Đề tài Cơ hội và nguy cơ của các doanh nghiệp quảng cáo Việt nam trong môi trường hội nhập WTO

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 2

PHẦN 1.Thực trạng các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam 3

1.1. Sơ qua về lịch sử phát triển ngành quản cáo ở Việt Nam 3

1.2. Những vấn đề của các Doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam 3

1.2.1. Thị phần của các doanh nghiệp quảng cáo Việt nam 3

1.2.2. Môi trường pháp lý và quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo 4

1.2.2.1 Tình hình chung về quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động quảng cáo 5

1.2.2.2 Chính sách bảo hộ và khống chế mức quảng cáo 6

1.2.3 Sự yếu kém của các doanh nghiệp quảng cáo trong nước. 7

1.2.3.1. Chưa có chiến lược kinh doanh lâu dài 7

1.2.3.2 Năng lực yếu kém 8

1.2.4 Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu 9

1.2.5. Cạnh tranh không lành mạnh 10

PHẦN II. Cơ hội và nguy cơ của các doanh nghiệo quảng cáo Việt nam trong môi trường hội nhập WTO 11

2.1.Cơ hội đối với các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam 11

2.1.1.Thị trường quảng cáo mở rộng 11

2.1.2. Cơ hội tiếp nhận nguồn vốn đầu tư, học tập kinh nghiệm công nghệ tiên tiến 12

2.2.Những thách thức đối với các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam 13

2.2.1.Cạnh tranh khốc liệt hơn 13

2.2.2 Các chính sách bảo hộ dần dỡ bỏ 14

PHẦN III. Một số đề xuất tháo gỡ khó khăn và phát triển các doanh nghiệp quảng cáo 16

