Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng cục Thống kê, chỉ tính riêng năm 2005, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới (chủ yếu là SME) đã là 45.162 doanh nghiệp, bằng tổng số doanh nghiệp trước giai đoạn 2000.
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô về vốn của các SME trong những năm gần đây lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp.
Chính vì thế các SME phải đối mặt với nhiều bất lợi:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động, các số liệu thống kê cho thấy, trong tổng số 88.222 SME năm 2004 có 2.211.895 lao động, tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 25 lao động.
Như vậy, quy mô về vốn và lao động của SME Việt Nam còn quá nhỏ so với quy mô doanh nghiệp thông thường của các nước phát triển và có nền kinh tế mới nổi. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào WTO.
Do quy mô của các SME như vậy kéo theo hiệu quả kinh doanh không cao. Năm 2004, lợi nhuận bình quân của SME là 240 triệu đồng (khoảng 16.000 USD), thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận bình quân/ doanh nghiệp của cả nước (khoảng 1,14 tỷ đồng).
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2268 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính thức được thành lập và độc lập với Liên Hợp Quốc.
Hiện nay Tổ chức Thương mại thế giới gồm 151 thành viên là các quốc gia và vùng lãnh thổ. Hầu như thành viên WTO là thành viên của Liên hợp quốc (Liên hợp quốc có 192 thành viên).
Cơ cấu tổ chức của WTO
2.1. Cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng – HNBT (Ministerial Conference), họp ít nhất là 2 năm một lần. HNBT có quyền quyết định mọi vấn đề phát sinh từ các hiệp định.
HNBT lần đầu tiên họp ở Singapore năm 1996 lập thêm 3 nhóm làm việc về quan hệ thương mại và đầu tư, quan hệ thương mại và cạnh tranh, và tính minh bạch trong mua sắm của chính phủ.
HNBT lần hai họp năm 1998 ở Geneva đã quyết định WTO phải nghiên cứu thêm về thương mại điện tử.
HNBT lần ba được tổ chức vào ngày 30 tháng 11 đến 03 tháng 12 năm 1999 tại Seattle
HNBT lần tư tại Doha được tổ chức vào ngày 9-13 tháng 11 năm 2001.
HNBT lần năm được tổ chức vào ngày 10-14 tháng 09 năm 2003 tại Canam, Mexico.
2.2. Giữa hai kỳ Hội nghị Bộ trưởng, các công việc được điều hành bởi Đại Hội đồng, gồm các đại sứ hay trưởng phái đoàn của tất cả các nước thành viên tại Geneva, mỗi năm họp một vài lần tại Geneva.
Đại Hội đồng còn có vai trò là Cơ quan giám sát chính sách thương mại và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Đại hội đồng hành động nhân danh HNBT và chịu trách nhiệm trước HNBT.
2.3. Cấp thứ ba là các Hội đồng về nhiều lĩnh vực khác nhau:
Hội đồng về Thương mại hàng hoá (Goods Council),
Hội đồng về Thương mại dịch vụ (Services Council), và
Hội đồng về Những vấn đề liên quan đến Sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (TRIPS Council)
Các Hội đồng này chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng. Như tên gọi của mình, các Hội đồng này làm việc trên các Hiệp định của các lĩnh vực này. Các hội đồng này cũng bao gồm các thành viên của WTO.
Ngoài ra, còn có 6 Uỷ ban chuyên trách hay nhóm làm việc liên quan đến từng hiệp định hay lĩnh vực riêng lẻ như Thương mại và Phát triển; theo dõi các hoạt động hạn chế thương mại được tiến hành nhằm cân đối các mục đích chi trả; theo dõi các hiệp định thương mại trong khu vực; hợp tác trong môi trường đầu tư; và công tác tài chính cũng như quản trị của WTO.
Những hội đồng, ủy ban hay nhóm này cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên và chịu trách nhiệm trước Đại Hội đồng.
2.4. Cấp thứ tư là các Tiểu ban trực thuộc Đại Hội đồng và các Hội đồng. Các Tiểu ban này chịu trách nhiệm điều hành việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành viên.
