Tiến trình toàn cầu hóa luôn gắn liền với sự phát triển của các công ty đa quốc gia (Mutinationals hoặc Multi Nations Company - MNC). Quy mô vốn đầu tư nước ngoài, khả năng công nghệ và thị trường sản phẩm được chiếm phần lớn bởi các công ty này, trong khi đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố quan trọng cho quá trình hội nhập của các nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Quá trình đầu tư, sản xuất và kinh doanh của MNC được chuyên môn hóa cao độ, để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, từng khâu trong quá trình sản xuất được đảm nhiệm bởi các chi nhánh, công ty con ở các quốc gia khác nhau và có một chi nhánh làm công việc hoàn chỉnh sản phẩm đưa ra thị trường. Từ đây sản phẩm được xuất đi khắp các nước.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1896 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển giá quốc tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khi cạnh tranh thu hút vốn FDI tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn FDI hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.
-Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động FDI giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình FDI vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh.
II. ÁP LỰC CẢI CÁCH THUẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu khách quan. Theo đó hội nhập quốc tế về thuế ngày càng rộng và càng sâu, nhằm khuyến khích đầu tư, tự do hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Ngoài việc phải xây dựng hệ thống chính sách thuế tương thích, công tác quản lý thuế phải được cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi, đồng nhất về thuế để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Sự hội nhập buộc Chính phủ VN phải làm nhiều nỗ lực trong việc cải cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Bởi lẽ, chính sách này liên quan đến nhiều mặt kinh tế xã hội, không những đến sự củng cố nguồn lực tài chính công, kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế.
2.1. Thực trạng hệ thống Thuế Việt nam
Tính đến nay, hệ thống thuế nước ta bao gồm 10 sắc thuế chủ yếu, được chế tài bằng 6 luật, 4 pháp lệnh, áp dụng thống nhất đối với mọi đối tượng nộp thuế của các thành phần kinh tế. Các khoản thu khác có quy mô nhỏ, mang tính chất chi phí, lệ phí như thuế môn bài, lệ phí trước bạ được quy định bởi các văn bản pháp quy có giá trị pháp lý thấp hơn, tạo nên nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Hệ thống thuế đã từng bước khắc phục những yếu kém của hệ thống cũ trên các mặt sau:
- Xóa bỏ sự phân biệt đối xử về thuế giữa các thành phần kinh tế thông qua việc ban hành và áp dụng các chế độ nghĩa vụ khác nhau như chế độ thu quốc doanh, chế độ phân phối, trích nộp lợi nhuận, chế độ thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế công thương nghiệp …
- Tăng cường được tính pháp quy của hệ thống thuế. Trước đây hình thức cao nhất chỉ là pháp lệnh về thuế.
- Giảm phức tạp cả về phạm vi, đối tượng chịu thuế và cơ sở tính thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm … Do đó, khắc phục tình trạng hiểu luật theo nhiều nghĩa đều có thể đúng, hạn chế tình trạng tùy tiện thỏa thuận các vấn đề về thuế hoặc ban phát sự miễn giảm thuế …
- Bước đầu giảm bớt một phần các mục tiêu nhiệm vụ gắn cho thuế, kể cả mục tiêu, nhiệm vụ giải quyết “chính sách xã hội”. Các mục tiêu, nhiệm vụ nhiều khi mâu thuẫn lẫn nhau như vừa nhằm tăng thu ngân sách nhà nước vừa kích thích sản xuất phát triển; bảo hộ sản xuất trong nước và hội nhập quốc tế về thuế; bình đẳng và củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và khuyến khích hợp lý các thành phần kinh tế khác …
- Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất … đã có những quy định khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế 2 năm đầu, được giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Luật thuế giá trị gia tăng tạo điều kiện giảm giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản khoảng 10% so với trước đây vì số thuế này được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu. Thuế giá trị gia tăng còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hóa vì chỉ tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ, nhờ đó khắc phục được nhược điểm đánh thuế trùng của thuế doanh thu trước đây.
- Chính sách thuế đã bắt đầu phát huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất đã tạo ra môi trường bình đẳng về pháp luật cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính sách thuế từng bước tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ nộp thuế giữa các đối tượng khác nhau, góp phần thúc đẩy đầu tư vốn, cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành …
- Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu không phải chịu thuế giá trị gia tăng, đồng thời được hoàn lại toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào. Luật thuế thu doanh nghiệp cũng có quy định khuyến khích đối với doanh nghiệp xuất khẩu lớn: nếu dự án đầu tư có giá trị hàng hóa xuất khẩu trên 30% tổng giá trị được hưởng thuế suất ưu đãi 25%, nếu giá trị hàng hóa xuất khẩu trên 50% thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung.
