LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I. MỨC ĐỘ CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 2
I. Khái niệm về Nguồn nhân lực (NNL). 2
II. Tình hình hội nhập kinh tế thế giới. 3
III. Tính tất yếu khách quan cần phải: đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 4
PHẦN II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 6
I. Thực trạng về nguồn nhân lực 7
1. Đặc điểm về số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực. 7
2. Về chất lượng lao động. 10
2.1. Trình độ văn hóa của lực lượng lao động ( LLLĐ). 10
2.2. Trình độ chuyên môn kĩ thuật (CMKT) của LLLĐ. 11
II. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của Việt Nam trong tình hình hội nhập kinh tế. 13
1. Cơ hội. 13
2. Thách thức. 15
3. Kết luận chung. 17
PHẦN III. ĐỊNH HƯỚNG CHO CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY. 18
I. Thực trạng về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của nước ta trong giai đoạn hiện nay. 18
1. Đào tạo trung học chuyên nghiệp (THCN), cao đẳng, đại học và trên đại học. 18
1.1. Thuận lợi. 18
1.2. Khó khăn. 20
2. Đào tạo nghề. 22
2.1 Quy mô đào tạo nghề. 22
2.2 Chất lượng đào tạo nghề. 27
3. Đào tạo trong doanh nghiệp 29
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong tiến trình hội nhập 31
1. Hoàn thiện đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo. 31
1.1. Xây dựng cơ sở giáo dục đào tạo chất lượng cao. 33
1.2. Cải cách nội dung, phương pháp giáo dục đào tạo. 34
1.3. Các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên. 34
1.4. Các giải pháp về thu hút học sinh, sinh viên tham gia học tập. 35
1.5. Giải pháp về hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đào tạo chuyên môn kỹ thuật. 35
1.6. Phát triển quan hệ quốc tế trong giáo dục đào tạo. 36
2. Đào tạo chuyên môn kĩ thụât gắn với việc làm. 37
2.1. Đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật gắn với việc làm 37
2.2. Phối kết hợp đồng bộ các giải pháp của Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân người lao động trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. 39
2.2.1. Nhà nước. 39
2.2.2 Trong các doanh nghịêp. 40
2.2.3. Đối với cá nhân người lao động. 44
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
48 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 8962 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những định hướng cho công tác đào tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o động. Đây đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển và sử dụng có hiệu quả NNL, phát triển kinh tế đất nước.
Phần IiI. Định hướng cho công tác đào tạo nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
I. Thực trạng về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Đào tạo trung học chuyên nghiệp (THCN), cao đẳng, đại học và trên đại học.
1.1. Thuận lợi.
Theo C.Mác, “một lao động được coi là cao hơn, phức tạp hơn so với lao động trong xã hội trung bình là biểu hiện của một sức lao đông đòi hỏi những chi phí đào tạo cao hơn, người ta phải tốn nhiều thời gian lao động để tạo ra nó và vì vậy, nó có một giá trị cao hơn so vói sức lao động giản đơn. Nếu giá trị của của sức lao động đó cao hơn thì nó cũng biểu hiện ra trong một lao động cao hơn và vì vậy, trong những khoảng thời gian như nhau, nó sẽ được vật hóa trong các giá trị tương đối hơn.”
Để nâng cao trình độ cho người lao động, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề giáo dục lên trở thành quốc sách hàng đầu. Hiện nay, nguồn nhân lực có trình độ cao (từ THCN, cao đẳng, đại học trở lên) đang có sự phát triển tương đối mạnh ở Việt Nam, nhất là từ năm 1990 đến nay.
Bảng 2: Bảng số liệu học sinh, sinh viên các trường THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học từ năm 1995 đến năm 2005 (nghìn người).
