vào .
-Hoạt động đồng bộ từ sản xuất , vận chuyển ,bán hàng , tín dụng.
Phát triển nông nghiệp tạo nhu cầu tăng qui mô công nghiệp và dịch vụ.
Kết thúc khi tăng trưởng việc làm nhanh hơn tăng trưởng lao động , tiền lương thực tế tăng .
* Giai đoạn ba:
Phát triển kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động
Công nghiệp trong nước bắt đầu vươn ra nước ngoài .
Dịch vụ phát triển phục vụ công nông nghiệp tăng mạnh làm thiếu lao động .
Biện pháp:
-Nông nghiệp cần sủ dụng máy móc để thay thế lao động , áp dụng công nghệ sinh học để tăng sản lượng ( Lewis model).
-Công nghiệp hướng xuất khẩu cũng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm .
Kết thúc khi nền kinh tế đã phát triển đến giai đoạn cao nhất .
Oshima: tăng trưởng nhanh dẫn đến phân hoá xã hội và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập .
1.4. Ý nghĩa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến phát triển kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là bộ phận cấu thành rất quan trọng của nền kinh tế quốc dân , có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta . Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là tổng thể của kinh tế bao gồm mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong những khoảng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Sau khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị và nhiều chính sách mới được ban hành đã giải được những khả năng buộc phong kiến phi kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn , tạo cho nông nghiệp đạt được những thành tựu to lớn góp phần từng bước chuyển nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá .Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và nông thôn nói chung đã và đang có sự khởi sắc , sản xuất phát triển đời sống nhân dân được cải thiện . Mặt khác , việc chuyển dịch cơ cấu ngành , theo vùng , lãnh thổ , theo các thành phần kinh tế , theo cơ cấu kĩ thuật công nghệ hường tới nền sản xuất hàng hoá và đạt được nhiều tiến bộ đáng kể.
Thế nhưng trong phạm vi của từng vùng trong nước thì không hẳn thế. Do có sự phát triển không đều giữa các vùng trong nước, quá trình đó diễn ra ở các vùng không giống nhau: ở vùng kinh tế phát triển, quá trình đó diễn ra theo trình tự chung còn ở vùng kinh tế kém phát triển, quá trình đó có thể bắt đầu từ việc phá thế độc canh hoá chuyển sang đa canh lúa, màu phát triển chăn nuôi và bước tiếp theo là phát triển các ngành tiểu, thủ công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là: tỉ trọng nông nghiệp ngày càng giảm và tỉ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn còn phải có sự quan hệ rất nhiều tới các ngành khác như phát triển nông nghiệp hàng hoá phải chịu sự tác động mạnh mẽ của Công nghiệp và nông nghiệp không thể tự đi lên nếu không có sự tác động trực tiếp của một nền công nghiệp phát triển và được các ngành nghề mới trong nông nghiệp.
Trong nông nghiệp và nông thôn, đi cùng với sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn là sự phân công lao động cũng được diễn ra . Từ lao động trồng lúa chuyển sang lao động trồng hoa màu chăn nuôi , làm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ,nó không chỉ phụ thuộc vào phục vụ cho cả nhu cầu phát triển nông nghiệp mà còn phục vụ cho cả nhu cầu phát triển công nghiệp , thương nghiệp và các ngành doanh nghiệp khác .
Từ thế kỉ 20 đã chứng minh và xác định khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển và đổi mới như vũ bão , tính cộng đồng trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngày càng cao, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của 1 nước không thể tách rời với sự phát triển kinh tế của cộng đồng quốc tế hay cũng như không tách rời sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn với cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế chung của cả nước.
Mặt khác, sự phân hoá giàu nghèo ở nông nghiệp và nông thôn không thể tránh khỏi , nó diễn ra theo hướng : khi sản xuất hàng hoá kém phát triển thì khoảng cách đó tương đối doãng ra , khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao thì khoảng cách đó thu hẹp lại và có thể trở lại khoảng cách ban đầu ( nhưng ở trình độ cao hơn ). Điều đó chứng tỏ sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết quả, vừa là động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thêm vào đó, ở đâu có trình độ dân trí thấp thì ở đó việc xác lập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đương nhiên là gặp nhiều khó khăn và khó tránh khỏi sai lầm . Điều này cũng chứng tỏ rằng với trình độ dân trí hay mặt bằng trong giáo dục có chịu sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn .
Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long
2.1. Thực trạng về các ngành nông nghiệp ở vùng Đồng Bằng sông Cửu Long
2.1.1. Sản lượng về nuôi trông thuỷ sản :
*Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản (nghìn ha)
2003
2004
2005
2006
2007
2008
621,3
658,5
680,2
691,2
723,8
752,2
*Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng: ( tấn )
2003
2004
2005
2006
2007
2008
634798
773293
1002805
1166775
1526557
1838638
*Sản lượng tôm nuôi theo địa phương: (tấn)
2003
2004
2005
2006
2007
2008
182221
222643
265761
286837
309531
307070
2.1.2. Sản lượng 1 số ngành nông nghiệp nông thôn ĐBSCL:
* Số hợp tác xã :
2003
2004
2005
2006
2007
2008
656
698
758
567
775
753
* Diện tích lúa cả năm : (nghìn ha)
2003
2004
2005
2006
2007
2008
3787,3
3815,7
3826,3
3773,9
3683,1
3858,9
*Sản lượng lúa cả năm ( nghìn tấn):
2003
2004
2005
2006
2007
2008
17528
18567,2
19298,5
18229,2
18678,9
20681,6
2.2.Những kết quả đạt được và những hạn chế trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL
2.2.1.Những kết quả và thành tựu đạt được
Đối với gạo - một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, với phương châm “muốn đẩy mạnh xuất khẩu gạo trước hết phải có giống tốt”, trong những năm gần đây, công nghệ hạt giống được quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều tiến bộ. Sản lượng và chất lượng gạo của Việt Nam, vì thế, đã có những bước cải tiến đáng kể. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa trong những năm gần đây mỗi năm một giảm (trung bình mỗi năm giảm khoảng 40 ngàn - 50 ngàn ha) do chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp và đất nông nghiệp được thu hồi để làm đường, làm nhà... phục vụ công nghiệp, nhưng sản lượng lúa của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng đều qua từng năm, mỗi năm sản lượng lúa tăng trung bình 600 ngàn - 700 ngàn tấn. Việc nghiên cứu tạo nhiều giống lúa lai ngắn ngày, phù hợp với điều kiện đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã mang lại năng suất, chất lượng cao. Chiến lược thành công nhất của ĐBSCL trong 20 năm qua là tạo được giống lúa cực sớm nên đã “bội thu” nhờ diện tích lúa vụ hè - thu tăng lên 1,4 triệu - 1,5 triệu ha và năng suất tăng từ 2 tấn lên 10 tấn. Nông nghiệp ĐBSCL đã đóng góp 50% sản lượng cho an ninh lương thực quốc gia và chiếm tới 80% sản lượng gạo phục vụ xuất khẩu.
Tiêu chí chất lượng gạo cũng ngày càng được chú trọng. Đây là một thành công trong xuất khẩu gạo của năm 2007. Trước đây, mỗi tấn gạo xuất khẩu cùng cấp hạng của Việt Nam thấp hơn Thái Lan 20 USD - 40 USD, làm thiệt cho chúng ta khoảng 80 triệu USD, nhưng nay, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học vào chọn tạo giống, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra được những giống lúa chất lượng cao, giảm sự chênh lệch này xuống còn 2 USD - 5 USD, thậm chí có thời điểm bằng 0. Điều này thể hiện những bước tiến vượt bậc trong công nghệ hạt giống.
Gạo xuất khẩu của ĐBSCL chủ yếu là loại 15% - 25% tấm; loại 5% tấm không nhiều và gạo thơm thì 2 năm 2006 - 2007 chỉ xuất vài trăm ngàn tấn. Tình hình xuất khẩu tôm sú hiện đang khó khăn vì vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của con tôm thẻ chân trắng ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của ĐBSCL năm 2008 đạt gần 2,5 tỷ USD, chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Riêng mặt hàng cá tra, cá ba sa đóng góp 2% GDP của cả nước và khoảng 32% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản.
Thời gian qua, nuôi tôm sú trở thành một trong những ngành chủ lực, góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ĐBSCL nhưng cũng đã gây ô nhiễm môi trường cục bộ tại các vùng nuôi, gây bất lợi cho hệ sinh thái nước lợ. Tình trạng buông lỏng quản lý con giống tại ĐBSCL dẫn đến nhiều đàn tôm sú giống kém chất lượng, thậm chí nhiễm bệnh đã được nhập vào đây, dẫn đến hàng trăm ngàn ha nuôi không hiệu quả. Trong năm 2008 có 148.000 ha tôm tại đây bị chết, tập trung tại Cà Mau với 57.789 ha, Kiên Giang 40.000 ha, Sóc Trăng 28.000 ha, Bạc Liêu 19.000 ha. Tỉ lệ tôm chết từ 20 – 75% làm người nuôi thiệt hại 165 tỉ đồng. Chỉ có khoảng 45% số hộ nuôi tôm sú ở ĐBSCL có lãi. Số còn lại hòa vốn hoặc lỗ.
Sức mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở ĐBSCL đã đem lại “luồng gió mới” cho nghề nuôi thủy sản. Nhiều người nuôi tôm sú, cá tra, cá ba sa giàu lên nhanh chóng. Nhưng, người giàu nhờ nuôi tôm sú, cá tra, cá ba sa đa phần là các “đại gia”. Họ không phải là nông dân mà là doanh nghiệp, có vốn, biết áp dụng khoa học kỹ thuật.