Hội đồng Hàng hóa có 11 Tiểu ban điều hành các công việc chuyên biệt (như nông nghiệp, tiếp cận thị trường, các biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp…). Ngoài ra, Hội đồng Hàng hóa còn có Cơ quan giám sát hàng dệt bao gồm 1 Chủ tịch, 10 thành viên và các nhóm chuyên biệt khác phụ trách các thông báo, các công ty thương mại quốc gia.
Hội đồng Dịch vụ gồm có các TiÓu ban về dịch vụ tài chính, các Tiểu ban về các cam kết cụ thể.
Cơ quan Giải quyết tranh chấp của Đại hội đồng có hai tiểu ban là các hội đồng chuyên gia được chỉ định giải quyết tranh chấp và cơ quan xét xử kháng cáo.
2.5. Đoàn thư ký của WTO gồm trên 600 nhân viên, đứng đầu là một Tổng thư ký, toàn bộ văn phòng đóng ở Geneva. Việc ra các quyết định đều do các nước thành viên đảm trách, do đó Đoàn Thư ký không có thẩm quyền ra quyết định. Nhiệm vụ chính của Đoàn Thư ký là cung ứng kỹ thuật cho các Hội đồng, Uỷ ban và Hội nghị Bộ trưởng, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển, phân tích tình hình thương mại thế giới và giải thích các công việc của WTO cho công chúng và báo chí, truyền thông.
Đoàn thư ký cũng trợ giúp về pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp và tư vấn cho các chính phủ muốn gia nhập WTO.
2.6. Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với nhiều tổ chức khác, mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá trị ngang nhau.
Các quốc gia có lãnh thổ tự chủ về chính sách thương mại đều có thể gia nhập WTO với điều kiện thông thường là tất cả các thành viên chấp nhận. Khi không thể đạt được đồng thuận, việc kết nạp có thể chỉ cần 2/3 phiếu bầu
Cơ chế trong các hoạt động của WTO:
- Ra quyết định ( Khi sửa đổi bổ sung nguyên tắc Tối huệ quốc, nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia phải được chấp thuận của tất cả các thành viên. Khi thông qua giải thích về các điều khoản của Hiệp định WTO và các hiệp định đa biên hay cho phép một số nước miễn thực hiện một nghĩa vụ nào đó phải được 3/4 số phiếu thuận. Khi sửa đổi các điều khoản khác trong các hiệp định thương mại đa phương phải được 2/3 số phiếu thuận.)
- Giải quyết tranh chấp ( Cơ chế này được xây dựng trên nguyên tắc: Công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được. Cấm đơn phương áp dụng các biện pháp trừng phạt)
- Rà soát chính sách thương mại ( Thực hiện theo nguyên tắc các nước có vị trí quan trọng trong thương mại quốc tế thì phải được rà soát thường xuyên hơn các nước thành viên khác).
Ngoài ra WTO còn có một số biện pháp ngoại lệ trong thương mại như chống bán phá giá, trợ cấp và thuế đối kháng, các biện pháp khẩn cấp tạm thời hạn chế nhập khẩu nhằm cứu vãn các ngành sản xuất kinh doanh trong nước
Nguyên tắc cơ bản của WTO
4.1. Nguyên tắc thứ nhất : Không phân biệt đối xử
Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phÈm của một thành viên khác đối xử không kém ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó dành cho sản phẩm của một nước thứ ba (Đãi ngộ Tối huệ quốc-MFN)
Mỗi thành viên sẽ không dành cho sản phẩm của công dân nước mình đối xử ưu đãi hơn so với sản phÈm của người nước ngoài (Đãi ngộ quốc gia-NT)
4.2. Nguyên tắc thứ hai : Thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán
Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương.
4.3. Nguyên tắc thứ ba : Dễ dự đoán
Các nhà đầu tư cũng như chính phủ nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thương mại (thuế quan và phi thuế quan khác) sẽ không bị tăng một cách tuỳ tiện. Cam kết về thuế quan và các biện pháp khác bị "ràng buộc" về mặt pháp lý.
4.4. Nguyên tắc thứ tư : Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng
Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định.
4.5. Nguyên tắc thứ năm : Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi
Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách.
Các mục tiêu của WTO:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được hưởng thụ những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triÓn kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
WTO thực hiện các chức năng:
Mục đích bao trùm của WTO là làm cho thương mại hoạt động thông suốt, tự do, công bằng và tiên đoán được. Để đạt mục đích đó, WTO có những chức năng sau đây:
- Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
- Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các diễn đàn đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
- Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thuơng mại đa phương và nhiều bên.