Năm
1995
1999
2000
2001
2002
2005
CĐ,ĐH
297,9
734,9
795,6
873
908,8
1078,6
THCN
165,6
195,9
250,9
262,8
371,1
551,4
Nếu năm 1995 cả nước mới chỉ có 165,6 nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp thì đến năm 2002 tăng lên 317,1 nghìn (tăng 2,24 lần ), bình quân hàng năm tăng 17,7 %. Đào tạo cao đẳng đại học cũng có xu hướng tăng, năm 1990 mới chỉ có 129,6 nghìn sinh viên thì đến năm 1995 con số này là 297,9 nghìn người (tăng 2,3 lần) trung bình hằng năm trong giai đoạn 1990-1995 tăng 25,97%. Năm 2002 là 908,8 nghìn người (tăng 3,05 lần) trung bình hằng năm tăng 29,3 %. Như vậy, quy mô đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học liên tục tăng qua các năm. Điều này được biểu hiện qua biểu sau:
Biểu 4: Quy mô đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học.
Có thể thấy rằng trong những năm qua nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển với nhiều đổi mới và đạt được những thành tựu đáng kể. GDP và GNP hàng năm tăng nhanh, tốc độ phát triển kinh tế bình quân hàng năm đạt 8,17%(năm 2006), thu nhập bình quân đầu người tăng, mức sống của người dân được cải thiện đáng kể. Đồng thời với sự phát triển của nền kinh tế là sự phát triển của thị trường lao động, đây chính là những nhân tố quan trọng thúc đẩy đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học. Người dân cũng quan tâm đến việc học hành và hướng nghiệp của con cái hơn. Điều đặc biệt là những quan niệm trọng nam khinh nữ cũng đang dần được xóa bỏ, số học sinh và sinh viên nữ cũng tăng lên.Trong các năm qua, đào tạo các cấp trình độ này đã có định hướng vào các ngành, lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh như: công nghệ thông tin, điện tử, xây dựng, viễn thông, du lịch, tài chính, nhân hàng, điện năng, giao thông, thương nghiệp, sư phạm, khoa học và công nghệ Do đó đã phần nào đáp ứng được nhất định nhu cầu sử dụng lao động có trình độ cao trong các ngành và lĩnh vực trên. Nhìn tổng thể có thể thấy nguồn nhân lực có trình độ cao ở nước ta bao gồm những người có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn cao, có khả năng vươn tới đỉnh cao mới trong khoa học công nghệ.Họ có khả năng nhanh chóng nắm bắt và vận dụng những tri thức tiên tiến của thời đại, những kinh nghiệm quý giá của các quốc gia trên thế giới để xây dựng đất nước.
Như vậy, xét trên phạm vi tổng thể nền kinh tế, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học có tác động lớn đến nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhân lực của quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi của việc đào tạo NNL có trình độ từ THCN trở lên thì cũng gặp không ít những khó khăn trong vấn đề này.
1.2. Khó khăn.
Những năm đổi mới, chất lượng giáo dục đại học cơ bản cũng có những cải biến theo hướng gắn chặt với thực tế Việt Nam, phù hợp với xu thế hội nhập của thế giới. Số sinh viên đủ năng lực tìm được việc làm hay tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp tăng lên, trong đó có nhiều sinh viên thi lấy bằng đại học thứ 2, học cao học, thi thêm các chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, tìm được những công việc và vị trí phù hợp. Số lượng học sinh, sinh viên tuy tăng mạnh nhưng chất lượng trong đào tạo nguồn lao động trình độ cao ở nước ta còn nhiều bất cập. Số lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường nhận được việc làm tuy có tăng nhưng vẫn còn một lượng lớn số sinh viên ra trường không xin được việc. Điều này chịu ảnh hưởng bởi nhiều lí do có cả khách quan và chủ quan. Một trong số những lí do đó có liên quan đến vấn đề đào tạo trong các trường.
