Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước – Giải pháp quan trọng, cơ bản trong việc đổi mới và tổ chức lại các Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần I: Một số vấn đề lý luận và ý nghĩa thực tiễn của cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay 3

1. Thực chất của cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước 3

2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là sự chọn lựa tất yếu 4

3. Cổ phẩn hoá các doanh nghiệp nhà nước – giảI pháp quan trọng, cơ bản trong việc đổi mới và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. 5

Phần II: Những qui định pháp luật liên quan tới cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước 9

1. Những cơ chế, chính sách đã được ban hành 9

2. Những kết quả tích cực đã đạt được 10

2.1. Đối tượng cổ phần hoá 10

2.2. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 10

2.3. Thẩm quyền lựa chọn và quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 11

2.4. Thẩm quyền xác định giá trị doanh nghiệp 12

2.5. Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp 12

2.6. Trình tự, thủ tục chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 13

Phần III: Thực trạng và bàI học kinh nghiệm từ công ty cổ phần Tràng Tiền sau khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần 14

1 Thực trạng 14

2. Những bàI học kinh nghiệm quí báu 16

Phần IV: Kiến nghị và đề xuất giảI quyết 18

1. Quyền được mua cổ phần lần đầu khi tiến hành cổ phần hoá. 18

2. Mở rộng hình thức CPH 19

3. Phương pháp định giá DN cần linh hoạt hơn 20

4. Sớm ban hành triển khai nhanh việc phân cấp,quản lý,sắp xếp và tổ chức lạiDN 20

5. Đơn giản qui trình CPH 20

Kết luận 21

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước – Giải pháp quan trọng, cơ bản trong việc đổi mới và tổ chức lại các Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h giảm bớt sở hữu của nhà nước trong các DNNN, và đa dạng hoá sở hữu trong DN. Nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và thúc đẩy quá trình tích tụ vốn nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. Cổ phần hoá không làm tàI sản nhà nước suy yếu mà còn có khẳ năng gia tăng nhờ lợi tức cổ phần của nhà nước và sự đóng góp ngày càng tăng của các CTCP làm ăn có hiệu qủa vào ngân sách nhà nước . 2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là sự chọn lựa tất yếu Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, đã có lúc Việt Nam đI theo con đường kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lấy mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cảI tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.Vì thế đã có quá nhiều DNNN được thành lập và phát triển một cách tràn lan nhưng lại không được tổ chức và quản lý tốt.Những kháI niệm như: cạnh tranh, thị trường, sức lao động, hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận, …hoàn toàn xa lạ đối với các doanh nghiệp lúc đó.Trong quản lý kinh tế theo kiểu hành chính, Nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất và cung ứng vật tư thiết bị cho các DN,sản phẩm sản xuất ra dù tốt hay xấu đều đã chỉ tiêu tiêu thụ theo mức giá mà nhà nước đã qui định.Tính chủ động trong sản xuất –kinh doanh bị gò bó bởi nhiều qui chế xuất phát từ quyền sở hữu của nhã nước. Với cách quản lý như trên đã đánh mất đI động lực kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp, làm cho hiệu quả hoạt động sản xuất của các DNNN yếu kém, trì trệ, nền kinh tế rơI vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Chính điều này đẫ trở thành gắng nặng cho ngân sách nhà nước. Nhà nước phảI thường