- Là cơ chế kiểm điểm hay giám sát chính sách thương mại của các quốc gia là thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO .
- Hỗ trợ các nước đang phát triển về chính sách thương mại, thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và huấn luyện, đào tạo...
- Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong viêc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ được viết tắt là SME
Doanh nghiệp vừa và nhỏ “là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”, cho thấy, tuyệt đại đa số doanh nghiệp của chúng ta nằm trong “bảng”.
Xác định tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt, đối xử so với các DNNN giảm nhiều. Đặc biệt, ở một số yếu tố quan trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như việc tiếp cận với các nguồn vốn, công nghệ, đất đai, lao động, thông tin thị trường đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với những năm trước đây.
Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp vừa mà nhỏ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Như chúng ta đã biết Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7/11/2006. Khi chúng ta tham gia hội nhập cơ hội quan trọng giao lưu các luồng hàng hoá giữa các quốc gia khác được đẩy mạnh kéo theo luồng vốn đầu tư giao lưu cũng được đẩy mạnh từ đó đẫn đến luồng chuyển giao kỹ thuật công nghệ và lao động cũng được đẩy mạnh. Chúng ta hãy tìm hiểu về những cơ hội khi Việt Nam ra nhập WTO cho những doanh nghiệp vừ và nhỏ.
Cơ hội
Một là: khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử.
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy, các SME hiện đang chiếm tới 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 25% tổng đầu tư xã hội và thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp.
Hầu hết các sản phẩm của SME của Việt Nam có giá thành cao, khối lượng nhỏ lẻ, tiêu thụ ở thị trường nội địa nên rất khó thâm nhập vào các thị trường nước ngoài nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch.
Do đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được rỡ bỏ, các sản phẩm của các SME sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn, nhờ đó sẽ khai thác được lợi thế lao động rẻ.
Trong những năm vừa qua, có tới trên 80% các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của các SME chủ yếu từ nhập khẩu. Mặt khác, do hạn chế về năng lực tài chính nên các SME rất khó nhập khẩu trực tiếp từ các đối tác nước ngoài, đồng thời các doanh nghiệp này cũng không thể dự trữ được nhiều nguyên vật liệu nhập khẩu nên nguyên liệu thường phải mua lại từ các cơ sở đại lý, do đó đã làm tăng chi phí sản xuất và rất khó nắm bắt được nhu cầu của khách hàng nước ngoài.
Hội nhập WTO khiến cho hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với giá rẻ và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập và các SME cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực tiếp với các nhà phân phối của nước ngoài.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Khi thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam, tính minh bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức hữu trách đối với các SME cũng sẽ được nâng cao. Mặt khác, hiện tượng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các SME (chủ yếu là khu vực tư nhân) sẽ không còn, nên các SME sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các nguồn lực tài chính, gia nhập thị trường, hỗ trợ kinh doanh.
Xét về dài hạn, trước áp lực cạnh tranh, các SME sẽ phải tích cực nâng cao năng lực quản lý, đổi mới công nghệ, chú trọng sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng và cải thiện văn hoá doanh nghiệp, nhờ đó phát triển doanh nghiệp bền vững hơn trong môi trường cạnh tranh quốc tế.
Nhà nước nên hướng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào mặt mạnh của Việt Nam - đó là con người. Dân số trẻ và thông minh là điểm rất mạnh của người Việt Nam. Việc đầu tiên là phổ cập tiếng Anh và phổ cập Internet. Sau đó, tuỳ từng khu vực (lao động trình độ cao và trình độ trung bình) mà Nhà nước cần có những định hướng khác nhau.
Đối với lao động trình độ trung bình, cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động và đưa người Việt Nam ra nước ngoài để học tập và kiếm thu nhập và khởi nghiệp, đồng thời giáo dục đạo đức, văn hoá, văn minh cho người Việt Nam trước khi ra nước ngoài. Khi người Việt đã trở thành một cộng đồng đông dân khắp năm châu, họ sẽ là đầu cầu đề các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vươn ra thế giới.