Đầu tiên có thể nói đến là vấn đề hướng nghiệp cho những người chuẩn bị bước vào các trường THCN, cao đẳng và đại học. Hiện nay có thể nói trên thị trường Việt Nam luôn xảy ra tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực cao mặc dù số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo nghề vẫn đang tăng lên. Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kĩ thuật viên, các nhà quản lí trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi. Trong khi đó một lượng đông đảo các cử nhân hổng kiến thức và thiếu kinh nghiệm thực tế. Phần lớn đội ngũ các nhà quản lý ở các doanh nghiệp Việt Nam chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế và kinh doanh trong thị trường. Họ có khả năng tiếp thu nhanh nhưng thiếu kiến thức đồng bộ. Điều đó giải thích vì sao doanh nghiệp của ta thường yếu và lúng túng khi đàm phán làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài.Tuy nhiên việc gắn đào tạo với việc sử dụng lao động và tạo việc làm hướng dẫn về ngành nghề trong những kì thi tuyển sinh hầu như còn bị thả nổi. Hầu hết các học sinh đều không xác định được ngành nghề mình định học trước khi chọn trường để thi. Điều này càng phổ biến ở những gia đình nông thôn. Bởi vì hầu hết cuộc sống ở quê của những người dân còn phụ thuộc nhiều vào nghề trồng lúa, do đó thu nhập chưa cao và song song với đó là việc lo lắng định hướng nghề nghiệp cho con cái còn gặp nhiều khó khăn do thiếu kiến thức và hiểu biết về các ngành nghề đào tạo trong các trường đại học. Mặc dù hiện nay trên kênh thông tin đại chúng đã có những chương trình phổ biến kiến thức về tuyển sinh nhưng thực chất vấn đề này đến được người dân nông thôn còn cả một quãng đường dài. Vậy tại sao không tổ chức một chương trình định hướng nghề nghiệp trong các trường THPT trực tiếp cho các em học sinh?
Bên cạnh đó cần tổ chức tốt hệ thống thông tin liên ngành, trước hết bao gồm các ngành kế hoạch-đầu tư, lao động, đào tạo và các ngành khác tham gia, giúp cho mọi người có những thông tin cần thiết và đáng tin cậy. Công việc này sẽ trở nên sát thực tế, kịp thời, hiệu quả bằng cách sử dụng công nghệ thông tin.
Tiếp theo có thể kể đến là cơ sở vật chất của các trường còn gặp nhiều khó khăn, trang thiết bị học tập còn thiếu do đó quá trình nghiên cứu, thí nghiệm và thực hành của học sinh, sinh viên không có đầy đủ điều kiện để học tập và nghiên cứu. Đặc biệt ở một số trường Đại học dân lập, số lượng giáo viên ít, chủ yếu thuê giáo viên từ các trường công lập do đó kế hoạch giảng dạy cũng gặp không ít những vướng mắc. Bên cạnh đó địa điểm học phân tán ở nhiều nơi, thiếu ánh sáng, thiếu thiết bị thí nghiệm nên kết quả học tập chưa đạt được như mong muốn. Đây chính là một vài lí giải khiến cho các trường đại học ở Việt Nam còn yếu trong việc cạnh tranh với các trường đại học trên thế giới, hầu hết các bằng đại học ở Việt Nam còn chưa được thế giới công nhận. Theo nguồn số liệu của Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục công bố năm 2004, chỉ số tổng hợp về chất lượng giáo dục nước ta chỉ đạt 3,79 điểm trên tổng thang điểm 10, thua kém rất nhiều nước trong khu vực và châu á (theo quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn-nhà xuất bản khoa học và xã hội năm 2004 trang 145 ).Trong khi số lượng học sinh, sinh viên liên tục tăng nhanh thì tốc độ tăng của đội ngũ giáo viên lại chậm hơn nhiều. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến vấn đề giáo dục và đào tạo NNL chất lượng cao.
2. Đào tạo nghề.
