Đề tài Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (Qua trường hợp Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh)

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do lựa chọn đề tài. . 1

2. Lịch sử vấn đề . 2

3. Mục đích, ý nghĩa đề tài . 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. . 3

5. Nhiệm vụ nghiên cứu. . 4

6. Phương pháp nghiên cứu . 4

7. Bố cục báo cáo . 4

8. Quy cách trình bày . 5

CHƯƠNG 1: MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HỌC VÀ

ĐIỆN ẢNH . 6

1.1. Văn học . 6

1.1.1. Thuật ngữ văn học . 6

1.1.2. Đặc trưng của văn học . 8

1.1.2.1. Tính “phi vật thể” của hình tượng ngôn từ . 8

1.1.2.2. Khả năng miêu tả, thâm nhập vào đời sống tâm lý, tình cảm của

con người .10

1.1.2.3. Khả năng chiếm lĩnh và xử lý không gian, thời gian. .11

1.2. Điện ảnh.13

1.2.1. Thuật ngữ điện ảnh .13

1.2.2. Đặc trưng của điện ảnh .18

1.2.2.1. Ngôn ngữ thị giác .18

1.2.2.2. Ngôn ngữ thính giác .23

1.2.2.3. Montage (dựng phim) .25

1.3. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. .26

1.3.1. Mối quan hệ gần gũi, tác động lẫn nhau .26

pdf65 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 56 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (Qua trường hợp Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hành động. Hiệu quả âm thanh là kết quả của những rung ngân trong không khí. Biên độ hay chiều rộng của những rung ngân khiến chúng ta cảm nhận được sự ồn ào hay âm lượng. Tiếng động bao gồm loại có quan hệ với thiên nhiên (như tiếng gió thổi, mưa rơi, tiếng chim hót) hay tiếng động do con người tạo ra (tiếng vó ngựa, tiếng giày dép đi trên sàn nhà). Trong các phương pháp biểu hiện bằng âm thanh thì âm nhạc góp phần thi vị nhất. Âm nhạc phụ trợ cho hành động phim, mạnh hơn loại điển hình nhất của âm thành ngoài truyện phim. Nó có khả năng làm tăng ấn tượng của người xem lên gấp nhiều lần và gợi lên ở anh ta một cảm giác nhất định, bằng việc xếp đặt lại trật tự và thay đổi âm nhạc, nhà làm phim có thể so sánh một cách tinh tế các cảnh, truy tìm các mẫu hình phát triển và khơi gợi những ý nghĩa ẩn tàng. 25 Âm thanh đã đem lại cho nghệ thuật điện ảnh một khả năng hoàn thiện tuyệt vời. Nó có chức năng tương tác bởi các kỹ thuật khác và với cả hình thức tự sự. Đồng thời âm thanh còn tích cực giúp chúng ta tiếp nhận và diễn giải các hình ảnh trên màn hình, tạo tiết tấu nhanh hay chậm và thể hiện không gian, thời gian của bộ phim. 1.2.2.3. Montage (dựng phim) Tác phẩm điện ảnh gồm nhiều cảnh phim được quay. Nhưng thực chất của nghệ thuật điện ảnh không phải chỉ có vậy, cái quan trọng không chỉ là những yếu tố tạo thành tác phẩm mà còn ở phương thức phối hợp các yếu tố ấy lại với nhau thành một thể thống nhất hoàn chỉnh. Đó chính là montage - dựng phim. Trong điện ảnh, phương pháp dựng phim là sự kết hợp các cảnh phim lại với nhau, là sự sắp xếp những khuôn hình của phim trong một trật tự nhất định và nối tiếp nhau. Nếu với thơ ca, đề tài chung kết hợp những hình tượng ngôn ngữ rời rạc (những yếu tố của tác phẩm thơ ca) lại với nhau thì trong điện ảnh, việc dựng phim không phải chỉ là biện pháp liên kết các cảnh phim riêng lẻ lại với nhau, nó còn là một biện pháp mạnh mẽ nhất nhằm lý giải cuộc sống theo quan