Đối với lao động trình độ cao, cần tạo ra cạnh tranh trong ngành giáo dục để các trường trong nước sớm đuổi kịp các nước trong khu vực ít nhất là về chương trình đào tạo, sau đó là về nghiên cứu khoa học. Ngân sách nhà nước trong ngành giáo dục phải gắn với điều kiện cải tiến phương pháp và chương trình giảng dạy. Trường nào không chịu thay đổi nhất quyết phải bị cắt giảm ngân sách. Sau đó, trong các trường nên tạo ra các vườn ươm doanh nghiệp (incubator) để sinh viên ra trường có thể trở thành chủ doanh nghiệp, cũng như các trung tâm xúc tiến thương mại hoá nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ba là: Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.Các SME đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia và chi phối hầu hết các hoạt động phân phối (bán lẻ) của cả nước (chiếm tỷ trọng khoảng 80% năm 2003).
Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường (MNF) và đối xử quốc gia (NT) giữa các nước thành viên WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các SME ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Bốn là: Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.Cơ quan quản lý cạnh tranh phải sớm ra đời để có thể thực thi được Luật Cạnh tranh, bảo vệ được người tiêu dùng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi Việt Nam gia nhập WTO phải thực hiện rất nhiều những cam kết chính đều này đã thúc đẩy nhà nước tiến hành nhiều cải cách trong nước và nhờ đó tiến trình cải cách cũng có hiệu quả hơn. Những cải cách về thể chế chính trị kinh tế văn hoá xã hội…tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp tiêu biểu trong đó là các doanh nghiệp SME.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm Đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
Khi gia nhập WTO các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sẽ nâng cao đựoc vị thế của mình trên trường quốc tế. Với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tham gia vào thị trường các nước sẽ giúp cho Việt Nam tạo thêm được nhiều mối quan hệ than thiết với các quốc gia trên toàn thế giới. Tạo điều kiện cho Việt Nam khai thác có hiệu quả đường lối đối ngoại của mình.
Thách thức
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn
Khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường thế giới sẽ rộng mở cho các sản phẩm của SME. Để tận dụng được cơ hội này không phải dễ, do những hạn chế về quy mô nhỏ, chi phí sản xuất cao, kiểu dáng sản phẩm đơn điệu, chất lượng sản phẩm chưa cao và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị nên các SME rất khó tiếp cận trực tiếp được với thị trường nước ngoài.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng cục Thống kê, chỉ tính riêng năm 2005, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới (chủ yếu là SME) đã là 45.162 doanh nghiệp, bằng tổng số doanh nghiệp trước giai đoạn 2000.
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô về vốn của các SME trong những năm gần đây lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Chính vì thế các SME phải đối mặt với nhiều bất lợi:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động, các số liệu thống kê cho thấy, trong tổng số 88.222 SME năm 2004 có 2.211.895 lao động, tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 25 lao động.
Như vậy, quy mô về vốn và lao động của SME Việt Nam còn quá nhỏ so với quy mô doanh nghiệp thông thường của các nước phát triển và có nền kinh tế mới nổi. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào WTO.
Do quy mô của các SME như vậy kéo theo hiệu quả kinh doanh không cao. Năm 2004, lợi nhuận bình quân của SME là 240 triệu đồng (khoảng 16.000 USD), thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận bình quân/ doanh nghiệp của cả nước (khoảng 1,14 tỷ đồng).
Các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận/vốn và lợi nhuận/doanh thu cũng thấp, ở mức 3 tỷ đồng và 2,57 tỷ đồng so với các mức bình quân chung các doanh nghiệp cả nước là 4,85 tỷ đồng và 5,99 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, các SME chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe máy (chiếm 40,6% doanh nghiệp của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng (13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh tài sản, tư vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%).
Theo quy định của WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối nước ngoài, do đó, với quy mô lớn, mạng lưới phân phối toàn cầu và có tính chuyên nghiệp cao, các công ty nước ngoài sẽ là những đối thủ lớn, đe doạ sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam. Một thực trạng phổ biến trong các SME là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới.
Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30-50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp.
Nhiều SME rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường.
Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các SME của Việt Nam trước áp lực cạnh tranh quốc tế.
Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển".