2.1 Quy mô đào tạo nghề.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã chú trọng đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là chính sách giáo dục đào tạo được đánh giá là thành công so với một số nước trong khu vực. Đã hình thành và phát triển hệ thống đào tạo nguồn nhân lực từ các trường đại học và sau đại học với các quy mô đào tạo khác nhau. Bên cạnh đó không thể không kể đến một lượng lớn lao động được đào tạo trong các cơ sở dạy nghề và đào tạo trong doanh nghiệp. Trong năm 2006, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 108,4% dự toán cả năm trong đó chi cho giáo dục, đào tạo, dạy nghề đạt 102,6%. Năm 2005 cả nước có gần 9 triệu người lao động qua đào tạo trong đó qua đào tạo nghề là gần 5,6 triệu (chiếm 62,22% ). Riêng trong năm 2005 đào tạo nghề đã tuyển mới được 1.207.000 học sinh tăng 52,4% so với năm 2000, trong đó đào tạo dài hạn là 230.000 người, tăng 76,65%. Mạnh lưới các cơ sở dạy nghề đã được phủ khắp toàn quóc. Tính đến tháng 12 năm 2005, cả nước có 236 trường dạy nghề, 404 trung tâm dạy nghề, 212 trường THCN, cao đẳng, đại học có tổ chức dạy nghề; trên 800 trung tâm giới thiệu việc làm, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kĩ thuật- tổng hợp hướng nghiệp và các lớp dạy nghề. Chỉ tính riêng các trường dạy nghề, năm 2005 đã tăng gấp 1,82 lần so với năm 1998. Đến năm 2006, cả nước có 240 trường dạy nghề, trong đó có 160 trường công lập, 45 trường thuộc doanh nghiệp, 16 trường dạy nghề ngoài công lập, 2 trường dạy nghề vốn đầu tư nước ngoài, 17 trường do Bộ Quốc Phòng quản lý. Ngoài ra trên phạm vi cả nước còn 221 trung tâm dạy nghề, 150 trung tâm dịch vụ việc làm và nhièu trung tâm hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên có dạy nghề, 137 trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng có dạy nghề. Năm 2006 đã tạo việc làm cho 1,65 triệu người. Hệ thống đào tạo nghề của nước ta có đặc điểm chính sau:
+ Phân bố cơ sở đào tạo theo nghề, theo vùng: Trong tổng số cơ sở đào tạo nghề của cả nước thì vùng chiếm tỷ trọng lớn nhất là đồng bằng sông hồng với 30,2%. Tiếp sau đó là Đông Nam Bộ 26,5%,Đông Bắc 13%, Bắc Trung bộ 12,1%, Duyên Hải Nam Trung Bộ 9,9%, Đồng Bằng Sông Cửu Long 6,7%, Tây Nguyên 0,9 %, Tây Bắc 0,7%. Sự phát triển các cơ sở dạy nghề còn mất cân đối giữa các vùng, tập trung vào các vùng có tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cao, các thành phố và vùng có sự hoạt động mạnh của thị trường lao động.
+ Phân bố cơ sở đào tạo nghề theo địa phương: Đại đa số các tỉnh đều có 1-2 trường dạy nghề, một số tỉnh (thành phố) có từ 3-7 trường dạy nghề (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đồng Nai, Thanh Hoá, Thái Bình), sự phân bố này tạo điều kiện cho phát triển đào tạo nghề tại chỗ. Một số địa phương hiện nay nằm trong tình trạng thiếu nghiêm trọng các cơ sở đào tạo nghề như ở các địa phương vùng Tây Bắc, Tây Nguyên.
+ Phân bố cơ sở đào tạo nghề theo bộ, ngành quản lý: Các trường đào tạo nghề do các bộ ngành quản lý chiếm tỷ lệ gần 41 % tổng số trường của cả nước. Trong đó đa số là do các bộ, ngành sau đây quản lý: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn(26,1%), bộ Xây dựng 21,4%, bộ Giao thông vận tải (17,8%), Bộ công nghiệp (15,5%). Các trường đào tạo nghề đã gắn vào các ngành nghề đang có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế và có nhu cầu sử dụng lớn lao động chuyên môn kỹ thuật.