3.1.Về phía nhà nước 16

3.2 Về phía các doanh nghiệp quảng cáo. 18

Kết luận 20

Tài liệu tham khảo 22

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội và nguy cơ của các doanh nghiệp quảng cáo Việt nam trong môi trường hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lý nhà nước về quảng cáo vẫn còn nhiều yếu kém. Ý thức chấp hành luật pháp của nhiều doanh nghiệp chưa cao nên những vi phạm đặt biển quảng cáo ngoài trời không có giấy phép , sai nội dung, kích thước cho phép hoặc vi phạm về các quy định về cấm sử dụng màu cờ Tổ quốc, tiền Việt Nam … trong quảng cáo vẫn diễn ra nhiều. Cùng với trên 3000 doanh nghiệp quảng cáo là một hệ thống bao gồm trên 80 đài phát thanh, truyền hình, trên 500 cơ quan báo chí, năm 2005 đã đạt doanh thu khoảng 5000 tỷ đồng. Tuy nhiên trong nhận thức của nhiều nhà quản lý và một bộ phận dân cư chỉ coi quảng cáo là một hoạt động văn hóa mang tính kinh tế, chưa xem xét như một ngành kinh tế thật sự. Do vậy nhận thức về việc quy hoạch, xây dựng chiến lược cho ngành chậm và yếu. Mặt khác trong quá trình hoạch định tiếng nói vai trò của hiệp hội không được xem xét một cách thoả đáng. Các chính sách quy định của nhà nước về quảng cáo nhiều khe hở, thiếu thay đổi liên tục gây khó khăn cho những nhà đầu tư chân chính, lâu dài. Các quy định thì phức tạp rườm rà. muốn treo một tấm biển quảng cáo đúng luật, doanh nghiệp phải xin phép ít nhất 5 công sở từ văn hoá thông tin, kiến trúc giao thông công chính, xây dựng cho đến Uỷ ban nhân dân quận, huyện. Để làm đầy đủ thủ tục doanh nghiệp phải đi qua nhiều cửa. Đâu đó có cải cách hành chính một cửa thì phải nhiều chìa. Giấy phép có nhiều đến nỗi nhiều khi doanh nghiệp phải cử riêng một số nhân viên lo chuyện “bôi trơn, chạy giấy phép” 1.2.2.2 Chính sách bảo hộ và khống chế mức quảng cáo Không chỉ các doanh nghiệp kinh doanh quảng cáo mới bị bó hẹp vì những quy định của pháp luật, ngay cả những doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác muốn làm quảng cáo cũng đang gặpkhó khăn. Theo quy định của ngành thuế, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ sẽ được quảng cáo tới 30% trong tổng số chi phí hợp lý, còn doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chỉ từ 7-10%, báo in không được phép in đăng quảng cáo quá 10% diện tích, báo nói, báo hình không được phát song quá 5% thời lượng. Đây là điều bất hợp lý vì chính bản than doanh nghiệp không đời nào chi cho quảng cáo quá nhiều nếu nó không đem lại hiệu quả. Việc đề ra mức trần cho quảng cáo là một trong những chíh sách nhằm bảo hộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hàng ngoại nhập. Doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn ít, chi phí đầu tư cho quảng cáo tiếp thị vừa phải nêu khó có thể phát triển thương hiệu nếu doanh nghiệp vốn lớn được phép “dội bom” quảng cáo, khuyến mãi, tiếp thị. Nhưng mặt khác, ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhận thấy giá trị của thương hiệu trong môi trường cạnh tranh. Đã chú trọng nhiều hơn cho chiến lược phát triển thương hiệu, đã chấp nhận chi tiêu cho quảng cáo coi khoản tiền đó là mức đầu tư dài hạn. Họ sử dụng tiền vào mục đích xây dựng thương hiệu chứ không đơn thuần là chi cho các chương trình khuyến mãi một sản phảm nhất định. Mức trần đối với chi phí quảng cáo đang trói chân, trói tay các doanh nghiệp. Khi họ không được phép quảng cáo như mong muốn, các doanh nghiệp kinh doanh quảng cáo muốn nhiều cơ hội kinh doanh, cơ hội mở rông thị tường và phát triển doanh nghiệp. Như vậy, với chính sách khống chế mức quảng cáo, đối với các doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác, không làm cho doanh nghiệp phải treo chi phí, tạo ra nhiều khó khăn khi sử dụng vốn và hoạch định chiến lược phát triển cho những năm kế tiếp khi muốn tăng chi phí quảng cáo, mà còn gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược phát triển thương hiệu. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh quảng cáo chính sách khống chế mức quảng cáo nhiều khi làm họ không dám ký kết các hợp đồng với khách hàng, đôi khi họ dám thực hiện các hợp đồng thì phải tìm cách lách luật. Hiện nay, Chính phủ vẫn tiếp tục bảo hộ lĩnh vực quảng cáo bằng nhiều biện pháp hành chính, chẳng hạn như chưa cho phép các công ty quảng cáo nước ngoài trực tiếp ký kết hợp đồng tại Việt Nam. Mọi hợp đồng với khách hang phải qua trug gian là các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam, hay công ty liên doanh có chức năng hoạt động quảng cáo. Nhờ vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới được chia một phần trong các hoạt động quảng cáo của các công ty nước ngoài tại Việt Nam. Nhưng dù có chính sách bảo hộ như vậy, một thực tế đáng buồn là các doanh nghiệp quảng cáo trong nước chỉ thực hiện những công đoạn hết sức đơn giản, cụ thể hoặc thuần tuý kinh tế. Còn việc hoạch định chiến lược và sáng tạo ý tưởng là phần mang lại nhiều lợi nhuận nhất đều thuộc vào tay các công ty có yếu tố nước ngoài. Vào cuối năm 2005, uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã đi trước thời cuộc, khi ra quyết định cho phép công ty J. w.Thomson vốn nước ngoài được trục tiếp giao dịch, ký hợp đồng với các khách hàng, cơ quan thông tin đại chúng, thực hiện các chương trình tiếp thị, quảng cáo cảu khách hang trên các phương tiện thong tin đại chúng. Điều đó đã tạo ra làn song phản ứng kịch liệt từ các doanh nghiệp quảng cáo trong nước, khiến thủ tướng Phan Văn Khải phải vào cuộc bãi bỏ quyết định đó. Như vậy chính sách bảo hộ cảu nhà nước đã tạo cho các doanh nghiệp nội địa sức ỳ, không chủ động tự thay đổi, đổi mới để bước vào cạnh tranh khi Việt Nam đã gia nhập WTO 1.2.3 Sự yếu kém của các doanh nghiệp quảng cáo trong nước. 1.2.3.1. Chưa có chiến lược kinh doanh lâu dài Đối với các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam, hầu hết chưa họach định chiến lược kinh doanh lâu dài, chủ yếu là vẫn khai thác cái có sẵn, chạy theo việc dễ làm trước mắt mà chưa quan tâm đến viẹc đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật …Số lượng các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam có chiến lược kinh doanh, khẳng định được vị thế và thế mạnh của mình trên thị trường như: Đất Việt, GoldSun, Trẻ, D&D, Vinaxad… chưa nhiều, hầu hết các doanh nghiệp còn lại mới chỉ làm bảng biểu, tổ chức sự kiện hoặc in ấn, thị phần quảng cáo chủ yếu là do các doanh nghiệp nước ngoài nắm giữ. 1.2.3.2 Năng lực yếu kém Có một số ít các công ty quảng cáo trong nước thực hiện đày đủ chức năng từ tư vấn chiến lược đến thực hiện các chiến lược quảng cáo cho khách hang. Nhiều công ty chỉ đơn thuần thực hiện một chức năng hoặc một lĩnh vực dịch vụ, như quảng cáo tấm lớn, quảng cáo ngoài trời hoặc thiết kế đồ hoạ, sản xuất phim quảng cáo truyền hình, tổ chức sự kiện, môi giới tài trợ, quan hệ công chúng… Sự đa dạng ấy nhiều lúc làm người ta lầm tưởng về sự trưởng thành của doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam. Trong khi đó thực chất phần lớn các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam vẫn chỉ thực thi những công đoạn hết sức cụ thể hoặc thuần tuý kỹ thuật, còn phần mang lại nhiều lợi nhuận nhất là hoạch định chiến lược và sang tạo thì nằm gọn trong tay các doanh nghiệp quảng cáo có yếu tố nước ngoài hoăc của nước ngoài. Các công ty nước ngoài thường hoạch định chiến lược quảng cáo cho khách hang và thuê lại các công ty quảng cáo Việt Nam thực hiện do họ không đủ các yếu tố về pháp lý để trực tiếp thực hiện. Phải nhìn nhận thua ngay trên sân nhà là do năng lực