Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

 

A. LỜI MỞ ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 2

I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC XÂY DỰNG HÌNH THỨC CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ XÍ NGHIỆP CỔ PHẦN CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 2

1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan 2

2. Lịch sử hình thành công ty cổ phần 5

2.1. Giai đoạn I: Giai đoạn mầm mống 5

2.2. Giai đoạn II: Giai đoạn hình thành 6

2.3. Giai đoạn III: Giai đoạn phát triển 7

2.4. Giai đoạn IV: Giai đoạn trưởng thành 7

3. Sự cần thiết phải hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam 8

3.1. Sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam 8

3.2. Do yêu cầu củng cố nâng cao vai trò của kinh tế nhà nước. 11

II. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM . 12

1. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam 12

1.1. Giai đoạn 1: Giai đoạn thí điểm 12

1.2. Giai đoạn 2: Giai đoạn mở rộng thêm từ năm 1996 đến nay 13

2. Những thành tựu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 14

2.1. Những thành tựu mang tính định lượng 14

2.2. Tác động của cổ phần hoá đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa . 15

3. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần giải quyết của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 17

3.1. Những bất cập còn tồn tại 17

3.2. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần tháo gỡ 18

3.3. Nguyên nhân 20

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 22

1. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 22

2. Kế hoạch cổ phần hoá 23

3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 24

3.1. Cần phải có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất 24

3.2. Về việc lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá 24

3.3. Tạo lập một chế độ tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp 25

3.4. Xây dựng các chính sách đối với người lao động 25

3.5. Về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục 26

3.6. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các chính sách cổ phần hoá 26