+ Phân bố nghề đào tạo theo ngành: Các nghề có nhiều cơ sở tham gia đào tạo là: kỹ thuật điện, kỹ thuật sắt, lái xe, xây dựng, nguội, may, sửa chữa máy móc thiết bị. Tỷ trọng các nghề đang được đào tạo thuộc các ngành như: công nghiệp là 35,6%; giao thông vận tải 21%; nông-lâm-ngư 10,2%; kinh tế-dịch vụ 9,5%, xây dựng 17,8%, văn hoá thông tin-bưu điện 5,9% so với tổng số nghề đào tạo. Một số nghề của ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghệ cao chưa được các trường quan tâm mở rộng đào tạo như: Chế biến lương thực, sản xuất vật liệu mới, cơ khí chính xác.
+ Năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề: Công suất đào tạo nghề thiết kế của trường công lập chủ yếu là 400-1000 học sinh, trong khi đó các trường ngoài công lập công suất đào tạo dưới 200 học sinh chiếm tỷ lệ trên 50%. Hiện nay các trường đào tạo nghề công lập đang đào tạo quá năng lực thiết kế, ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo; còn các trường ngoài công lập đào tạo chưa hết năng lực có sẵn, chỉ khoảng 85% công suất thiết kế. Trong đó các trường công lập chủ yếu là đào tạo dài hạn, chiếm tới 75% số học sinh học nghề dài hạn hàng năm. Còn các trường ngoài công lập lại chủ yếu tập trung đào tạo ngắn hạn.
+ Trang thiết bị phục vụ cho đào tạo nghề: Đa số các trường đào tạo nghề trang thiết bị còn thiếu thốn và lạc hậu. Trong quá trình đào tạo chủ yếu người học nghề chỉ được học về lý thuyết, số buổi được thực hành thực tế còn ít. Do đó sau quá trình học nghề ra làm còn lúng túng, kỹ năng hạn chế, kiến thức lại có hạn, chưa có kinh nghiệm làm việc do đó khó khăn trong việc tìm được việc làm phù hợp hoặc công việc phù hợp nhưng tiền công thấp, mức sống không được đảm bảo. Qua khảo sát của bộ lao động-thương binh xã hội cho thấy 50% số trang thiết bị của các cơ sở đào tạo nghề được sản xuất trước năm 1995; 6% sản xuất trước năm 1975; số trang thiết bị hiện đại đáp ứng tốt cho công tác đào tạo nghề chỉ đạt 20%. Đặc biệt trang thiết bị đào tạo nghề trong các ngành như: hoá chất, luyện kim, sửa chữa thiết bị chính xác, in ấn lạc hậu rất nhiều so với công nghệ ứng dụng hiện nay trên thế giới. Một bộ phận cơ sở đào tạo nghề có trang thiết bị đào tạo, rèn luyện kỹ năng nghề lạc hậu hơn cả công nghệ đang áp dụng trong nền kinh tế, do đó hiệu quả đào tạo và sử dụng lao động sau khi đào tạo nghề rất thấp.
+ Chương trình đào tạo nghề: Chương trình đào tạo nghề có vai trò đặc biệt quan trọng đối với chất lượng đầu ra của hệ thống đào tạo nghề. Các cơ sở đào tạo nghề xây dựng các chương trình đào tạo cho từng nghề, nhóm nghề theo quy định của bộ Lao động - Thương binh - Xã hội (Quyết định số 212/2003/QĐ-Bộ LĐTBXH), trong đó đưa ra nguyên tắc xây dựng chương trình khung cho đào tạo nghề. Tuy nhiên theo đánh giá của Bộ LĐTBXH thì hiện nay đa số các cơ sở đào tạo nghề vẫn sử dụng các chương trình đào tạo cũ, lạc hậu, chưa được bổ sung hoặc thay đổi phù hợp với xu thế đổi mới công nghệ trong sản xuất và chuẩn mực đào tạo nghề của các nước phát triển. Một bộ phận trường không có chương trình đào tạo nghề, đặc biệt là đối với đào tạo các nghề như: Gò, vận hành và quản lý đường ray, bê tông cốt thép, lái máy cẩu, vận hành máy xúc, bê tông cốt thép.