điểm cách tân trong nghệ thuật điện ảnh. Nhà lý thuyết và đạo diễn vĩ đại Liên Xô, V. Puđopkin đã nói: việc dựng phim tạo khả năng “biến mối liên hệ ẩn dấu bên trong các hành động thực tế thành mối liên hệ dường như bộc lộ rõ ra ngoài, có thể nhìn thấy được, có thể trực tiếp cảm thụ được mà không cần giải thích. Khi trên màn ảnh ta thấy cảnh hàng đụn lúa mì cao vút đang bị đốt cháy chỉ vì những nguyên nhân buôn bán cạnh tranh nhau bên cạnh những đứa bé của các nông dân nông trường bần cùng mệt lả vì đói khát, thì đó là dựng phim” [10; 175]. Nhưng khả năng kỳ diệu của thuật dựng phim lại chính ở chỗ nó có thể vạch ra một cách rất mạnh mẽ và rõ rệt sự phát 26 triển của cuộc sống, khiến cho sự cảm thụ của chúng ta, ý nghĩ của chúng ta cũng phát triển. Việc dựng phim tạo ra các mối liên hệ mật thiết về đồ hoạ, nhịp điệu, không gian và thời gian giữa cảnh quay A và cảnh quay B. Một cảnh quay như là một đoạn thời gian, không gian của các cấu hình đồ hoạ liên tục trên màn ảnh. Các biểu hiện mờ chìm, mờ chồng, tối dần, hiện hình được cảm nhận như là sự gián đoạn dần dần một cảnh quay này sẽ được thay thế bằng một cảnh quay khác. Montage chính là đặc trưng cơ bản nhất của ngôn ngữ điện ảnh, nó góp phần phát triển câu chuyện và đồng thời lại có ý nghĩa biểu hiện riêng.Với vai trò vô cùng quan trọng đó mà người ta đã khẳng định rằng: “điện ảnh là nghệ thuật dựng những hình ảnh hành động, dựng những cảnh phim để tạo nên hình tượng nghệ thuật”. Bàn về ngôn ngữ điện ảnh đòi hỏi phải hết sức công phu, ở đây chúng tôi chỉ đưa ra và phân tích khái quát ba ngôn ngữ đặc trưng cơ bản nhất của nghệ thuật điện ảnh.Mỗi loại ngôn ngữ đóng một vai trò khác nhau trong việc tạo nên một tác phẩm điện ảnh và cũng chính những đặc trưng về ngôn ngữ này đã giúp chúng ta phân biệt được điện ảnh với các loại hình nghệ thuật khác. 1.3. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. 1.3.1. Mối quan hệ gần gũi, tác động lẫn nhau. Chúng ta thường nghe nói nhiều về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. Dường như trong hai lĩnh vực này có mối liên hệ bí ẩn nào đó khiến chúng không thể tồn tại độc lập tách rời nhau. Cũng giống như một tác phẩm văn học, một bộ phim sẽ không thể tồn tại mãi với thời gian được nếu nó chỉ đơn thuần là việc diễn xuất trên màn ảnh của diễn viên mà nội dung lại sáo rỗng, chuyển tải một tư tưởng hạn hẹp. 27 Quan trọng hơn nữa, văn học còn là cái kho vô tận và là nền tảng vững chắc cho các nhà làm điện ảnh có được nguồn chất liệu tốt để chuyển thể những câu chuyện đời từ một tác phẩm văn học lên màn ảnh nhỏ. Tất cả mọi người đều ghi nhớ thành công trên toàn thế giới khi những bộ phim như Số phận con người của Sergey Bondarchuk, Thời thơ ấu của Tarkovsky lần đầu tiên ra mắt công chúng. Tất cả các phim đó đều được dựng theo các tác phẩm của văn học Xô Viết. Như vậy, rõ ràng, văn học mà đáng chú ý hơn cả là các tác phẩm xuất sắc sẽ là nền tảng, là mảnh đất màu mỡ cho sự gieo trồng và phát triển phim ảnh. Không chỉ bắt rễ vào nền văn học, chính điện ảnh cũng đã tác động trở lại vào văn học, đem lại cho văn học một đời sống và một diện mạo mới. Bộ phim nổi tiếng cũng sẽ tạo sức sống cho tác phẩm văn chương. Nếu bộ phim thất bại thì văn học vẫn được yêu thích và ngược