của chúng ta yếu kém. Trong ngành quảng cáo, sự sang tạo, lao động chất xám, kỹ năng quản lý được đánh giá rất cao. Thế nhưng, nhiều khi chất xám của công ty nội địa lại không được đánh giá cao. Ví dụ, đại lý quảng cáo của Việt Nam Airlines là hãng D’Acy có vị trí tại Hồng Kông. Chi phí mà Việt Nam Airlines trả cho D’Acy để thiết kế một ấn bản quảng cáo trên báo chí lên đến hang chục ngàn đôla. Trong khi đó, kinh phí để làm một phim quảng cáo truyền hình do hang thuê một ekip nội địa thực hiện chỉ tốn trên dưới trăm triệu đồng. Tương tự vậy một công ty quảng cáo nhỏ thì không thể tính công thiết kế một mẫu quảng cáo báo chí có vài trăm đôla. Một nhiếp ảnh gia có tiếng không thể tính quá 500 USD cho một tấm ảnh quảng cáo, trong khi một nhà nhiếp ảnh nước ngoài hành nghề tại thành phố Hồ Chí Minh có thể lấy tới vài ngàn đôla một ngày. Cụ thể, để sản xuất một phim quảng cáo dài 30 giây, khách hang nhãn hiệu khoai tây chiên Zonzon trả khoảng 150 triệu đồng, tương ững với 4 lần phát song trong chương trình giải trí buổi tối trên VTV3. Và chúng ta cũng biết với những đoạn phim quảng cáo bia Tiger với chi phí trên 1 triệu đôla. Trong khi ấy nhiều phim quảng cáo nội địa chỉ có giá trị vài chục triệu đồng. Đó là những dẫn chứng cho thấy nền công nghiệp quảng cáo Việt nam còn quá nhỏ bé và đang thua thiệt trên thị trường Việt Nam. Ngay cả việc sản xuất các phim quảng cáo các công ty có vốn đầu tư nước ngoài dễ dàng bỏ ra 30 nghìn đến 40 nghìn USD thậm chí có thể lên tới 70 đến 80 nghìn USD cho một phim quảng cáo. Hầu hết các hợp đồng sản xuất phim có ngân sách từ 30 nghìn USD trở lên đều thuộc vào doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài bởi các trang thiết bị của các công ty trong nước lạc hậu và thiếu đồng bộ. Như vậy, do hạn chế về năng lực, thiếu vốn, tài chính, công nghệ, quy mô, kinh nhgiệm…rất nhiều các công ty quảng cáo Việt Nam chỉ làm gia công lại cho các công ty quảng cáo có yếu tố nước ngoài hoặc nước ngoài. Và phần lớn Lợi nhuận là rơi vào tay họ 1.2.4 Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu Quảng cáo là ngành đòi hỏi nhân lực phải có tính sang tạo, phải có kỹ thuật cao nhưng trình độ chuyên nghiệp và vấn đề nhân sự đang là vấn đề lớn của quảng cáo Việt Nam. Trong hệ thống đào tạo của chúng ta chưa có một hệ thống chính quy đào tạo quảng cáo có bài bản. các trường đại học trong nước, thậm chí đến những trường đào tạo lớn như đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, đại học Kinh tế quốc dân thành phố Hồ Chí Minh cũng đưa vào giảng dạy nghiệp vụ quảng cáo song chưa đáp ứng được yêu cầu. Một vài trường khác có khoa Marketing, mỗi khoá cũng chỉ đào tạo vài trăm sinh viên. Nhiều công ty phải tuyển sinh viên tốt nghiệp các ngành ngoại ngữ marketing…để đào tạo lại từ đầu. Công ty Marcom Việt Nam và một số đơn vị klhác mỗi năm cũng chỉ góp sức dào tạo vầi trăm nhân viên nghiệp vụ sơ cấp. Việc phát triển nhân sự do vậy rất chậm chạp. Người được tái đào tạo có khi lại bị vượt mất. Nhiều người trong nghề khi đã có chút kinh nghiệm thường xem lại lương bổng, số khá thì mở công ty riêng, số khác tìm cách lọt vào các công ty nước ngoài với chức anh trưởng phòng hoặc giám đốc các bộ phận với mức lương cao hơn. Một lực lượng quá nhỏ bé như vậy làm sao đáp ứng nhu cầu tư vấn hoạch định chiến lược, xây dựng thương hiệu, thực hiện chương trình quảng cáo cho hang trăm nàg doanh nghiệp trong cả nước. 1.2.5. Cạnh tranh không lành mạnh Chuyện băng rốn quảng cáo dẫm đạp lên nhau. hết hạn giấy phép vẫn không tháo gỡ hiện là chuyện thường ngày tại các ngã tư thành phố. Tình trạng khách hang của công ty này bị công ty khác chào giá rẻ hơn để dựt mối, chụp dựt xảy ra thường xuyên. Cứ thế nhiều công ty lao vào con đường cạnh tranh, chọc