3.7. Tạo môi trường thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 27

3.8. Tổ chức thực hiện 28

C. KẾT LUẬN 29

TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá. Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường: + Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự túc tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần nền kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. + Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được với giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. + Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó, kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ. + Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. + Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. * Sự hình thành nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam: - Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam: + Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, đó là chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần. + Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan và quan hệ với nhau tạo thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. + Nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cần cù, thông minh nhưng thất nghiệp còn nhiều. Cần phải tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác nhau ngoài thành phần kinh tế nhà nước để giải quyết việc làm cho người lao động. - Các thành phần kinh tế và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước: + Có 6 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế cá thể, tiểu chủ Kinh tế tư bản tư nhân Kinh tế tư bản nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài + Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: Giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, vừa là yếu tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, vừa là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận trụ cột nhất của kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. 3.2. Do yêu cầu củng cố nâng cao vai trò của kinh tế nhà nước - Kinh tế nhà nước hiện nay chưa làm tốt vai trò chủ đạo. Những nhược điểm và khuyết điểm trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chủ yếu từ khâu quản lý. Sở dĩ kinh tế nhà nước chưa làm tốt vai trò chủ đạo là do chưa nhận thức và cũng chưa có đủ những biện pháp cần thiết, có hiệu quả để củng cố và nâng cao vai trò đó .Những nhược diểm và khuyết diểm trong hoạt dộng của Doanh nghiệp nhà nước hiện nay là có thật, thậm chí ở một số bộ phận không nhỏ doanh nghiệp, những khuyết điểm và nhược điểm đó là nghiêm trọng. Song, đó tuyệt nhiên không phải là khuyết tật mang tính bản chất của kinh tế nhà nước, mà ngược lại, cũng do những khuyết điểm của ta trong quản lý. - Cần có những chủ trương cụ thể để củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Kết quả là số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả đã tăng lên. Tuy nhiên, công việc tiến hành còn chậm, cổ phần hoá chính là giải pháp tốt nhất cho vấn đề này. Cổ phần hoá cho phép tách quyền sở hữu và quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp, nhằm đưa lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Nhờ cổ phần hoá sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hoá ngày càng có vốn lớn từ đó có điều kiện trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, mở rộng sản xuất. Đồng thời đồng vốn ngày càng sử dụng tốt lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục. Cổ phiếu có thể chuyển nhượng cho nhau sẽ thúc đẩy lưu thông tiền vốn. Mặt khác, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để bổ sung thêm vốn khi cần thiết. Các doanh nghiệp khi đã cổ phần hoá sẽ liên doanh được với các doanh nghiệp trong và ngoài nước từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn hơn nữa. II. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 1. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Ngay từ năm 1990, cùng với sự đổi mới các chính sách kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ trương cổ phần hóa, chuyển một số bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Đây là chủ trương lớn được các ngành, các cấp triển khai thực hiện nhằm huy động nguồn vốn trong dân để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội nâng cao vai trò làm chủ, gắn thực sự người chủ quản lý với người chủ sở hữu, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Quá trình thực hiện có thể chia làm 2 giai đoạn chính: 1.1. Giai đoạn 1 (giai đoạn thí điểm): Giai đoạn này được đánh dấu bằng quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1990 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) về thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây là giai đoạn làm thí điểm nên còn thiếu kinh nghiệm. Để củng cố và phát triển chủ trương này, thủ tướng chính phủ tiếp tục ban hành quyết định 202/CT ngày 8 tháng 6 năm 1992 về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và Chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Chủ trương cổ phần hoá nói trên đã triển khai thực hiện được một số năm và một số doanh nghiệp tự nguyện đăng ký xin cổ phần hoá, nhưng thực tế chỉ có rất ít đề án có khả năng thực hiện ở các mức độ khác nhau. Trong giai đoạn thí điểm 1992 – 1995 có 5 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần là: - Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ Giao thông vận tải (năm 1993). - Công ty Cơ điện lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (năm 1993). - Xí nghiệp Giày Hiệp An, thuộc Bộ công nghiệp (năm 1994). - Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An (năm 1995). - Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (năm 1995). Trong 5 doanh nghiệp nói trên thì có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, 