- Chính sách thuế có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tiến bộ. Các luật thuế mới đã khuyến khích việc chuyển hướng sản xuất theo hướng xuất khẩu và hình thành cơ cấu kinh tế mới. Thông qua việc ưu đãi đầu tư, các luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế theo hướng phát triển do nhà nước đề ra. Nhà nước không thu thuế giá trị gia tăng đối với những ngành hàng mà Việt Nam có thế mạnh như nông sản, lâm sản, hải sản do nông dân sản xuất bán ra; đối với các cơ sở kinh doanh thu mua chế biến lại được khấu trừ đầu vào với một tỷ lệ ấn định từ 3-5% như hình thức trợ giá của nhà nước. Các biện pháp này đã có tác dụng tích cực đối với việc sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng này. bvh
- Chính sách thuế đã từng bước tương đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Có thể nói, thành tựu nổi bật và bao trùm trong lĩnh vực thuế là việc chuyển hóa thành công từ hệ thống thuế chỉ phù hợp với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một hệ thống thuế mới thống nhất, có tính pháp quy cao nhưng lại đơn giản hơn và không phân biệt theo thành phần kinh tế.
2.2. Những thách thức trong quá trình cải cách thuế ở nước ta hiện nay
Trong quá trình xây dựng và thiết lập hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế, phải đối mặt với những khó khăn sau đây:
Một là, cơ cấu nguồn thu bị phụ thuộc quá nhiều vào thuế nhập khẩu: Trong cơ cấu nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí thì thuế nhập khẩu chiếm tỷ trọng tương đối cao. Theo thống kê, trong suốt giai đoạn từ năm 1991 đến nay, mặc dù có xu hướng giảm dần trong vài năm gần đây nhưng thuế xuất, nhập khẩu vẫn chiếm trên 20%/tổng thu Ngân sách Nhà nước, khoản trên dưới 4% GDP, trong số đó trên 90% là thuế nhập khẩu. Điều này, thể hiện tính chưa vững chắc của nguồn thu ngân sách và phản ánh phần nào chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Trước xu thế hội nhập, cũng như nhiều nước đang phát triển khác, khi Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại khu vực hay gia nhập Tổ thức Thương mại thế giới, việc phụ thuộc quá nhiều vào thuế nhập khẩu sẽ gây những ảnh hưởng quan trọng không chỉ đối với nguồn thu Ngân sách mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế. Lý do là xu thế hội nhập cũng hàm ý là thuế nhập khẩu sẽ bị hạ thấp, điều đó làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách, ít nhất là trong ngắn hạn, khi chúng ta chưa có thời gian điều chỉnh nhập khẩu.
Hai là, cơ cấu nền kinh tế làm giảm khả năng áp dụng và tạo những khó khăn trong việc quản lý một số sắc thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản và thuế giá trị gia tăng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, thu nhập của dân cư thấp, thu nhập từ tiền lương chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong tổng thu nhập quốc dân dẫn đến số lượng đối tượng nộp thuế thu nhập còn ít. Tính đến năm 2000, con số này mới chỉ vào khoảng 400.000 người, chiếm khoảng 1% lực lượng lao động và khoảng 3% số người làm việc ở khu vực phi nông nghiệp với số thu từ thuế thu nhập chỉ khoảng 2% tổng thu ngân sách. Thêm vào đó, thu nhập được phân phối không công bằng giữa các tầng lớp dân cư dẫn đến tình thế khó khăn: để có thể thu được số thuế lớn (đạt được sự luỹ tiến hiệu quả đối với thuế thu nhập) thì những người có thu nhập cao cần phải chịu thuế với tỷ lệ cao hơn những người có thu nhập thấp. Nhưng vì quyền lực kinh tế và chính trị thường tập trung vào nhóm người có thu nhập cao, nên việc đạt các mục tiêu cải cách thuế cũng trở nên khó khăn hơn, nhất là khi chương trình cải cách ảnh hưởng đến lợi ích của họ.