lại. Có những tác phẩm văn học không đến được với công chúng trước đó nhưng có khi được chuyển thể lên phim lại làm cho tác phẩm được công chúng biết đến nhiều hơn. Văn học, đúng hơn là tác phẩm văn học đang ùa vào điện ảnh với một nhịp độ lớn, khó nắm bắt. Văn học đã trở thành cái nền vững chắc, là chất liệu phong phú của các tác phẩm điện ảnh. Tác phẩm điện ảnh chỉ có thể “bay lên” từ một cái nền vững chắc như vậy. Mỗi hình ảnh điện ảnh đều có thể mang ý nghĩa rộng hơn là nó biểu hiện. Và điện ảnh, chính vì nó có thể phản ánh được tất cả, cho nên nhiều khi nó buộc phải hạn chế bằng sự ẩn dụ được tiếp thu từ văn học, về mặt này nó cũng giống như kiểu im lặng trong văn học. Lấy ví dụ một cảnh nổi tiếng trong phim Cô gái Pari, trong đó nhân vật chính đã gặp lại cô gái mà anh ta từng yêu nhưng anh ta không biết cuộc sống của cô từ khi họ chia li đã diễn ra như thế nào và định nối lại mối tình dang dở 28 khi xưa. Nhưng rồi cô ta mở ngăn kéo và làm rơi ra một chiếc cổ áo đàn ông. Chi tiết ẩn dụ này có hiệu quả hơn mọi lời giải thích kể lể dài dòng. Trong điện ảnh, các yếu tố như lời thoại, khung cảnh, hoạt động, thời gian, không gian cũng mang những đặc tính của văn học, bởi nó được khai thác từ văn học. Các đoạn đối thoại, độc thoại, lời dẫn truyện trong một bộ phim chính là những thành phần văn xuôi của điện ảnh. Nó có tác dụng thúc đẩy câu chuyện, phát triển kịch tích và có chức năng tự sự. Khi điện ảnh mới ra đời, các bộ phim lúc đó thường thể hiện các hành động bên ngoài như một chiếc tàu đi đến, một người con gái đi ra phố hay những người đang tưới vườn. Nhưng khi nghệ thuật điện ảnh phát triển nhanh chóng thì người ta nhận thấy rằng điện ảnh chẳng những có hoạt động bên ngoài mà nó còn có cả ý nghĩa bên trong nữa, đó là khả năng của văn học mà điện ảnh đã tiếp thu và đã đem lại những thành công không nhỏ cho các tác phẩm điện ảnh. Trong tác phẩm điện ảnh, dòng chảy thời gian (sự hồi tưởng về quá khứ - diễn biến ở hiện tại, mơ tưởng đến tương lai) hay hình ảnh không gian sống động đều là những cách thể hiện được học hỏi từ văn học. Một tác phẩm văn học có thể được đưa lên màn ảnh nhiều lần với nhiều diện mạo khác nhau. Ví dụ như Chiến tranh và Hoà bình của L.Tolstoy được Hollywood dựng lại tác phẩm này thành một kiểu khác. Như vậy, văn học thực sự là một nguồn nguyên liệu dồi dào, phong phú, vô tận cho điện ảnh. Và điện ảnh hoàn toàn có thể yên tâm tiếp tục phát triển trên cái nền vững chắc này. 1.3.2. Phim chuyển thể - sản phẩm của sự giao thoa giữa văn học và điện ảnh Văn học và điện ảnh có mối giao duyên, bổ sung và hoàn thiện cho nhau cùng đưa đại gia đình nghệ thuật lên đến đỉnh cao. Và phim chuyển thể chính là một sản phẩm của sự giao thoa ấy. Dựa trên cái nền vững chắc của văn học mà từ đó những bộ phim có sức sống vượt thời gian ra đời, nó mang những 29 câu chuyện đời trong tác phẩm văn học tới gần bạn đọc hơn qua ngôn ngữ điện ảnh, hình tượng nhân vật và âm thanh sống động, như một sự tôn vinh đối với văn học. Phim chuyển thể vì thế hội tụ đầy đủ đặc trưng của ngôn ngữ văn học (trong việc sử dụng cốt truyện, xây dựng nhân vật, trong việc miêu tả, sử dụng lời thoại, các biện pháp nghệ thuật) và đặc trưng của ngôn ngữ điện ảnh (trong việc tạo hình, mọi sự