Theo Cục Nuôi trồng Thủy sản (Bộ Nông nghiệp & PTNT), năm 2009, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đưa diện tích nuôi tôm sú lên 566.000, tăng 27.000 ha so năm 2008, tập trung tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre . Để bảo đảm thắng lợi, các tỉnh qui hoạch phát triển các vùng nuôi phù hợp với môi trường; hoàn thiện thêm một bước hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản nói chung và tôm sú nói riêng; tăng cường lành mạnh hóa môi trường nước bằng các biện pháp kiểm soát chất thải, kiểm tra, xử lý nghiêm các cơ sở, cá nhân gây ô nhiễm môi trường; siết chặt việc quản lý, kiểm soát con giống, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng đưa tôm giống kém chất lượng vào nuôi; phổ biến rộng hơn kỹ thuật nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, thâm canh đến tận cơ sở. Đặc biệt khuyến khích nông dân mở rộng áp dụng mô hình “nuôi tôm cộng đồng”.(Tất cả các thành viên trong tổ, nhóm nuôi cùng thả một loại tôm giống, ngày thả, vệ sinh ao nuôi... nên hạn chế được dịch bênh. Nếu dịch bệnh xảy ra thì cộng đồng thông tin cho nhau để cùng thống nhất cách phòng trừ kịp thời...) và mô hình “nuôi tôm sinh thái”. (Không thả tôm giống mật độ dày mà áp dụng như mô hình tôm lúa (2,5con/m2/vụ); sử dụng thức ăn tự nhiên; sử dụng ít phân hữu cơ để tạo màu trong nước nên không làm ô nhiễm môi trường, do đó, không cần xử lý nước thải. Chi phí rất thấp nhưng năng suất ổn định 200kg/ha).
2.2.2.Những hạn chế, thách thức và nguyên nhân
Diện tích lúa canh tác mỗi năm mỗi giảm, trong khi năng suất lao động nông nghiệp rất thấp, cơ cấu kinh tế nông thôn ít thay đổi. Nông nghiệp chiếm 68% tỷ trọng kinh tế nông thôn, đóng góp 79% cơ cấu kinh tế hộ nông dân, trong đó trồng trọt chiếm 50%. Quá trình chuyển lao động ra khỏi nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng diễn ra rất chậm. Mức đầu tư cho nông nghiệp hằng năm đạt chưa tới 10% ngân sách nhà nước.
Đời sống của người nông dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nghèo. Dù chúng ta đã đạt được nhiều thành quả về xuất khẩu lúa gạo, nhưng nông dân trồng lúa vẫn là những người nghèo cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Mặc dù sản lượng lương thực mỗi năm lại tăng hơn một triệu tấn, nhưng thu nhập của người trồng lúa thì vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu. Năm 2005, mức tiêu dùng của người phi nông nghiệp so với của nông dân cách nhau 2,6 lần.
Vệ sinh an toàn thực phẩm xuất khẩu dù đã được kiểm soát nhưng vẫn còn trong tình trạng bơm tạp chất (như rau câu) vào tôm xuất khẩu. Việc sử dụng thuốc kháng sinh, hóa chất trong nuôi tôm cá vẫn còn ở mức báo động. Bằng chứng là gần đây nhiều lô hàng tôm xuất khẩu bị trả lại. Tôm, cá ở ĐBSCL xuất khẩu chủ yếu ở dạng đông lạnh nguyên con hoặc phi lê. Sản phẩm chế biến chất lượng cao, ăn liền chỉ khoảng 10%.
Cái cảnh “ùn ùn làm theo” cũng không ngoại lệ với nông dân nuôi thủy sản. Theo các nhà khoa học địa phương, việc mở rộng diện tích nuôi thủy sản nóng vội, tự phát, không theo quy hoạch đã dẫn đến những hậu quả khôn lường. Ở các tỉnh ven biển Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng… năm nào tôm nuôi cũng chết hàng loạt. Có nhiều nguyên nhân: giống kém chất lượng, thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi; thiếu vốn; đặc biệt là hệ thống thủy lợi nội đồng yếu, xuống cấp trầm trọng. Cùng một con kênh, người nuôi tôm chết, thải nước ra, người khác lấy vào nuôi, lại tiếp tục thiệt hại theo kiểu “dây chuyền” mà địa phương nào ở các vùng ven biển cũng gặp phải.