+ Đội ngũ giáo viên dạy nghề: Tính trung bình chung mỗi trường dạy nghề công lập và ngoài công lập có từ 30-40 giáo viên. Theo đánh giá của bộ lao động thương binh xã hội thì tỷ lệ đội ngũ giáo viên đạt tiêu chuẩn trong các trường dạy nghề là 63,6%. Trong những năm gần đây, theo xu hướng đổi mới, một lượng lớn đội ngũ giáo viên ở các trường dạy nghề đã được bổ sung, đào tạo lại bồi dưỡng kiến thức kỹ năng, phương pháp đào tạo mới. Do đó chất lượng của đội ngũ giáo viên đã được nâng cao hơn so với thời kỳ trước. Đặc biệt là các trường dạy nghề có sự đầu tư hợp tác quốc tế đã tạo ra bước chuyển mới về nâng cao chất lượng của công tác đào tạo nghề.
Bảng 3: Quy mô và tốc độ đào tạo nghề .
Năm
Dài hạn
Ngắn hạn
Tổng số
Số lượng
(nghìn HS)
Tốc độ tăng
(%)
Số lượng
(nghìn HS)
Tốc độ tăng
(%)
Số lượng
(nghìn HS)
Tốc độ tăng
(%)
1997
57
390
447
1998
75,6
32,6
450
15,3
525,6
17,5
1999
97,1
28,4
529,9
31,7
690
31,2
2000
130,2
34
622
11,6
792,2
14,8
2001
126,1
-3,1
761,2
14,9
887,3
12
2002
146,5
16,1
858,5
12,7
1005
13,2
2003
176,36
20,3
897,7
4,5
1074,1
6,8
Nguồn: Tổng cục dạy nghề
Từ năm 1997 đến năm 2003, Chính phủ thực hiện nhiều giải pháp tích cực và đồng bộ hơn nên đào tạo nghề có bước tăng trưởng đột phá, đặc biệt đào tạo nghề dài hạn tăng nhanh (năm 2000 tăng 34 %, năm 2003 tăng 20,3 %), đáp ứng được một phần công nhân lành nghề và công nhân lành nghề trình độ cao và kĩ thuật viên cho thị trường lao động.
Quy mô công nhân kỹ thuật có bằng có xu hướng tăng nhanh. Hiện nay và các năm sắp tới sự chuyển dịch cơ cấu lao động chuyên môn kĩ thuật theo hướng tăng công nhân kĩ thuật bán lành nghề, đây là xu hướng tích cực phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động.
Bảng 4 : Cấp trình độ qua đào tạo năm 1999 và 2004 ( nghìn người ).
Năm
Sơ cấp, chứng chỉ nghề, CNKT không bằng
CNKT có bằng
THCN
CĐ, ĐH trở lên
1999
1453,05
889,03
1593,55
1306,09
2004
4680,94
1543,07
2306,29
2431,66
Như vậy, số lượng lao động qua đào tạo đã tăng lên theo hướng có lợi.Năm 1999 có số người đủ 15 tuổi trở lên có bằng công nhân kĩ thuật là 889,03 nghìn người, đến năm 2004 là 1543,07 nghìn người tăng 73,56%. Công nhân có chứng chỉ nghề, sơ cấp và tương đương cũng tăng nhanh. Năm 1999 là 1453,05 nghìn người, đến năm 2004 là 4680,94 nghìn người.Tình hình này được minh hoạ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 5: Cấp trình độ lao động qua đào tạo
Nguồn: Thống kê lao động –việc làm, Bộ LĐTBXH, 1999-2004
2.2 Chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng đào tạo nghề hiện đang còn tồn tại các vấn đề về: Nội dung, chương trình đào tạo chưa theo kịp sự phát triển của sản xuất kinh doanh, chưa đổi mới, bắt nhịp được với chuẩn mực đào tạo nghề của các nước phát triển, trang bị kiến thức mới và đào tạo kĩ năng thực hành còn hạn chế. Trước tình hình này, Chính phủ đã quan tâm và chỉ đạo thực hiện các biện pháp khắc phục để đáp ứng quá trình đổi mới công nghệ và áp dụng các thành tựu khoa học- kĩ thuật của nền kinh tế, đặc biệt là trong các ngành nghề có tốc độ phát triển nhanh (như: May mặc, dệt, da giầy, điện tử, tin học, cơ khí chế tạo, đóng tàu, xây dựng, giao thông, viễn thông, kĩ thuật điện, lắp máy) do đó đã nâng cao được chất lượng. Đào tạo nghề ở mức độ nhất định, phần nào đã tác động đến khả năng tìm việc làm của học sinh sau khi ra trường. Hiện nay khoảng 70% học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp đã tìm được việc làm trong đó có những nghề đạt trên 90% như: Xây dựng, cơ khí, hàn, may mặc, giao thông, bưu chính viễn thông.