1 doanh nghiệp thuộc địa bàn tỉnh Long An. 1.2. Giai đoạn 2: Giai đoạn mở rộng thêm từ năm 1996 đến nay Đây là giai đoạn cổ phần hoá được tiến hành trên quy mô rộng lớn hơn với việc ban hành hàng loạt văn bản về cổ phần hoá. Các văn bản pháp lý đã quy định một cách tương đối đồng bộ các chính sách, trình tự, thủ tục cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP ngày 7 tháng 5 năm 1996 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ giá trị doanh nghiệp: chế độ ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp và tổ chức bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Trong vòng 5 năm (1992 – 1998) các ngành, các địa phương trong cả nước mới chỉ cổ phần hoá xong có 38 doanh nghiệp là còn quá ít và quá chậm. Các nguyên nhân của sự chậm chạp đã được chỉ ra và khắc phục từng bước tạo lên một sự chuyển biến ngày càng mạnh mẽ cả về sự bổ xung, sửa đổi, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật, quy trình, thủ tục và việc thực hiện cổ phần hoá. Bước chuyển biến lớn nhất và quan trọng có thể nói bắt đầu từ đầu năm 1998, nhất là sau khi Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị 20/1998/CT – TTg về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ - CP ngày 29/06/1998 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã giải quyết được một cách căn bản các vấn đề liên quan đến thủ tục cổ phần hoá, như: định giá tài sản, chính sách đối với người lao động, giảm bớt một số thủ tục hành chính, v.v. Từ khi có Nghị định 44/1998/NĐ - CP đến tháng 1/1999, sau thời gian hơn 1 năm thực hiện, cả nước đã cổ phần hoá thêm 250 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp cổ phần hoá lên 280. Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá đã trải rộng trên phạm vi cả nước. Tính đến 31/12/1999 đã có 370 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Cho đến nay, số doanh nghiệp cổ phần hóa đã tăng lên rất nhiều. Chất lượng và hiệu quả của các công ty cổ phần cũng tăng đáng kể. Có thể lấy ví dụ như: công ty sứ Bát Tràng, công ty Giầy Hà Nội, công ty xuất nhập khẩu Namsimex, công ty xe khách Hải Phòng, công ty tàu thuyền Bình Minh, công ty Giày Hiệp An, công ty hàng hải Việt Nam… Quá trình cổ phần hoá được tiến hành từ địa phương đến các doanh nghiệp thuộc Bộ, các Tổng Công ty. 2. Những thành tựu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 2.1. Những thành tựu mang tính định lượng Từ năm 1992 đến tháng 6/1998: Trong giai đoạn này cả nước đã cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, 5 doanh nghiệp được cổ phần hoá theo cơ chế, chính sách thí điểm, 25 doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế chính sách quy định tại Nghị định 28/CP của Chính phủ. Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ - CP ngày 2/6/1998 đến ngày 31/12/1999 đã có thêm 340 doanh nghiệp nhà nước và bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển thành công ty cổ phần. Riêng năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp. Như vậy về mặt số lượng, tốc độ cổ phần hoá sau khi có Nghị định 44/1998/NĐ - CP được đẩy mạnh. Nhiều Bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty nhà nước đã tích cực thực hiện và đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Điển hình là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Nghị định 44/1998/NĐ - CP đã quy định các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá một cách rõ ràng, cụ thể hơn; có sự quan tâm hơn đến quyền lợi của người lao động, đặc biệt chú ý tới người lao động nghèo. Điều đó khiến chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp trở lên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp cũng như đối với người lao động và các đối tượng trong xã hội do vậy mà cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã có được những tiến bộ đáng kể. Từ tháng 1/2000 đến cuối tháng 11/2002, cả nước đã cổ phần hoá được 523 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được cổ phần hoá lên tới 907 đơn vị. Chỉ riêng năm 2002 có 427 doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại. Năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại. Và cho đến nay số doanh nghiệp được cổ phần hoá đã tăng lên rất nhiều. Như vậy, có thể thấy, càng về sau, tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước càng được đẩy mạnh. Hơn nữa càng về sau, quy mô các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá hoặc chuyển đổi dưới những hình thức khác càng lớn hơn. Trước năm 2003, số doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 7,9% thì sau năm 2003 là 15%. Điều này cũng chứng tỏ sự kiên quyết cũng như tính nhất quán trong việc chủ trương sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và Nhà nước ta. 2.2. Tác động của cổ phần hóa đối với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng, việc chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế, xã hội: - Về hiệu quả sản xuất, kinh doanh Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước sau khi chuyển sang cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn. Điển hình là công ty cổ phần cơ điện lạnh. Năm 1999 công ty này đạt 178 tỷ đồng, tăng gần gấp 4 lần so với doanh thu trước khi thực hiện cổ phần hoá là 46 tỷ đồng; công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An có số vốn tăng lên 5 lần; công ty cổ phần Việt Phong có số vốn tăng lên 2,4 lần. Các doanh nghiệp nộp ngân sách bình quân tăng hai lần so với trước khi cổ phần hóa, điển hình là công ty cổ phần cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh tăng gần ba lần. Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá là những công ty cổ phần đầu tiên được niêm yết trên thị trược chứng khoán Việt Nam. Điều này không những nâng cao uy tín và vị thế của các doanh nghiệp Nhà nước mà còn chứng minh tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước như một biện pháp quan trọng để thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. - Về huy động vốn Việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút một lượng lớn nguồn vốn trong xã hội đầu tư phát triển sản xuất. Chỉ tính riêng 370 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá tính đến hết ngày 31/12/1999, giá trị phần vốn nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện cổ phần hóa đã thu hút thêm 1432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào các công ty cổ phần. Đồng thời, Nhà nước cũng thu lại được 714 tỷ đồng để đầu tư vào các doanh nghiệp khác và giải quyết một số chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Khi thực hiện cổ phần hoá, vốn nhà nước không những không mất đi mà ngược lại được bảo toàn và tăng thêm từ 10 – 15%; vốn nhàn rỗi từ ngoài xã hội được huy động thêm vào doanh nghiệp, góp phần đổi mới công nghệ của từng doanh nghiệp cổ phần hoá. - Về việc làm và thu nhập cho người lao động Hầu hết trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá, việc làm và thu nhập của người lao động đều được đảm bảo ổn định và có chiều hướng tăng lên. Chế độ của người lao động được quan tâm giải quyết thoả đáng. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá tăng bình quân 12%. Thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm gần 20%. Điển hình là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Thu nhập của lao động trong doanh nghiệp này đạt 4 triệu đồng/người/tháng trong năm 1999, bằng gần 3 lần so với 1,4 triệu đồng trước khi cổ phần hoá. Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho Nhà nước và xã hội. Tóm lại, cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp và cả trong các cổ đông khác của doanh nghiệp. 3. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần giải quyết của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Bên cạnh những thành công như trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta cũng tồn tại khá nhiều bất cập, những khó khăn vướng mắc, trở ngại cần giải quyết. 3.1. Những bất cập còn tồn tại - Bất cập rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là quá trình cổ phần hoá còn chậm và nhỏ lẻ. Điều này thể hiện ở việc thực hiện cổ phần hoá luôn thâp hơn chỉ tiêu đề ra. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá tăng lên, nhưng so với kế hoạch đề ra lại có xu hướng giảm xuống. Theo dự kiến, trong ba năm (2000 – 2002) sẽ tiến hành cổ phần hoá 1.056 doanh nghiệp Nhà nước, tuy nhiên, đến tháng 12 năm 2002, chúng ta mới chỉ thực hiện cổ phần hoá được 523 doanh nghiệp tức là chỉ gần bằng 50% so với dự kiến. Trong năm 2002 chỉ thực hiện cổ phần hoá được 120 doanh nghiệp, trong khi con số đề ra là 374 doanh nghiệp. Các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91 nhìn chung đều có đề án tổng thể sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý của mình nhưng đa số chưa có lộ trình và kế hoạch hàng năm cụ thể về cổ phần hoá. Khi Chính phủ yêu cầu, các Bộ, tổng cục chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá một cách đối phó, nặng nề hình thức nên kết quả còn hạn chế. - Xét về cơ cấu các doanh nghiệp được cổ phần hoá, việc cổ phần hoá chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực. Do số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá không cao, hơn nữa, các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên 90% công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng, trong đó khoảng trên 75% có vốn dưới 5 tỷ đồng. Cụ thể năm 1999 tỷ lệ doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn trên 10 tỷ chiếm 11%, năm 2000 là 10%, năm 2001 là 14%, năm 2002 là 22%, năm 2003 là 19%. Mặt khác, Nhà nước vẫn giữ lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của mình trong các công ty cổ phần, nên việc cổ phần hoá nhìn chung chưa tác động đáng kể đến cơ cấu lại vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp. Về cơ bản, chỉ có những doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ được cổ phần hoá. Các doanh nghiệp Nhà nước quy mô và các tổng công ty hầu như chưa được đề cập. - Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hoá, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vẫn có những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Chẳng hạn, trong ngành nông nghiệp, có một số doanh nghiệp nhiều năm không dám hoạt động vì càng hoạt động càng lỗ. Không những thế, gần đây, các nhà quản lý đã nhận thấy một số doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng doanh nghiệp này không lớn song đây là một hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng nhiều đến uy tín của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. 3.2. Những khó khăn, vướng mắc, trở ngại cần tháo gỡ - Khó khăn đầu tiên đối với quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là phản ứng từ một bộ phận lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước. Những người này sợ bị mất chức, mất quyền, sợ trách nhiệm, sợ phải đối mặt với thị trường nên đã không hăng hái thực hiện cổ phần hoá. Ngoài ra, còn có một số quy định chưa đồng bộ và không khuyến khích người lãnh đạo doanh nghiệp tham gia cổ phần hoá như việc xếp lương. Do vậy , họ không muốn cổ phần hoá bộ phận hoặc cổ phần hoá doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. - Người lao động có tâm lý chung sợ mất việc làm sau khi doanh nghiệp cổ phần hoá, sợ sự phân biệt đối xử khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước… Thực tế, người lao động trong doanh nghiệp nhà nước được chia lợi tức của doanh nghiệp thông qua việc họ được hưởng tiền thưởng và các khoản phúc lợi từ lợi tức của doanh nghiệp dù họ không