xuyên sử dụng ngân sách trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho các DNNN dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng. Nhiều giảI pháp đã được đưa ra nhằm sắp xếp tổ chức lại các DNNN như: cơ cấu lại vốn và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp ; sát nhập các doanh nghiệp có vốn nhỏ ; giảI thể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc liên doanh liên kết với cac tổ chức nước ngoàI để tận dụng nguồn vốn,tiếp cận với các phương thức quản lý tiên tiến. Song những giảI pháp này vần chưa tạo được sự thay đổi về chất, chưa có sự thay đổi mang tính bước ngoặc,hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có thấp kém, nhiều DNNN làm ăn thua lỗ. Để giảI quyết vấn đề trên, Nghị quyết trung ương 2 khoá VII đã đưa ra một giảI pháp quan trọng nhằm tổ chức và sắp xếp lại các DNNN. Theo đó ‘Chuyển một số doanh nghiẹp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ phần quốc doanh mới, phảI làm thí điểm,chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp ”. 3. Cổ phẩn hoá các doanh nghiệp nhà nước – giảI pháp quan trọng, cơ bản trong việc đổi mới và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. Như đã nêu ở trên, trong một loạt các giảI pháp sắp xếp và tổ chức lại các DNNN: cổ phần hoá, tư nhân hoá,cho thuê,sát nhập, giáI thể các DNNN thì giảI pháp cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước được coi là hữu hiệu nhất để giảI quyết các khó khăn trong khu vực kinh tế nhà nước Tầm quan trọng và sức hấp dẫn của cổ phần hoá không chỉ thể hịên ở chỗ giảI toả được bế tắc, khúng hoảng về vốn cho các DNNN hiện nay có nhiều cơ hội đứng vững và phát triển trong thị trường cạnh tranh, nhưng lại đang thiếu vốn nghiêm trọng nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn vay ngân hàng, nhằm tạo ra môI trường huy động vốn dàI hạn cho các DNNN đầu tư có chiều sâu, nâng cao khẳ năng cạnh tranh của các DN trong và ngoài nước. Mà còn quan trọng hơn là ở chỗ CPHDNNN đã thông qua đa dạng hoá sở hữu để từ đó gắn trực tiếp quyền lợi và trách nhiệm của các cổ đông( là công chúng, người lao động trong các DN) với kết quả hoạt động của các DN, làm cho các DNNN đang ở tình trạng “ vô chủ” trở thành “ hữu chủ ‘” thật sự.Có lẽ đây là biện pháp hữu hiệu nhất nhất trong quá trình tìm kiếm lời giảI đáp về yêu cầu hữu chủ hoá quyền sở hữu ở các DNNN hiện nay. Sự hấp dần khác của giảI pháp cổ phần hoá các DNNN còn ở chỗ nó cho phép Nhà nước có thể điều chỉnh vai trò của mình đối với các doanh nghiệp. Nếu cần có sự can thiệp và kiểm soát lớn thì Nhà nước sẽ giữ lại tỷ lệ cổ phần cao hoặc ngược lại nếu muốn giảm bớt sự kiểm soát của mình, Nhà nước có thể bán phần lớn hoặc toàn bộ số cổ phần của mình trong các doanh nghiệp. Quá trình này sẽ giúp cho nhà nước thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngoàI xã hội đầu tư vào sán xuát kinh doanh , nhờ đó mà thu hồi được một phần vốn lớn cho ngân sách hoặc tập trung đầu tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế toàn xã hội. Khó khăn lớn nhất trong cơ chế quản lý đối với các DNNN hiện nay là vẫn là vấn đề về xử lý mối quan hệ giữa quyền sở hữu vốn của Nhà nước và quyền sở dung, quản lý vốn và tàI sản của các DNNN. Bên cạnh những lợi thế so với các doanh nghiệp tư nhân về các mặt hoạt động, DNNN cũng có những điểm hạn chế phát sinh từ vấn đề sở hữu và sử dụng vốn. Trong các doanh nghiệp tư nhân, người sở hữu vốn và người quản lý vốn luôn được đặt trong mối quan hệ phụ thuộc sống còn,do đó trong cơ chế quản lý được hình thành một cách tự nhiên và rất chặt chẽ. Còn ở các DNNN mối quan hệ này rất