gậy bánh xe lẫn nhau, khiến sức lức và vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Giữa các công ty quảng cáo Việt Nam sự lien kết, hợp tác để cùng nhau phát triển là không nhiều. thực trạng cạnh trạnh không lành mạnh dẫn đến sự giảm sut một cách đáng sợ về giá cả dịch vụ. Việt Nam đã gia nhập WTO, trong khi đó những việc làm để chuẩn bị cho hội nhập thì chưa nhiều doanh nghiệp làm. trừ một vài doanh nghiệp quảng cáo đã sẵn nội lực, chưa công ty nào tính đến chiến lược và triển khai các giải pháp để sẵn sàngcạnh tranh bình đẳng với các công ty quảng cáo nước ngoài. Đấy là chưa kể đến gần 2000 doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam nhìn chung chưa đủ năng lực để tự đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh. Hàng loạt vấn đề khác như khả năng tiếp cận thong tin trong nướcvà thế giới, khả năng sang tạo, khả năng áp dụng khoa học công nghệ đều chưa được đặt ra. Doanh nghiệp lung túng, hiệp hội quảng cáo Việt nam còn lúng túng hơn, cơ quan quản lý nhà nước thì chưa thể với tới nhứng vấn đề cụ thể ấy vì vấn đề hoạch định chiến lược phát triển cho toàn ngành quảng cáo Việt nam cũng chỉ mới được nêu lên mà chưa được giải quyết. Còn trong các doanh nghiệp lien doanh và hợp đồng, hợp tác kinh doanh, phần góp vốn của doanh nghiệp Việt Nam chỉ là nhà xưởng đất đai. Mọi hoạt động đều do phía nước ngoài chi phối. PHẦN II. Cơ hội và nguy cơ của các doanh nghiệo quảng cáo Việt nam trong môi trường hội nhập WTO Ngày 7/11/2006 Việt nam là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giớ, trong một sân chơi mới đã tạo ra nhiều cơ hội và nguy cơ cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp uảng cáo Việt Nam nói riêng 2.1.Cơ hội đối với các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam 2.1.1.Thị trường quảng cáo mở rộng Trong vài năm trở lại đây, ngành tương đối ở Việt Nam đã tương đối khởi sắc. các khác hang lớn đổ vào Việt Nam cùng với các công ty quảng cáo, cá doanh nghiệp việt nam cũng bắt đầu nhìn nhận đến sức mạnh của quảng cáo. Họ đã nhận thấy đồng tiền chi cho quảng cáo để xây dựng thương hiệu không phải là đồng tiền bỏ đi. Một điều quan trọng khác là các phương tiện truyền thông đã bán quảng cáo như các chương trình gameshow truyền hình. Sau thời điểm Mỹ thực hiện chính sách mở cửa trở lại với Việt Nam nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài đã thâm nhập thị trường Việt nam. Bắt đầu từ năm 1996, khi việc hợp tác kinh doanh và lien doanh được khởi động ngày càng có nhiều công ty doanh nghiệp hoạt động. việc Việt Nam đã gia nhập WTO, môi trường kinh daonh ngày càng minh bạch, pháp luật được thể chế hoa với các cam kết, nền kinh té ổn định với tốc độ tăng trưởng làn song đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ mạnh hơn, sẽ có nhiều sản phẩm mới mở rộng thị trường cho các công ty quảng cáo trong nước. Việt nam ngày càng hội nhập sâu với khu vực và thế giới. Để có thể cạnh tranh trong môi trường kinh doanh mới các doanh nghiệp không thể tư duy theo lối cũ, ngày càng tiếp thu học hỏi kiến thức kinh doanh hiện đại. ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Coi khoản tiền đầu tư cho xây dựng thương hiệu là khoản tiền đầu tư dài hạn. Điều đó giúp cho các doanh nghiệp quảng cáo có nhiều cơ hội kinh doanh. Gia nhập WTO việc boả hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp khu vực kinh tế nhà nước sẽ dần dần không còn nữa trong khi vị thế độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước tất yếu sẽ bị ảnh hưởng do bị cạnh tranh sẽ gay gắt hơn từ phía các doanh nghiệp tư nhân. Các Doanh nghiệp này ngày càng chi tiêu rộng hơn cho các hoạt động quảng cáo và tiếp thị nhằm mở rộng thị phần. Ví dụ như thực tế gần đây Mobilfone, Vinafone đã bỏ nhiều tiền để xây