Ba là, năng lực quản lý và điều hành thuế còn nhiều hạn chế:
Có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan của vấn đề này. Nguyên nhân chủ quan từ phía cơ quan thuế xuất phát từ chỗ đội ngũ cán bộ thuế còn mỏng, quá trình đào tạo không thường xuyên, chưa theo kịp yêu cầu quản lý kinh tế. Bên cạnh đó là hạn chế về nguồn lực vật chất phục vụ cho công tác quản lý thuế, đặc biệt là hệ thống tin học. Yêu cầu của quản lý thuế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi không chỉ nối mạng máy tính trong toàn quốc mà còn phải cập nhật và trao đổi thông tin với các nước trên thế giới để đối chiếu, kiểm tra và xử lý thông tin một cách kịp thời. Trong điều kiện hội nhập thì hệ thống mạng máy tính là một trong những công cụ quản lý thuế quan trọng.
Nguyên nhân khách quan là do khu vực không chính thức đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế. Các hoạt động "ngầm" làm cho cơ quan thuế và thống kê gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập hệ thống thông tin tin cậy nhằm giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá được những tác động thay đổi về chính sách thuế đến nền kinh tế nói chung và ảnh đến nguồn thu nói riêng. Việc khó lượng hoá những thay đổi về nguồn thu của ngân sách trong điều kiện hạn hẹp thường dẫn tới những rủi ro lớn về khó khăn tài khoá.
2.3. Nội dung cải cách Thuế
2.3.1 Mục tiêu
2.3.1.1. Mục tiêu tổng quát: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3.1.2. Mục tiêu, yêu cầu cụ thể:
a) Chính sách thuế, phí và lệ phí (sau đây gọi chung là chính sách thuế) phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, động viên được các nguồn lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất; khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
b) Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo tỷ lệ động viên về thuế vào ngân sách nhà nước bình quân hàng năm đạt từ 20% - 21% GDP.
c) Chính sách thuế phải thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm được yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
d) Chính sách thuế phải tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
đ) Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai; tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế.
e) Hệ thống thể chế chính sách thuế phải quy định rõ nghĩa vụ trách nhiệm, quyền lợi của các cơ sở kinh doanh trong việc thực hiện các quy định về thuế; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế; Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan.
f) Nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững mạnh.
2.3.2. Nội dung cải cách hệ thống thể chế chính sách thuế:
2.3.2.1 Nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế:
- Ban hành mới các sắc thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử; thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất.
Việc ban hành và thực hiện các sắc thuế mới trên đây phải chú ý đến đối tượng, mức độ và thời điểm áp dụng cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo ổn định sản xuất, thị trường và đời sống nhân dân.
- Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế hiện hành; tăng dần tỷ trọng các nguồn thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng số thu về thuế.
Đến năm 2010: Hệ thống thuế của nước ta bao gồm các sắc thuế sau:
- Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử,
- Thuế bảo vệ môi trường,
- Thuế tài sản,
- Thuế sử dụng đất,
- Thuế giá trị gia tăng,
- Thuế tiêu thụ đặc biệt,
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
- Thuế thu nhập doanh nghiệp,
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được sửa đổi thành thuế thu nhập cá nhân,
- Thuế tài nguyên,
- Phí, lệ phí.
2.3.2.2 Ban hành luật quản lý thuế nhằm xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của đối tượng nộp thuế; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế và phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế để quản lý thu thuế đạt hiệu quả cao.
2.3.2.3 Đổi mới thể chế chính sách
Thời gian qua, ngành thuế đã nghiên cứu xây dựng và hoàn thành lộ trình sửa đổi, bổ sung các Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB, Luật Thuế TNDN, đồng thời ban hành Luật Thuế TNCN thay cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Đặc biệt lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật Quản lý thuế (có hiệu lực từ ngày 1/7/2007) quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp luật của cả người nộp thuế và các tổ chức có liên quan nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý thuế. Nội dung sửa đổi, bổ sung các luật thuế đã thực hiện đúng theo định hướng của Đảng và Nhà nước, giảm bớt mức đóng góp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, tăng tích luỹ vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh; khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu; thực hiện bảo hộ có điều kiện và có chọn lọc đối với một số ngành sản xuất hàng hoá, dịch vụ cần khuyến khích phát triển; phù hợp với cam kết quốc tế để hội nhập ngày càng rộng, càng sâu với khu vực và quốc tế; thống nhất về nghĩa vụ thuế giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, theo đó:
- Thuế giá trị gia tăng VAT: Thu hẹp đối tượng không thuộc diện chịu thuế VAT, vừa đảm bảo tính trung lập của sắc thuế này, vừa khai thác nguồn thu trong điều kiện hội nhập.