phải đóng góp vốn, nhưng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh người lao động không được chia lợi tức nếu họ không góp vốn. Việc sa thải lao động trong doanh nghiệp nhà nước khó hơn nhiều so với việc sa thải lao động ở các doanh nghiệp khác. Đây là những lý do quan trọng để người lao động không muốn cổ phần hoá doanh nghiệp. - Nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành, địa phương đã không tích cực triển khai việc cổ phần hoá bởi vì họ không muốn mất đầu mối quản lý, giảm quyền lực đối với những doanh nghiệp này. - Một số quy định ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá ít đi vào thực tế do chưa đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp lý. Mặc dù có quy định doanh nghiệp cổ phần hoá tiếp tục được vay vốn tín dụng ngân hàng theo cơ chế và lãi suất như doanh nghiệp nhà nước, nhưng thực tế doanh nghiệp cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực này. Ví dụ: trong một số trường hợp khi doanh nghiệp cổ phần hoá muốn vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất, kinh doanh thì phải có ý kiến xác nhận của cơ quan chủ quản nhưng doanh nghiệp đã cổ phần hoá nên không có cơ quan chủ quản và như vậy doanh nghiệp không thể vay được vốn ngân hàng. - Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp và giá bán cổ phần của doanh nghiệp còn nhiều điểm bất hợp lý. Theo quy định hiện hành, việc xác định giá trị doanh nghiệp mới tính đến giá trị tài sản và lợi thế kinh doanh trong quá khứ và hiện tại. Trên thực tế, bên cạnh doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh, còn có doanh nghiệp có lợi thế nhưng quy định hiện hành không khấu trừ bất lợi vào trong giá trị doanh nghiệp. Hiện tại, việc xác định giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với xác định giá bán. Do đó, giá bán mang tính áp đặt, mới chỉ có các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp tham gia định giá. - Chưa có chính sách công khai hoá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá và các doanh nghiệp khác trong diện cổ phần hoá. - Quy định việc phân bổ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm nay không thấp hơn năm trước đã gây khó khăn đối với doanh nghiệp cổ phần hoá bộ phận hoặc tổng công ty cổ phần hoá doanh nghiệp thành viên. - Công tác tuyên truyền, vận động vẫn còn bị xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự quan tâm, hưởng ứng tích cực của xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước. 3.3. Nguyên nhân Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Việc thực hiện cổ phần hoá vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần giải quyết để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó là: - Một là, cơ chế chính sách về cổ phần hóa chưa đủ sức hấp dẫn, chậm được ban hành đồng bộ, lại thiếu cụ thể, quy định triển khai quá phức tạp. Nhiều nội dung còn chưa phù hợp với thực trạng quản lý của doanh nghiệp cũng như trình độ nhận thức về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của người lao động; chưa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp. - Hai là, các bộ ngành trung ương, các địa phương và bản thân các doanh nghiệp nhà nước chưa nhận thức đầy đủ mục đích và ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm huy động vốn toàn xã hội vào việc phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, đổi mới cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho người lao động được góp vốn và thực sự làm chủ, góp phần làm thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy một số bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp còn do dự, chần chừ chưa kiên quyết triển khai thực hiện, trong khi đó các cơ quan chức năng lại trông chờ vào sự tự nguyện của giám đốc và người lao động. - Ba là, việc phổ biến tuyên truyền chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chưa mạnh mẽ và thường xuyên, phần đông người lao động còn quen nếp dựa vào cơ chế bao cấp, không muốn xáo trộn công ăn việc làm, bản thân lại chưa hiểu rõ mục đích yêu cầu và tác dụng của cổ phần hoá, do đó chưa tạo thành phong trào quần chúng thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. - Bốn là, chưa tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vì vậy khi chuyển đổi hình thức sở hữu, doanh nghiệp còn so sánh thiệt hơn. - Năm là, chưa giải quyết vấn đề sở hữu, xác định người chủ đích thực của doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế Chính phủ chỉ phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện một số quyền của chủ sở hữu Nhà nước. Trên thực tế, giám đốc doanh nghiệp nhà nước có rất nhiều quyền của chủ sở hữu, tuy không bỏ ra một đồng vốn nào, vì vậy đây là một sức cản lớn trong việc triển khai chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp. Nhìn chung, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những thành công. Các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên, tăng thêm được việc làm và thu nhập cho người lao động, các khoản nộp ngân sách. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Những tồn tại này làm giảm hào hứng chuyển sang công ty cổ phần. Vì vậy trong thời gian tới cần phải có những giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thực sự là một bước đi đúng đắn mà Đảng và Nhà nước đã chọn. III. Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Tiến độ cổ phần hoá trong những năm qua tuy có những bước phát triển, song so với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn chưa đáp ứng được. Trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cải cách doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hoá. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín, đã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0644.doc
Tài liệu liên quan