dựng các chiến lược phát triển, thực hiện tiếp thị quảng cáo bài bản hơn hẳn. Sự nhận thức đúng đắn của các doanh nghiệp trong nước về thương hiệu quảng cáo trong môi trường kinh doanh mới sẽ tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp quảng cáo. Mặt khác xu thế hiện nay, doanh thu từ các loại hình quảng cáo “Below the line” (tổ chức sự kiện, quan hệ công chúng, gửi thu công chúng phát tờ rơi…) nếu trước đây tỷ lệ doanh thu giữa hai loại hình này là 30/70 thì hiện nay tỷ lệ này đang ở ngưỡng 50/50. Các loại hình quảng cáo “Below the line” đang rất dược các doanh nghiệp ưa chuộng vì tính hiệu quả của nó. Trong khi đó các công ty quảng cáo nước ngoài chỉ thiên về “Above the line”. Do vậy đây sẽ là một thị trường vững mạnh cho các công ty quảng Việt Nam vì các hình thức phi truyền thống sẽ ngày càng phát triển và trở nên quan trọng hơn. Các công ty chuyên về gia công hoặc cung ứng, phụ trợ cho ngành quảng cáo cũng sẽ phát triển tốt vì gần như không phải cạnh tranh với các hang quảng cáo nước ngoài 2.1.2. Cơ hội tiếp nhận nguồn vốn đầu tư, học tập kinh nghiệm công nghệ tiên tiến Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, môi trường đầu tư ngày càng minh bạch hơn, dòng tiền đầu tư vào Việt Nam ngà càng nhiều. Trong số đó tất yếu có phần đầu tư vào lĩnh vực quảng cáo. Vì ngành công nghiệp quảng cáo ở Việt Nam còn non yếu, đang hứa hẹn phát triển với tốc độ tăng trưởng nhanh. Có luồng đầu, các doanh nghiệp quảng cáo có cơ hội đổi mới, tiếp cận kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Có đủ vốn để ký các hợp đồng có giá trị cao, chuyên môn hoá hoạt động quảng cáo, áp dụng công nghệ, phương tiện quảng cáo của thế giới. Cũng thấy rằng sẽ có them các doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài nữa nhảy vào thị trường quảng cáo Việt Nam. trước khi coi các doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài là đối thủ trước hết hãy coi họ là đối tác là người chúng ta học tập kinh nghiệm. Khi nói rằng 80% thị trường quảng cáo thuộc về các cong ty nước ngoài thì cũng phải nhìn nhận rằng, họ đang tạo ra môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài vào quảng cáo tại Việt Nam, họ mang theo trình độ kinh doanh hiện đại, tiên tiến cung cách làm ăn chuyên nghiệp. Điều đó một mặt làm các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam trở nên thua thiệt, không đủ sức cạnh tranh ngay trên thị trường Việt Nam. mặt khác chính vì điều đó buộc các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam phải tìm cách học tập cung cách kinh doanh, học tập kiến thức kinh nghiệm của họ để có thể cạnh tranh ngày càng tốt hơn. Gia nhập WTO khi hàng rào bảo hộ được dỡ bỏ, sẽ tạo điều kiện để nhiều công ty quảng cáo nước ngoài có quy mô nhỏ tham gia vào 2.2.Những thách thức đối với các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam 2.2.1.Cạnh tranh khốc liệt hơn Việt Nam gia nhập WTO, thị trường sẽ mở cửa đón thêm nhiều công ty quảng cáo nước ngoài cạnh tranh là tất yếu. Khi Việt Nam chưa gia nhập WTO, số các công ty quảng cáo Việt Nam có khả năng cạnh tranh với các công ty quảng cáo nước ngoài không nhiều. Việc khách hang bỏ qua các công ty quảng cáo trong nước để lựa chọn các công ty quảng cáo nước ngoài là chuyện thường xuyên. Ví dụ như bia tươi đóng chai Laser, Heineken, Samsung, Sony…đã chi hàng chục triệu USD cho những đợt quảng cáo rầm rộ của họ. Tuy nhiên các công ty quảng cáo Việt Nam vẫn đứng ngoài những hợp đồng này bởi trong nhiều trường hợp không thể đáp ứng được các yêu cầu về ý tưởng kỹ thuật… của đối tác. Điều đó chứng tỏ rằng trước các hợp đồng quảng cáo lớn, công ty nước ngoài luôn ở thể chủ động. Chúng ta không đủ năng lực để cạnh tranh với các công ty nước ngoài Các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam có thể chia thanh fba loại. Loại thứ nhất đếm trên đầu ngón tay là một số cong ty chuyên nghiệp có khả năng thực hiện những hợp đồng trọn gói. Loại thứ hai với số lượng vài chục gồm những công ty chỉ chuyên về một lĩnh vực nhất định (quảng cáo ngoài trời, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện…) Loại thứ ba nhiều nhất chủ yếu làm gia công lại (hộp đèn, bảng hiệu…) hoặc những lĩnh vực phụ trợ cho quảng cáo (thiết kế, in ấn…). Gia nhập WTO các doanh nghiệp loại thứ ba sẽ phát triển tốt vì gần như không phải cạnh tranh với các hãng nước ngoài. Loại thứ hai sẽ có ưu thế phát triển ở thị trường trong nước. Khó khăn nhất là các công ty chuyên nghiệp loại một vì phải trực tiếp đối mặt với các công ty nước ngoài. Sau hội nhập sẽ có thêm các công ty nước ngoài gia nhập thị trường nhưng chủ yếu theo loại hình thứ nhất. Việc cạnh tranh vốn khó khăn nay khó khăn hơn 2.2.2 Các chính sách bảo hộ dần dỡ bỏ Theo hiệp định thương mại Việt Mỹ (ngày 13/7/2000) Quy định “các dịch vụ quảng cáo chỉ thông qua liên doanh hay hợp tác kinh doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh hợp pháp dịch vụ quảng cáo”. Mặt khác “ phần góp vốn của phía Hoa Kỳ không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh trong vòng 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, sau 5 năm hạn chế này là 51% và sau 7 năm bỏ hạn chế về tỷ lệ góp vốn. Như vậy, sau năm 2007, Việt Nam sẽ phải mở cửa hoàn toàn ngành quảng cáo cho các nhà đầu tư Mỹ. Là thành viên của WTO, Việt Nam phải tuân theo lộ trình dỡ bỏ các chính sách bảo hộ sau khi bỏ bảo hộ thị trường quảng cáo sẽ tách thành hai mảng: thị trường lớn, những sản phẩm mang lại lợi nhuận cao sẽ thuộc về những công ty quảng cáo mạnh của nước ngoài. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chấp nhận phần thị trường nhỏ. Và không cái gì Việt Nam kể cả trung Quốc, Hàn Quốc hoặc nhiều nước Châu Á khác khi mở cửa thị trường quảng cáo là các doanh nghiệp trong nước đều rất điêu đứng khi các công ty quảng cáo khi các công ty quảng cáo nội địa không còn được bảo hộ như trước nữa thì việc các công ty quảng cáo nước ngoài được hoạt động độc lập cũng là một mối đe doạ sống còn đối với họ. Chỉ riêng việc các công ty nước ngoài được trực tiếp ký hợp đồng quảng cáo với báo, đài mà không còn bị bắt buộc phải thông qua công ty quảng cáo trong nước cũng đủ làm làm cho các cong ty trong nước gặp nhiều khó khăn. Khi các chính sách bảo hộ được dỡ bỏ các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam phải cạnh tranh bình đẳng, còn những ưu tiên từ phía nhà nước đối với họ. Gia nhập WTO các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam nhận thức rất rõ điều này, nhưng số những doanh nghiệp thay đổi tư duy thay đổi hành động chưa nhiều. Phần lớn họ chưa chuẩn bị cho hội nhập vẫn kinh doanh theo hướng xưa nay họ vẫn làm. Khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường quảng cáo, ngày càng tuân theo lộ trình đã cam kết khi gia nhập WTO thì môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch không còn các chính sách bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nước. Khi đó các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam phải cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng với các doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài, trong khi các doanh nghiệp của chúng ta chưa có tiềm lực lớn, chưa kinh doanh quen trong một môi trường kinh doanh như thế. PHẦN III. Một số đề xuất tháo gỡ khó khăn và phát triển các doanh nghiệp quảng cáo Khi Việt Nam chưa gia nhập WTO, mặc dù có nhiều chính sách bảo hộ nhằm ưu tiên các doanh nghiệp quảng cáo nội trong cuộc cạnh tranh với các daonh nghiệp quảng cáo nước ngoài. Tuy được hưởng nhiều ưu tiên