vật, hiện tượng phải thấy được, nghe được, sử dụng ngôn ngữ dựng phim). Bởi vậy, phim chuyển thể có thể coi là một “đứa con” của văn học và điện ảnh. Để có thể “sinh nở” ra được “đứa con” ấy thì nhà văn cũng như là đạo diễn, trước hết đòi hỏi phải có lao động, suy nghĩ, phải có vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú, am hiểu những vấn đề cuộc sống, những kĩ thuật điện ảnh (đối với người đạo diễn), cũng giống như người hoạ sĩ phải nắm được kỹ thuật hội hoạ thì mới có thể vẽ được những bức tranh theo ý muốn của mình. 1.3.2.1. Các hình thức chuyển thể Các tác phẩm văn học được chuyển thể sang phim điện ảnh dưới khá nhiều hình thức và mức độ. Tuy nhiên về cơ bản có hai hình thức chuyển thể, đó là chuyển thể theo sát nguyên bản và chuyển thể không theo sát theo nguyên bản. Trong hình thức chuyển thể theo sát nguyên bản văn học, bộ phim sẽ bám sát tác phẩm văn học, từ tên tác phẩm, cốt truyện, đường dây dẫn dắt, hệ thống nhân vật, ý tưởng chủ đề đến hình thức, ngôn ngữ, phong cách của tác giả văn học. Tất nhiên, sự theo sát này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối mà thôi. Bản chất của quá trình chuyển thể này là dựa hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu của văn học, không đặt ra thêm một cái gì, một vấn đề gì ngoài những cái đã có. Thực chất đây là hình thức chọn lựa từ tác phẩm văn học những cái tốt, phù hợp cho sự vận động cũng như hiệu quả hành động, kịch tính Không 30 hiếm các bộ phim đã “đọc” một cách trung thành những tác phẩm văn học một cách trung thành những tác phẩm văn học nổi tiếng và có chỗ đứng vững chắc trong đời sống phim ảnh quốc tế. Với hình thức chuyển thể không theo sát nguyên bản văn học, tức là chuyển thể tự do thì tác phẩm văn học chỉ góp một phần hoặc chỉ là cái cớ để cho ra đời một bộ phim điện ảnh. Ở Việt Nam, hình thức “dựa theo” tác phẩm văn học có vẻ phổ biến hơn vì đó là hình thức mà các tác giả phim thấy tương đối “thoải mái” khi sử dụng cốt truyện, cấu trúc, các nhân vật, lời thoại và những chất liệu khác từ văn học. Cả hai hình thức cơ bản vừa nêu trên đều gặp những thuận lợi và khó khăn nhất định trong quá trình chuyển thể. Không ít bộ phim hay được tạo nên từ tác phẩm văn học và cũng khá nhiều tác phẩm văn học nhờ được chuyển thể thành phim ảnh mà có thêm rất nhiều công chúng biết đến. Rõ ràng văn học và điện ảnh đã phối hợp, kế thừa nhau, dựa vào nhau để tồn tại và cao hơn, để sáng tạo. 1.3.2.2. Những vấn đề cần lưu ý khi chuyển thể Do sự khác biệt về ngôn ngữ và phương thức mà không phải tác phẩm văn học nào khi chuyển thể thành phim điện ảnh cũng thành công. Tác phẩm văn học hấp dẫn độc giả ở ngôn ngữ biểu cảm, ở hình hài các con chữ và cách sắp xếp của chúng, còn tác phẩm điện ảnh lại hấp dẫn người xem ở các xung đột, hình ảnh trực giác giản dị, ngôn ngữ dung dị và giàu hình ảnh. Việc chuyển sự sâu sắc của ngôn từ sang sự sống động, cụ thể của hình ảnh là điều không phải dễ dàng. Khi chuyển thể nguyên tác văn học lên màn ảnh bắt đầu từ việc phá bỏ bố cục của nguyên tác. Điều đó đòi hỏi phải có lòng can đảm từ giã những đoạn văn yêu thích trong truyện ngắn, tiểu thuyết, hay những biến cố và con người, và cả với những tuyến cốt truyện hoàn chỉnh. Chất liệu chọn lọc sẽ có 31 một cách xâu