+ Hoàn thiện các quy định về thuế suất thuế VAT: Áp dụng phương pháp liệt kê để xác định cụ thể phạm vi áp dụng mức thuế suất phổ thông, nhằm đảm bảo tính đơn giản của chính sách thuế, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế; hướng tới việc áp dụng cơ chế một mức thuế suất giá trị gia tăng
+ Về thuế GTGT đã bỏ mức thuế suất 20%, mở rộng diện áp dụng thuế suất 0%
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: Hạ mức thuế TNDN từ 32% xuống 28%, sắp tới mức thuể này giảm còn 25%, bỏ thuế TNDN bổ sung đối với doanh nghiệp trong nước, bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài, giảm mức thuế suất ưu đãi từ 25%, 20%, 15% xuống còn 20%, 15%, 10%; mở rộng diện ưu đãi thuế cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; bổ sung nhiều khoản chi phí được tính khi tính thuế TNDN; nâng mức khấu hao bằng hai lần, lãi tiền vay bên ngoài bằng 1,2 lần so với lãi tiền vay của tổ chức tín dụng; chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại được nâng từ 5%, 7% lên 10% .
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: Mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng hóa, dịch vụ như các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp,…không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.
+ Về thuế suất, sự điều tiết cần đặt trong mối quan hệ với các sắc thuế khác. Cụ thể, trong điều kiện thuế nhập khẩu tiếp tục được điều chỉnh giảm theo cam kết thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), áp dụng thuế VAT đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt,… Theo đó, cần điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành xuống mức hợp lý, không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh các mặt hàng, dịch vụ này.
- Thuế xuất, nhập khẩu: Thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình thực hiện AFTA/CEPT và các cam kết quốc tế; bãi bỏ trên 300 loại phí, lệ phí, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí đầu vào và tránh được nhiều thủ tục hành chính phiền hà.
2.4 Lợi ích của cải cách Thuế
2.4.1. Về phía Nhà nước: Đảm bảo thực thi tốt các luật thuế để chính sách thuế thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế- xã hội, thúc đẩy sản xuất kinh tế phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; Hạn chế đến mức thấp nhất thất thu về thuế, vừa đảm bảo công bằng, bình đẳng, vừa tăng n,guồn lực tài chính để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng khả năng thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước.
2.4.2. Về phía người nộp thuế: xoá bỏ mọi thủ tục hành chính thuế không cần thiết gây phiền hà, tốn kém cho đối tượng nộp thuế; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đối tượng nộp thuế kê khai, nộp thuế kịp thời và giảm chi phí tuân thủ thuế; Nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế để nâng cao tính tự giác trong việc tuân thủ các pháp luật thuế.
Nâng cao hiểu biết của cộng đồng xã hội về công tác thuế của Đảng và Nhà nước ta, từ dó tự giác cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế để quản lý thuế theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; lên án, phê phán các hiện tượng trốn thuế, gian lận về thuế.
2.4.3. Về phía cơ quan thuế: Ngành thuế được hiện đại hoá cả về cơ chế quản lý, công nghệ quản lý, bộ máy quản lý và nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên sâu của đội ngũ cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý thuế trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
III. CHUYỂN GIÁ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Tổng quan về chuyển giá quốc tế:
3.1.1. Sự ra đời của chuyển giá quốc tế :
Tiến trình toàn cầu hóa luôn gắn liền với sự phát triển của các công ty đa quốc gia (Mutinationals hoặc Multi Nations Company - MNC). Quy mô vốn đầu tư nước ngoài, khả năng công nghệ và thị trường sản phẩm được chiếm phần lớn bởi các công ty này, trong khi đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố quan trọng cho quá trình hội nhập của các nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Quá trình đầu tư, sản xuất và kinh doanh của MNC được chuyên môn hóa cao độ, để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, từng khâu trong quá trình sản xuất được đảm nhiệm bởi các chi nhánh, công ty con ở các quốc gia khác nhau và có một chi nhánh làm công việc hoàn chỉnh sản phẩm đưa ra thị trường. Từ đây sản phẩm được xuất đi khắp các nước.