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
Nước ta vẫn là một nước nhỏ với một nền kinh tế chưa mạnh khi gia nhập WTO các doanh nghiệp vừa và nhở Việt Nam đứng trước rất nhiều thách thức lớn. Kinh nghiệm quản lý của các lãnh đạo doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu khốc liệt của thì trường. Đặc biệt là trong việc đưa doanh nghiệp vận hành theo nền kinh tế thị trường với tốc độ cao
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nói chung các doanh nghiệp SME nói riêng hiện nay chưa chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm để ý đến vấn đề này. Mà khi gia nhập WTO Việt Nam đã phải cam kết trong vấn đề bảo vệ môi trường do vậy các SME phải đầu tư một khoản không nhỏ cho vấn đề bảo vệ môi trường và phải thực hiện tốt vấn đề này để đảm bảo vệ sinh môi trường trong nước.Khi hội nhập thế giới tất nhiên sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thì trường Việt Nam vấn đề giữa gìn bản sắc văn hoá truyền thống của từng doanh nghiệp đã có là vấn đề mà các doanh nghiệp SME sẽ phải làm để tránh cho các thành viên trong doanh nghiệp mình đi theo lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền. Mỗi một SME luôn có những văn hoá doanh nghiệp riêng của mình khi hội nhập các cán bộ quản trị trong SME nên quan tâm hơn đến văn hoá trong doanh nghiệp mình vì đây sẽ là lợi thế nếu chúng ta giữ được khi tham gia cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Chính vì thế rất nhiều đối thủ cạnh tranh sẽ lợi dụng vấn đề này làm cho văn hoá doanh nghiệp của các SME thay đổi theo hướng có lợi cho họ.
Tuy nhiên các SME của ta còn gặp một khó khăn nữa trong văn hoá doanh nghiệp khi hội nhập là nhiều doanh nghiệp nước ngoài khi thâm nhập vào thị trường nước ta họ có phong cách bán hàng rất chuyên nghiệp đây là một nét văn hoá doanh nghiệp mà các SME nên thực hiện tốt ngay từ bây giờ. Các SME hãy học cho mình tác phong phục vụ khách hàng một cách chuyên nghiệp hơn điều này cũng rất cần khi các doanh nghiệp SME tham gia thị trường thế giới.
Như vậy chúng ta có thể thấy được rằng hiện nay các SME đang gặp phải rất nhiều thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO những nhà quản trị của SME cần phải nắm bắt được những điều này để đưa ra những chiến lược cho doanh nghiệp mình cho hợp lý. Với sự ủng hộ của nhà nước cùng với những thuận lợi có được khi gia nhập WTO cũng là những điều kiện khuyến khích các SME hình thành và phát triển nhiều hơn nữa, vậy những nhà quản trị hãy chớp lấy những thời cơ này thành lập những SME mới. Hiện nay nhà nước có rất nhiều những chính sách ưu đãi đối với những doanh vừa và nhỏ nhằm khuyến khích sự ra đời của những doanh nghiệp mới. Các nhà quản trị hãy chọn cho mình những thời cơ thích hợp để xây đựng và phát triển những SME sao cho các SME có thể sánh vai cùng các doanh nghiệp trên thế giới.
Nhà nước phải có những chính sách hợp lý nhằm khuyến khích sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi gia nhập WTO nhà nước nên hoàn thiện hơn nữa về những chính sách của mình về những ưu đãi đối với các SME, các doanh nghiệp này chính là một tiềm năng mới giúp cho nền kinh tế đất nước có thể phát triển có thể đưa nước ta dần trở thành một nước công nghiệp. Nhà nước cũng cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình tạo điều kiện tin tưởng cho các doanh nghiệp có thể yên tâm kinh doanh thâm nhập và phát triển hơn nữa ở thị trường trong nước và ngoài nước
KẾT LUẬN
Chúng ta có thể nhận thấy rằng khi gia nhập WTO thuận lợi đối với SME là rất lớn nhưng những khó khăn với những doanh nghiệp này cũng không phải là nhỏ. Với xu thế này các SME cần nhận biết rõ về thuận lợi và khó khăn của mình khi đất nước hội nhập. Từ đó các SME hãy xây đựng cho mình chiến lược phát triển cho hợp lý nhằm phát huy những cơ hội mà mình có được và hạn chế những khó khăn. Phải làm sao tạo cho doanh nghiệp mình chỗ đứng vững trắc hơn trên trường quốc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi Việt Nam gia nhập WTO.DOC