nhưng đó vẫn không phải là cuộc cạnh tranh cân sức. Chúng ta luôn yếu thế hơn do ngành quảng cáo ở Việt Nam còn quá non trẻ. Việt Nam đã gia nhập WTO, trong môi trường mới có nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức cho sự phát triển của các doanh nghiệp quảng cáo trong nước. Vậy hơn lúc nào hết cần có những giải pháp 3.1.Về phía nhà nước Sẽ có nhiều việc phải làm để khởi động cho sự tăng tốc của nền công nghệ non trẻ của Việt Nam để ngành quảng cáo tự tin bước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt mới. Trước hết phải nhìn nhận lại toàn bộ thị trường, từ đó lập ra một chiến lược phát triển. Ngành quảng cáo Việt Nam muốn thực sự lớn mạnh nhất thiết phải được quy hoạch một cách ở tầm vĩ mô và trong từng doanh nghiệp. Nhưng hiện nay có một vấn đề khó khăn là các nhà quản lý vẫn còn lúng túng chưa thống nhất trong việc lựa chọn cách làm: từ cơ sở lên hay áp đặt từ trên xuống. Dù lựa chọn cách làm nào thì việc xây dựng một quy hoạch đã là một yêu cầu cấp bách để tiến tới xây dựng ngành quảng cáo Việt Nam hiện đại có khả năng cạnh tranh. Chiến lược được đề ra và thực hiện sẽ khắc phục được tình trạng phát triển manh mún, phân tán trong quảng cáo Việt Nam, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, nâng cao số lượng, chất lượng cán bộ chuyên môn và góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình hoạch định chiến lược bộ chuyên trách phải tôn trọng ý kiến của hiệp hội quảng cáo, ý kiến cảu các doanh nghiệp để quá trình hoạch định tập trung được nhiều chất xám, xây dựng một chiến lược khoa học cho quảng cáo Việt Nam. Trong cơ chế quản lý Nhà nước về quảng cáo phải có các chế độ chính sách để tạo hành lang pháp lý cho các daonh nghiệp, khai thông các rào cản và giảm thiểu chi phí gia nhập thị trường. Tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nâng cao các biện pháp cải cách hành chính, hoàn thiện luật pháp liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp quảng cáo. Làm tốt những việc như thế một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp quảng cáo phát triển mặt khác hạn chế các dịch vụ quảng cáo “phản cảm” xảy ra Hiện nay, việc quan trọng cần làm trước tiên để phát triển ngành quảng cáo là tháo gỡ trói buộc về giới hạn mức quảng cáo. Nhưng việc tháo gỡ như thế nào thì Nhà nước nên tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp một cách cẩn thẩn. Việc bỏ mức trần đối với qaủng cáo vẫn sẽ được xem xét một cách cặn kẽ theo hướng vừa bảo vệ doanh nghiệp trong nước trước sức ép của các đối tác nước ngoài vừa thực hiện đúng cam kết quốc tế. Trước mắt là thế, song chủ trương lớn hơn nữa là tiến đến cổ phần hóa khuyến khích các thành phần kinh tế, tư nhân đang hoạt động kinh doanh, thành lập doanh nghiệp quảng cáo. Thực trạng kinh doanh của các công ty quảng cáo Việt Nam cho thấy vấn đề năng lực của đội ngũ làm quảng cáo, trình độ nhân lực của quảng cáo Việt Nam còn yếu kém. Nhận thấy đây là mọt khâu yếu kém cần phải khắc phục để quảng cáo Việt Nam cạnh tranh trong môi trường hội nhập WTO, ngày 26/07/2006 thứ trưởng bộ văn hoá – thông tin đồng thời là chủ tịch hiệp hội quảng cáo Đinh Quang Ngữ đã ký quyết định thành lập viện Nghiên cứu và đào tạo quảng cáo. Trong tương lai viện này sẽ có các chi nhánh và thực hiện việc tuyển sinh đào tạo sinh viên cũng như liên kết đào tạo cho các doanh nghiệp. Đây cũng được coi là một bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển ngành quảng cáo Việt nam. Vai trò của Nhà nước trong việc đầu tư vào giáo dục đào tạo là rất quan trọng để tạo ra nguồn nhân lực làm quảng cáo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực. Hiệp hội quảng cáo Việt nam (VAA) đã đư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc15721.DOC
Tài liệu liên quan