mơ hồ, không có người cụ thể đảm nhận hoặc đại diện với sự gắn bó trách nhiệm và quyền lợi. Do chưa xác định rõ ràng quyền sở hữu, nên quyền sử dụng của các doanh nghiệp cũng bị vi phạm và không có ranh giới cụ thể. Sự lúng túng trong lý luận và thực tế quản lý đã dẫn đến tình trạng nhà nước có thể can thiệp tuỳ ý vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc là tình trạng doanh nghiệp có thể sử dụng bứa bãI vốn và tàI sản của nhà nước. Ơ nước ta, vấn đề này cũng đã được tranh luận khá sôI nổi và đa dạng. Có nhiều ý kiến cho rằng không nên có sự phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, mà hai quyền này phảI được hợp nhất về một các nhân – Giám đốc doanh nghiệp. Nhưng cũng có ý kiến khác thì lại nhấn mạnh vào vai trò của người lao động, coi tập thể người lao động là đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước …Mỗi ý kiến đều chứa đựng những luận cứ có tính thuyết phục riêng,song bên cạnh đó vẫn chứa đựng những thiếu sót. Thật vậy, Giám đốc của các DNNN cũng như các công ty cổ phần không thể có quyền hoặc đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước hay của các cổ đông. Chỉ có ở doanh nghiệp tư nhân khi mà nhà tư bản tự bỏ vốn ra kinh doanh thì hai quyền đó mới nhập làm một.Còn người lao động trong các DNNN thì nghĩa vụ lớn nhất của họ là làm việc có hiệu quả để có thu nhập cao cho gia đình và bản thân.Thêm vào đó, ở vị trí của mình,người lao động không thể có đủ điều kiện, trình độ và khả năng để đảm nhận chức năng là người chủ sở hữu. Vấn đề quyền sở hữu của các DN để thực hiện sản xuất kinh doanh đều được hầu hết các ý kiến cho rằng, người chịu trách nhiệm vốn và tàI của Nhà nước và Giám đốc, người được Nhà nước bổ nhiệm hoặc đI thuê. Điều chưa rõ ràng trong nhiều năm qua hữu. nghĩa vụ lớn nhất của họ là làm vielà quỳên sử dụng vốn của Giám đốc. Trong cơ chế bao cấp,Giám đốc chỉ thực hiện chức năng quản lý và điều hành các hoạt dộng của doanh nghiệp.Song anh ta không có quyền sử dụng vốn , trong thời gian này quyền sở hữu thuộc về Nhà nước. Chỉ đến khi có Nghị định 217-HĐBT, thì quyền sở hữu vốn của Giám đốc mới được xem xét lại, tuy nhiên vẫn chưa có sự tách bạch rõ ràng về quyền sở hữu và quyền sử dụng nên nhiều Giám đốc chưa hiểu đúng về quyền sở hữu và sử dụng dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Thực tế cho thấy, trong những năm qua hoạt động của các doang nghiệp thường là không giống nhau có nơI Giám đốc bị tước hết mọi quyền sử dụng, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phảI xin ý kíên cấp trên. Ngược lại có nơI Giám đốc lại lợi dụng quyền sở hữu của Nhà nước để làm giàu cho bản thân( tham nhũng, nhậu nhẹt, hối lộ ….) Để giảI quyết tình trạnh vô chủ và tìm kiếm câu trả lời các yêu cầu về hữu chủ hoá trong các DNNNthỉ giảI pháp cổ phần hoá là hữu hiệu hơn cả. Nó cho phép nhà nước điều chỉnh vai trò của mình đối với các doanh nghiẹp.Đồng thời thông qua CPHDNNN, Nhà nước tạo điều kiện pháp lý để cho người lao động trong các DNNN được công nhận quyền làm chủ một bộ phận tàI sán của mình bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, nâng cao quyền làm chủ thật sự, có tính vật chất, trên phần vốn đóng góp và thực sự phấn đấu hăng háI để nâng cao hiệu quả đồng vốn đó, làm giàu cho bản thân và xã hội đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh,xã hội công bằng văn minh. Từ các phân tích trên cho thấy việc tổ chức và đổi mới lại các DNNN vẫn phảI tôn trọng quyền tự chủ, kinh doanh độc lập, tụ do cạch tranh. Trong các giảI pháp sắp xếp, tổ chức lại các DDNNN thì CPH là một giải pháp có ưu thế, thế mạnh trên nhiều