Tuy ngân hàng chỉ đáp ứng 10% số vốn vay cho người nuôi thủy sản nhưng hiện nông dân bị thất tôm ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, không có khả năng chi trả vốn lãi ngân hàng lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Những ngày cuối tháng 3 đầu tháng 4-2008, người nuôi cá tra, cá ba sa đang “gặp nạn”. Đó là giá cá rớt thê thảm, nhiều người nuôi phá sản. Nguyên nhân chính là ngân hàng tạm ngưng cho người nuôi cá và doanh nghiệp chế biến cá vay vốn.
Giá đầu vào cá tra trên 15.500 đồng/kg, nhưng bán ra chỉ 13.000 đồng và lại bán rất khó. Cá tới kỳ thu hoạch, nhiều hộ không còn tiền mua thức ăn cho cá, đành “năn nỉ” doanh nghiệp bán giá rẻ, chịu lỗ rồi “treo hầm”. Một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng là diện tích nuôi cá tra, cá ba sa tăng lên chóng mặt, mạnh ai nấy làm, thiếu sự gắn kết giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến. Vì thế, khi cá có giá, người nuôi “làm mình, làm mẩy”; khi cá mất giá “dội chợ”, doanh nghiệp “chê ỏng, chê eo”; âu cũng là lẽ thường tình.
Một vấn đề khác là diện tích cá tra, cá ba sa phát triển tràn lan đã làm nhiều vùng nuôi trở nên ô nhiễm (có hộ cá chết cả trăm tấn) vì thức ăn thừa thải ra các sông rạch. Nhiều nhà khoa học trong vùng lo ngại về tình hình nuôi cá tràn lan không kiểm soát được, tương lai không xa, sông Hậu, sông Tiền và các nhánh kênh rạch “vệ tinh” xung quanh sẽ trở thành “bãi rác”.
Việc thực hiện hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân ở mức rất thấp. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến giá cả nông sản, thực phẩm còn bấp bênh. Ví như, vào chính vụ thì giá mía, tôm, cá tra, cá ba sa chựng lại hoặc tụt xuống; cuối vụ khan hàng thì giá leo thang.
Việt Nam đã gia nhập WTO. Vì thế, nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản ở ĐBSCL sẽ gặp khó khăn trong cạnh tranh vì phải mở cửa thị trường. Nông sản ĐBSCL chỉ có thế mạnh về giá nhưng yếu về chất lượng nên khó vào được thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Công nghệ sau thu hoạch và chế biến tuy có những bước đổi mới nhưng vẫn còn lạc hậu.
Tình trạng tranh mua, tranh bán của các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản vẫn xảy ra, gây tổn thất cho người sản xuất và lợi ích chung của quốc gia. Với phương thức kinh doanh lạc hậu, các doanh nghiệp ĐBSCL khó duy trì thị phần trên “sân nhà”, vì thị trường Việt Nam mở cửa đón các doanh nghiệp nước ngoài
Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vùng DBSCL:
3.1. Định hướng phát triển các ngành nông nghiệp nông thôn Vùng DBSCL
Vị trí địa lý của ĐBSCL có nhiều thuận lợi để phát triển theo hướng kinh tế mở: kết hợp giữa nông nghiệp, công nghiệp và kinh tế biển. Chú ý phát triển nông nghiệp, nông thôn vừa là mục tiêu, vừa là nguồn lực; đồng thời bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và chủ động sống chung với lũ.
Phát triển công nghiệp (chủ yếu là chế biến) phải gắn với vùng nguyên liệu và thị trường. Xây dựng vùng lúa xuất khẩu, vùng trái cây tập trung và vùng nuôi thủy sản (nước mặn và nước ngọt) quy mô lớn. Chú trọng vai trò kinh tế hộ, trong đó chuyển từ kinh tế hộ tiểu nông sang kinh tế hộ trang trại gắn với hợp tác xã. Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển nhanh những doanh nghiệp lớn mạnh, với đội ngũ doanh nhân tầm cỡ làm đầu tàu.
Tiến sĩ Võ Hùng Dũng, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Cần Thơ đưa ra 5 giải pháp thúc đẩy phát triển là: cơ sở hạ tầng (chủ yếu là giao thông), nguồn nhân lực, đô thị hóa, an ninh lương thực và hợp tác với TPHCM. Từ lâu, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, đô thị hóa là 3 điểm yếu cơ bản làm ảnh hưởng đến thu hút đầu tư. Vì thế cần phải làm quyết liệt. Cần chú ý đến cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông ở nông thôn để thu hút các nhà đầu tư. Các tỉnh, thành ở ĐBSCL hiện nay hầu hết đã có trường đại học. Tuy nhiên, phải mở nhiều hơn nữa các trường dạy nghề, đặc biệt cho nông dân; về lâu dài sẽ “biến” họ thành công nhân nông nghiệp.
Phải đầu tư để hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, từ đó quy hoạch vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Các tỉnh ĐBSCL cần kết hợp lại, thiết lập trật tự cho vùng nuôi tôm sú; v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110924.doc