lối mới từ bên trong, được tổ chức theo những quy luật của một nghệ thuật khác - đó là điện ảnh. Nghệ thuật này sẽ đền bù những mất mát và theo lối riêng của mình mà truyền đạt tư tưởng cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn và sức mạnh các hình tượng nghệ thuật của nó. Muốn tiếp cận sáng tạo vấn đề chuyển thể đòi hỏi phải xem xét thật rõ ràng ranh giới giữa các nghệ thuật, đặc biệt là ranh giới giữa văn học và điện ảnh trong việc tái hiện các hình tượng văn học bằng các phương tiện điện ảnh, trong đó mặt tạo hình hội hoạ đóng vai trò hàng đầu. Sức mạnh tạo hình của ngôn từ dù lớn đến đâu đi nữa thì vẫn chỉ là dạng tiềm năng, tạo phương hướng cho trí tưởng tượng của chúng ta mà thôi. Còn khi chuyển thể sang kịch bản điện ảnh thì bất kì là một cái bắt tay hay một động tác đều phải được diễn tả thật rõ ràng để có thể trông thấy được. Trong tiểu thuyết, ta có thể chấp nhận để tác giả Lê Lựu cho nhân vật Giang Minh Sài trút bầu tâm sự tới vài trang viết Nhưng phim ảnh - sự bộc lộ trực tiếp cuộc sống tươi nguyên thì sự rộng mở quanh co là không thích hợp. Nó sẽ làm loãng và chệch khỏi trung tâm chính yếu của câu chuyện. Nếu như trong truyện ngắn tác giả có thể thuyết minh cho nhân vật thì vào môi trường điện ảnh, đạo diễn phải để cho nhân vật tự bộc lộ mình bằng các hành động, cử chỉ, lời nói trông thấy được, nghe thấy được. Tức là lột thế giới nội tâm thành hình ảnh, thành hành động, chuyển thế giới vô hình sang thế giới hữu hình. Đạo diễn phải làm sao cho mỗi một câu là một hình ảnh, là từng bước phát triển không ngừng của sự việc. Một bộ phim chuyển thể tốt được coi là một bộ phim“biết tận dụng hết được ưu điểm của tác phẩm văn học, và tước bỏ được nhược điểm của nó khi chuyển sang một loại hình mới: điện ảnh” [14; 76]. Khi chuyển thể cần phải luôn luôn chú ý đến sự biểu hiện của ngôn ngữ thị giác, ngôn ngữ thính giác và việc sử lý montage. 32 CHƯƠNG 2: TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH – SỰ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH 2.1. Phim chuyển thể trong lịch sử điện ảnh Việt Nam Dù khác biệt về loại hình, thậm chí khác biệt dòng kênh thông tin, song giữa văn học và điện ảnh vẫn có những tương đồng khiến chúng có thể chuyển hoá sang nhau, từ đó mà “khai sinh” ra phim điện ảnh. Chuyển thể là một biện pháp nghệ thuật đã có từ lâu khi Shakespeare chuyển thể những tác phẩm của các tác giả thời xưa thành kịch Romeo và Juliet nổi tiếng. Trong lịch sử điện ảnh ở Việt Nam, việc các thể loại điện ảnh được chuyển thể hoặc sáng tác trên cơ sở dựng lại tác phẩm văn học là điều hết sức phổ biến. Tác phẩm văn học khi xuất hiện lên màn ảnh được coi như cuộc “sinh nở” lần thứ hai. Và ở đây người xem mới rõ hình hài của nó thông qua ngôn ngữ điện ảnh và hình tượng nhân vật. Từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến phim là cả một khoảng cách, trải qua bao nhiêu sự trăn trở, đồng sáng tạo vì nhiều khi bản thân tác phẩm văn học chưa hội tụ đầy đủ các yếu tố để trở thành một truyện phim hay. Hơn 40 năm qua, phim truyện điện ảnh Việt Nam lúc hoàng kim cũng như lúc khủng hoảng, hầu như năm nào cũng có hơn nửa số

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_chuyen_the_tac_pham_van_hoc_sang_tac_pham_dien_anh_qu.pdf