Thực tế quản lý lao động ở nước ta trong các năm chuyển đổi nền kinh tế cho thấy, đào tạo lao động CMKT là nhân tố quan trọng bậc nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Đào tạo CMKT là nhân tố tăng năng suất lao động trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực và nền kinh tế. ở các ngành có tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn hơn thì năng suất lao động cao hơn, năng suất lao động của khu vực công nghiệp và xây dựng ( tính bằng giá trị sản xuất công nghiệp/ số lao động làm việc, giá so sánh 1994) năm 2003 đạt gần 23 triệu đồng/ lao động. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng của thời kì 1986- 2003 khoảng 7,3%/ năm. Trong khi đó năng suất lao động khu vực nông lâm, ngư nghiệp (tính bằng giá trị sản xuất/số lao động làm việc của nông, lâm, ngư nghiệp, giá so sánh 1994) năm 2003 chỉ đạt 6,8 triệu đồng, tốc độ tăng năng suất lao động hàng năm của ngành này thời kì 1986-2003 là 2,7%/năm. Đặc biệt đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên môn kĩ thuật cao có ý nghĩa quyết định tới năng suất lao động. Năng suất lao động được quyết định bởi trình độ nhân lực nhờ có sự phát triển các chỗ làm việc có trình độ công nghệ và trình độ quản lý hiện đại, năng suất lao động cao kéo theo sự phát triển nguồn nhân lực lành nghề. Trong những ngành, khu vực có năng suất lao động khá cao và cao thì chất lượng nhân lực thường cao hơn so với các ngành, khu vực có năng suất lao động trung bình và thấp. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có năng suất lao dộng cao gấp 20 lần so với công nghiệp ngoài quốc doanh, ở đó lao động phổ thông chỉ chiếm tỉ lệ 19,8%, trong khi con số này ở khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 39,2%, đặc biệt trong các ngành công nghệ cao (công nghệ thông tin, điện tử viễn thông) có năng suất lao động cao, sử dụng đến 51,8% lao động cao đẳng và đại học trở lên.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, hiện nay công tác đào tạo lao động chuyên môn kĩ thuật của nước ta cũng còn những tồn tại nên tác động hạn chế đến sử dụng lao động và tăng năng suất lao động.
Cụ thể là:
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kĩ thuật còn thấp.
- Chất lượng đào tạo chưa cao, chưa theo kịp các chuẩn mực đào tạo của quốc tế.
- Chưa khai thác được đầy đủ tiềm năng của lao động chuyên môn kĩ thuật, năm 2004 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị là 5,6%. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động đã qua đào tạo rất đáng kể, năm 1999 là 2,96%, năm 2000 là 2,32%, năm 2004 là 2,04% trong lực lượng lao động của cả nước. Tình trạng lao động thiếu việc làm của khu vực nông thôn khá phổ biến. Năm 2004 tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng lực lượng lao động thường xuyên ở khu vực nông thôn là 79,1%.
- Trình độ công nghệ thấp trong nhiều ngành kinh tế quốc dân đã hạn chế kích thích đào tạo lao động CMKT.