Cơ cấu tổ chức nhiều tầng của các công ty đa quốc gia với một mang lưới lớn các chi nhánh và công ty con, trong khi đó quyền kiểm soát chủ yếu trong các hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh doanh chính vẫn thuộc về công ty mẹ. Đặc điểm này kết hợp với sự chuyên môn hóa cao trong các công ty này là điều kiện cho hoạt động chuyển giá và tránh thuế xảy ra.
3.1.2. Thế nào là chuyển giá quốc tế ?
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia trên toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ giữa các bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như thế xuất phát từ 3 lý do sau.
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể xảy ra.
- Ví dụ về “tránh” thuế thu nhập doanh nghiệp:
Xét trường hợp đơn giản, mặt hàng trao đổi giữa công ty mẹ ở nước ngoài và công ty con ở Việt Nam là mặt hàng ưu đãi, không phải chịu thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt, VAT tại 2 nước là như nhau:
Nếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở trong nước và nước ngoài bằng nhau thì nếu công ty mẹ ở nước ngoài tăng thu nhập chịu thuế lên 1.000.000 USD sẽ phải nộp thuế là 250.000 USD, phần còn lại được coi như thu nhập là 750.000 USD. Công ty con giảm thu nhập chịu thuế 1.000.000 USD sẽ giảm thuế thu nhập 250.000 USD; đây chính là khoản mà Việt Nam bị thất thu.
Trường hợp thuế suất nước ngoài nhỏ hơn ở Việt Nam, chẳng hạn thuế thu nhập DN ở Đài Loan là 20% và Việt Nam là 25% thì chi nhánh ở Đài Loan sẽ có thể tăng giá chuyển giao hàng hoá và dịch vụ cho chi nhánh ở Việt Nam. Nếu khoản nâng giá là 1.000.000 USD thì lợi nhuận báo cáo ở Đài Loan sẽ tăng 1.000.000 USD và thuế nộp cho nước này tăng thêm 200.000 USD. Đồng thời lợi nhuận ở Việt Nam giảm đi 100.000 USD, tức số thuế phải đóng ở đây giảm đi 250.000 USD. Như vậy thông qua chuyển giá quốc tế công ty này đã "tiết kiệm" được 50.000 USD.
- Ví dụ về “tránh” thuế nhập khẩu, thuế TTĐB:
Doanh nghiệp A đặt tại Singapre xuất khẩu sang chi nhánh tại Việt Nam một lô hàng có giá thị trường là 100.000$, giá thành sản xuất là 90.000$, giá bán lô hàng tại thị trường Việt Nam là 300.000$.
Cho thuế nhập khẩu của Việt Nam với lô hàng là 60%, thuế tiêu thụ đặc biệt là 50%, thuế giá trị gia tăng VAT là 10%, thuế thu nhập doanh nghiệp 25%, tại Singapore thuế thu nhập doanh nhiệp là 20%, tạm thời bỏ thuế giá trị gia tăng GST.
+ Nếu doanh nghiệp định giá lô hàng theo đúng giá thị trường 100.000$ thì:
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại Singapore:
(100.000 - 90.000) x 20% = 2.000 ($)
Thuế nhập khẩu phải nộp ở Việt Nam:
Thuế nhập khẩu 100.000 x 60% = 60.000 $,
Thuế tiêu thụ đặc biệt (100.000 + 60.000) x 50% = 80.000$,
Thuế VAT (100.000 + 60.000 + 80.000) x 10% = 24.000$ (VAT này sẽ được khấu trừ người tiêu dùng phải chịu)
Sản phẩm bán giá 300.000$ (chưa tính VAT), chi nhánh ở Việt Nam thu được lợi nhuận
300.000 – 100.000 – 60.000 – 80.000 = 60.000$,
Phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 15.000$.
àTổng thuế phải nộp của công ty này là:
2.000 + 60.000 + 80.000 + 15.000 = 157.000$
+ Nếu doanh nghiệp định giá lô hàng chỉ là 10.000$
Thuế thu nhập doanh nghiệp tại Singapore là 0$.
Thuế nhập khẩu phải nộp ở Việt Nam:
thuế nhập khẩu 10.000 x 60% = 6.000 $,
thuế tiêu thụ đặc biệt (10.000 + 6.000) x 50% = 8.000$,
thuế VAT (10.000 + 6.000 + 8.000) x 10% = 2.400$,
sản phẩm bán giá 300.000$, chi nhánh ở Việt Nam thu được lợi nhuận 300.000 – 10.000 – 6.000 – 8.000 = 276.000$, phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 69.000$.
àTổng thuế phải nộp của công ty này
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21860.doc