- Trình độ quản lí, đào tạo nhân lực hạn chế.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động và tăng năng suất lao động phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, đòi hỏi phải có các giải pháp thích hợp để khai thác hiệu quả các tiềm năng của lao động CMKT và tăng năng suất lao động. Trong đó, đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao CMKT cho người lao động và sử dụng đầy đủ nguồn nhân lực CMKT là nhân tố cực kì quan trọng để không ngừng tăng năng suất lao động.
3. Đào tạo trong doanh nghiệp
Hiện nay, theo diều tra của bộ Kế hoạch - Đầu tư tại 63.000 doanh nghiệp ở 36 tỉnh thành phố của Việt Nam có 43,4% số cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới THPT, chỉ có 2,99% số chủ doanh nghiệp là thạc sĩ, tiến sĩ. Đội ngũ quản lý của doanh nghiệp chưa được đào tạo, nâng cao chuyên môn, trình độ văn hoá làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lượng công nhân trong các doanh nghiệp trong tổng LLLĐ chiếm một bộ phận không nhỏ. Tuy nhiên, lượng công nhân đã qua đào tạo còn ở mức độ khiêm tốn (24,8%). Đặc biệt tình trang mất cân đối nghiêm trọng trong đào tạo giữa “thầy và thợ” và tình trạng mất cân đối trong đào tạo ở các ngành nghề làm cho các doanh nghiệp bị thiếu hụt lượng công nhân có trình độ tay nghề chuyên môn và kĩ năng làm việc. Ví dụ: Ngành đóng tàu Việt Nam nhu cầu lao động mỗi năm khoảng 10 nghìn công nhân, trong khi 4 trường cao đẳng kĩ thuật của ngành mỗi năm chỉ cung ứng được 4-5 nghìn công nhân. Theo khảo sát của công ty phần mềm Quang Trung (TPHCM) trong quá trình xin việc có tới 72% số ứng viên thiếu kinh nghiệm thực tiễn, 46% ứng viên thiếu kiến thức chuyên môn, 42% không biết làm việc theo nhóm và kém ngoại ngữ, 41% kém kĩ năng làm việc, không biết cách diễn đạt và 28% không tự tin trong công việc.khi được tuyển vào các doanh nghiệp, lượng lao động này hầu như không được đào tạo lại, đào tạo mới và nâng cao.
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam hiên nay chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Lượng vốn đầu tư cho đào tạo và phát triển còn chưa nhiều. Người lao động làm việc trong doanh nghiệp với mức lương trung bình thấp do đó việc học tập để nâng cao trình độ tay nghề còn gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy lương của người lao động có khá hơn nhưng lại mất thời gian làm thêm giờ, tăng ca. Điều đó khiến cho thời gian nghỉ ngơi và học tập của người lao động bị thu hẹp. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam trình độ công nghệ chưa cao do đó còn xảy ra việc chia nhỏ dây chuyền sản xuất, mỗi người lao động chỉ đảm nhận một công việc nhỏ, việc học tập và nâng cao kỹ năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật không được các nhà quản lý quan tâm. Đây cũng là một trong những lý do khiến cho người lao động trong doanh nghiệp ít được đào tạo và phát triển.
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong tiến trình hội nhập
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giữ vị trí quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong tiến trình hội nhập hiện nay, phát triển nguồn nhân lực là một phần hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm tạo ra nguồn nhân lực trình độ cao để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Đảng và Nhà nước coi đây là quốc sách hàng đầu của đất nước, điều này đã được khẳng định trong đại hội Đảng lần thứ X. Chính vì vậy, để có được đội ngũ lao động có trình độ cao thì phải có những hệ thống giải pháp đồng bộ, khoa học và có tính khả thi cao.
1. Hoàn thiện đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo.
Hệ thống giáo dục đào tạo luôn giữ vai trò chính trong vấn đề: xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam ; nó là cái nôi của tri thức, nuôi dưỡng mọi tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên - thế hệ trẻ chủ nhân tương lai xây dựng đất nứơc, là nơi đào tạo ra đội ngũ trí thức, các nhà khoa học và công nghệ, các nhà quản lý và kinh doanh giỏi, các chuyên gia đầu ngành tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0082.doc