mặt mà kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, đã xác nhận. Từ đó chúng ta có thể khẳng định lại rằng chủ trương CPHDNN của Đảng và Nhà nước ta là một chủ trương vô cùng đúng đắn và cấp thiết hiện nay. Phần II: Những qui định pháp luật liên quan tới cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước 1. Những cơ chế, chính sách đã được ban hành Cổ phần hoá DNNN là đường lối nhất quán của Đảng trong hơn 10 năm qua, là cuộc vận động đang được triển khai tích cực trong công cuộc cảI cách và đổi mới DNNN. Để tạo cơ sở pháp lý cho CPHDNNN,Chính phủ và các Bộ, các ngành hữu quan đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách theo hướng ngày càng đổi mới và thông thoáng, sát hợp với tình hình kinh tế- xã hội thực tế ở nước ta. Sau Nghị quyết TW2 khoá VII ra đời, ngày 8/6/1992 Chủ tịch hội đồng bộ trưởng( nay là Thủ tướng chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT kèm theo đề án triển khai thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP. Đây là những văn bản pháp lý đầu tiên của Chính phủ ban hành để hướng dẫn thi hành chủ trương CPH của Đảng. Sau bốn năm thực hiện CPHDNNN, chúng ta đã đúc rút được nhiều kinh nghiẹm. Đến ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành NĐ 28/ CP “ về việc chuyển một số DNNN thành CTCP” Tuy nhiên, do còn nhiều vướng mắc còn chưa được xác định rõ ràng như:việc xác định giá trị của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá….Vì vậy NĐ28/ CP đã đI vào cuộc sống rất chậm, từ khi NĐ28 / CP ban hành cho đến 6/1998 chỉ có 25 DNNN tiến hành CPH. Trước tình hình này,ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành NĐ44/1998/ NĐ-CP “ về việc chuyển DNNN thành CTCP’’ thay thế NĐ 28 / CP nói trên. Hiện nay, nghị định 44/1998/NĐ- CP được coi là nghị định thông thoáng,tạo được sức hấp dẫn đối với các DNNN với thủ tục pháp lý rõ ràng,đầy đủ. Với những kết quả đã được của gần bốn năm thực hiện NĐ48/1998/NĐ-CP, ngày 19/06/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/ NĐ-CP “ về việc chuyển DNNN thành CTCP” Nghị định này nhằm quán triệt những chủ trương mới và triển khai thực hiện nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN từ 2002-2005 được đề ra trong Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khoá I X. 2. Những kết quả tích cực đã đạt được Hiện nay, NĐ 64/2002/ND-CP đã có nhiều ưu điểm hơn so với NĐ44/1998/ND-CP.Cụ thể trong những nội dung sau: 2.1. Đối tượng cổ phần hoá Cũng như NĐ44/1998/NĐ-CP,tại Điều 2 của nghị định số 64/2002/NĐ-CP đã qui định rất rõ “ Danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng chính phủ quyết định trong từn g thời kỳ ”.Nhưng thay vì một danh mục cứng nhắc như NĐ 44/ 1998 thì NĐ 64/2002 chỉ qui định thẩm quyền phân loại doanh nghiệp nhà nước còn cụ thể là doanh nghiệp nhà nước nào còn tuỳ thuộc vào điều kiẹn, tình hình phát trỉên kinh tế của ta trong từng thời kỳ. Đồng thời tại khoản 2 Điều2 NĐ 64 /2002 cũng qui định: Đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp nhà nước chỉ cần tiến hành khi có đủ điều kiện hạch toán độc lập và việc cổ phần hoá không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , hoặc bộ phận còn lại của doanh nghiệp. Với qui định này, đã giúp cho nhà nước ngăn chặn được những khó khăn, phức tạp xảy ra trong quá trình chuyển đổi DNNN thành CTCP, dặc biệt là công doạn xác định giá trị DN sau khi cổ phần hoá.Đây là một thay đổi quan trọng thể hiện cơ chế quản lý mềm dẻo của Nhà nước ta nhằm phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. 2.2. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Cũng như Điều 7 ND44/1998, thì tại Điều 3 NĐ 64/2002 CPHDNNN được tiến hành theo 4 hình thức sau: Giữ nguyên giá trị tàI sản thuộc vốn hiện có của nhà nuớc tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phần để thu hút vốn Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiẹn có tại doanh nghiệp Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn hiện có của nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Thay vì hình thức tách một bộ phận doanh nghiệp có thể hoạt động độc lập và hạch toán riêng giá trị tàI sản để cổ phần hoá như NĐ 44/1998 thì NĐ 64 /2002áp dụng hình thức: thực hiện các hình thức bán một phần hoặc bán toàn bộ phần vốn hiện có của nhà nước tại doanh nghiệp kết hợp với phát hành cổ phiếu dể thu hút vốn.Hình thức này tạo điều kiện cho các DNNN thu hút được một lượng vốn lớn ngay từ thời điểm cổ phần hoá mà không phảI là đa dạng hoá hay chuyển đổi hình thức sở hữu.Thay đổi này là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với qui định của pháp luật. 2.3. Thẩm quyền lựa chọn và quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Thay vì giao thẩm quyền lựa chọn và quyết định doanh nghiệp cổ phần hoá xuất phát từ chủ thể thành lập như Điều15 NĐ44/1998, căn cứ theo Điều 30 NĐ 64/2002, Nhà nước có cách nhìn mới đó là giao thẩm quyền lựa chọn và quyết định doanh nghiệp cổ phần hoá từ chính cơ quan có trách nhiệm quản lý doanh nghiệp. Theo đó, cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật sẽ có vai trò và trách nhiệm rất lớn đối với các DNNN thuộc phạm vi mình quản lý.Các Bộ trưởng, Thứ trưởng, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Hội đồng quản trị tổng công ty 91 có trách nhiêm xây dựng phương án tổng thể sắp xếp DNNN thuộc phạm vi mình quản lý, trình Thủ tướng phê duyệt và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. Như vậy, nếu như thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần và chuyển DNNN thành CTCP theo Điều 17 NĐ 44/1998 xuất phát từ tiêu chí vốn của nhà nước tại doanh nghiệp thì theo khoản 2 Điều 30 Nghị định 64/2002 cũng được giao cho cơ quan quản lý ngành kinh tế – kỹ thuật hoặc chủ tịch UBND cấp tỉnh qui định Trên cơ sở phương án sắp xếp DN tổng thể được phê duyệt theo hưỡng dẫn của các cơ quan liên quan. 2.4. Thẩm quyền xác định giá trị doanh nghiệp Căn cứ theo Điều 16 Nghị định 44/ 1998 thì - Bộ trưởng TàI chính quyết định giá trị doanh nghiệp có mức vốn nhà nước ghi trên sổ sách kế toán đến thời điểm cỏ phần hóa trên 10tỷ đồng sau khi có thoả thuận với Bộ quản lýngành,BND tỉnh,Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 liên quan - Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ TàI Chính, Bộ trưởng các bộ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 quyết định giá trị doanh nghiệp có mức vốn nhà nước ghi trên sổ sách kế toán đến thời điểm cổ phần từ dưới 10 tỷ. Còn theo khoản 3 Điều 30 Nghị định 64/2002, các Bộ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh mới là người có thẩm quyền quyết định giá trị DN và họ chỉ phảI xin ý kiến chấp thuận của Bộ trưởng Bộ TàI chính trước khi quyết định nếu như giá trị thực tế phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp nhỏ hơn giá trị ghi trong số sách kế toán từ 500 triệu trở lên. Đây là điều cần thiết bởi muốn loại trừ khả năng có sự gian lận hoặc nhầm lẫn ở đây đòi hỏi phảI có nghiệp vụ và chuyên môn để kiểm tra. 2.5. Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp Căn cứ theo NĐ 44/ 1998/ NĐ-CP thì giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn bộ tàI sản hiện có của DN tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua và người bán có thể chấp nhận được. Các yếu tố xác định giá trị thực tế của DN a Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp b Phẩm chất và tính năng kỹ thuật của tàI sản theo,giá thị trường về thời điểm cổ phần hoá. c Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp: vị trí địa lý, uy tín mặt hàng… 2.6. Trình tự, thủ tục chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần Sau khi thực hiện cổ phần hoá, DN sẽ hoạt động theo chế độ công ty cổ phần, qui định trong Luật Doanh nghiệp có hiệu lực ngày 1/1/2000. Nghị định 44/98/NĐ-CP đã qui định quy trình chuyển đổi DNNN thành CTCP gồm 4 bước chính sau: A Chuẩn bị cổ phần hoá Ban quản lý tại doanh nghiệp chuẩn bị tàI liệu về: hồ sơ pháp lý khi thành lập DN, tình hình công nợ,tàI sản..; danh sách cổ đông doanh nghiệp đến thời điểm cổ phần hoá, dự kiến kinh phí CPH cho đến khi hoàn thành. B Xây dựng phương án cổ phần hoá Ban đổi mới và quản lý tại DN lập phương án( dự kiên) CPHDN và dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty. PHổ biến và niêm yết công khai dự kiến phương án nêu trên để mọi người lao động trong DN được biết. Sau khi hoàn thiện phương án CPHDN,thì sẽ trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, C Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án cổ phần Sau khi được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban quản lý đổi mới DN mở sổ đăng ký mua cổ phần của các cổ đông, đăng ký mua tờ cổ phiếu tại kho bạc, thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương bán cổ phần của DN cho các cổ đồng TRưởng ban đổi mới và quản lý của DN triệu tập Hội đồng cổ đông lần thứ nhất để bầu Hội đồng quản trị,Ban kiểm soát thông qua điều lệ hoạt động của công ty D Ra mắt công ty cổ phần và đăng ký kinh doanh Sau khi ban quản lý và dổi mới giảI tán, Hội đồng công ty tiếp tục hoàn tất các công tác còn lại: nộp lại con dấu…Cuối cùng cho ra mắt các công ty cổ phần, đang ký trên các phương tiên thông tiên đại chúng hoặc bằng văn bản thời điẻm hoạt động của CTCP theo con dấu mới, vố n điều lệ,ngành nghề kinh doanh. Đăng ký kinh doanh vơI Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương nơI DN đặt trụ sở chính. Phần III: Thực trạng và bàI học kinh nghiệm từ công ty cổ phần Tràng Tiền sau khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần 1 Thực trạng Công ty cổ phần Tràng Tiền tiền thân là một doanh nghiệp quốc doanh được thành lập từ năm 1992 với tên gọi ban đầu là Công ty ăn uống và khách sạn 35 Tràng Tiền -Hà Nội. Sau một thời gian dàI hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, người lao động không có việc làm,do đó công ty đã quyết định chuyển sang mô hình cổ phần hoá. Sau gần nửa năm tiến hành và triển khai,ngày 5/1/2000 công ty đã chính thức đI vào hoạt động theo mô hình mới, chuyển từ doanh nghiệp quốc doanh là công ty ăn uống và khách sạn 35 Tràng Tiền thành công ty cổ phần Tràng Tiền theo quyết định số 26/2000 QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ cấp ngày 5/1/2000. Giấy phép đăng ký kinh doanh số 410300344 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp ngày 20/1/2000 Trụ sở chính: 35 Tràng Tiền – Hà Nội Hoạt động kinh doanh: Nhà hàng, khách sạn Công ty tiến hành cổ phần hoá theo hình thức giữ nguyên phần vốn hiện có của nhà nước tại công ty và phát hành cổ phiếu cho các cán bộ, công nhân viên trong công ty để huy động vốn mở rộng sản xuất.Tại thời điểm cổ phần hoá số vốn điều lệ là 3,2 tỷ đồng( trong đó số vốn nhà nước là 1,9 tỷ). Ngay sau khi tiến hành cổ phần hoá số vốn này đã được chia thành 32.000 cổ phần. Số cổ phần này đã được bán cho 100% cán bộ, công nhân viên trong công ty với giá ưu đãI. Ngay sau khi tiến hành cổ phần hoá, công ty làm ăn có hiệu quả hơn. Nếu số doanh thu năm 1999 là 4,2tỷ đồng,thì năm 2000 là 5,535 tỷ(tăng 31,8%) ;Lương bình quân của công nhân viên tăng đáng kể: năm 1999 là 700.000 /người/tháng ; năm 2000 là 1.037.000 /người/tháng.Trong đó 100% công nhân viên có việc làm; cổ đông được hưởng lợi tức 12%. Tuy nhiên, trong hai năm gần đây( 2001-2003) khoảng 80% số cổ phiếu và 2/3 số vốn điều lệ đã bị một thể nhân bên ngoàI đầu cơ. Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ hai “ tiền đề” sau: Trước hết là việc xác định giá trị tàI sản của DN thiếu chính xác. Bởi theo con mắt của các nhà kinh tế,CTCP Tràng Tiền với 2.600 m2 xây dựng toạ lạc trên khuân viên rộng 1.500m2 đất ở một nơI đẹp nhất Hà Nội, sẽ là một vị trí siêu lợi nhuận cho bất kỳ nhà kinh doanh nào. Và theo họ,với giá thị trường như hiện nay cộng thêm hệ thống máy móc, trang thiết bị của khách sạn, nhà hàng, ghá trị tàI sản của công ty phảI lên tới hàng trăm tỷ đồng. Nhưng trên thực tế, khi định giá để CPH thì chỉ được xác định trọn gói có 3,2 tỷ đồng.Vì thế CTCP Tràng Tiền đã trở thành miếng mồi béo bở cho bất kỳ ai muốn chiếm đoạt khi có cơ hội. Bên cạnh đó, sau CPH số cổ phần của công ty đẫ được bán hết cho 100% CBCNV với giá ưu dãI. Vì thế một số CBCNV vốn chỉ là những người làm công ăn lương nay lại được sở hữu một “giấy tờ” có giá mà bản thân họ chỉ phảI bỏ một số tiền không nhiều và thực tế cũng không định được giá trị đích thực của chúng là bao nhiêu. Lợi dụng sự thiếu hiểu biét về giá trị cổ phiếu của không ít cổ đông,một số cổ đông trong công ty đã cấu kết với người nước ngoàI tổ chức mua chui cổ phiếu của CTCP Tràng Tiền với gía gấp 7-10 lần giá trị ghi trên cổ phiếu. Và cho đến cuối năm 2001, có tới 2/3 số vốn điều lệ và khoảng 80% số cổ phiéu với số tiền mua bán trên 20 tỷ đồng đã được chuyển nhượng bất hợp pháp cho một thể nhân bên ngoàI công ty. Để có được số cổ phiếu trên, người này đã dùng một “chiêu” rất độc đáo đó là ký kết hợp đồng thoả thuận lao động với những người chuyển nhượng như một cam kết đảm bảo việc làm cho họ sau khi chuyển nhượng cổ phiếu. Chính điều này đã làm giảm đáng kể số cổ đông là người lao động trong công ty Trong số 96 cổ đông trong công ty ban đầu sở hữu 32.000 cổ phần thì đến cuối năm 2001 số trụ lại chỉ còn 20 người. Trường hợp của CTCP Tràng Tiền đã gây xôn xao dư luận trong năm 2001. 2. Những bàI học kinh nghiệm quí báu Vẫn biết rằng CPH là một giảI pháp đúng đắn song đằng sau nó vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của các DN cổ phần.Trường hợp của CTCP Tràng Tiền không phảI là trường hợp duy nhất lâm vào khủng hoảng do hạn chế từ sau CPH đặc biệt là việc định giá tàI sản DN thiếu chính xác.Việc chuyển nhượng cổ phiếu ở CTCP Tràng Tiền đã vi phạm Điều 86 của Bộ Luật Hình Sự , Điều 58 của Luật Doanh Nghiệp và sẽ bị xử phạt theo pháp luạt. Điều đáng nói ở đây,từ “sự cố’’ này đã để lại cho công tác CPH một bàI học đắt giá từ đó có thể rút ra được những kinh nghiệm qúi báu cho các nhà quản lý đang và sẽ tiến hành cổ phần hoá Việc chuyển đổi DNNN thành CTCP, về căn bản là táI cấu trúc lại vốn và cơ cấu chủ sở hữu, là quá trình đI tìm động lực mới để cảI tiến và pháp triển công ty, chứ không đơn thuần là chủ trương hữu sản hoá một thực thể có sẵn cho người lao động tại chỗ.Thực tế cho thấy,ở CTCP Tràng Tiền, do không có các nhân tố mới trong cơ cấu chủ sở hữu nên trong phương án kinh doanh không có những thay đổi tích cực mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Vì thế ai đó muốn “ ngầm thôn tính ”và một só cổ đông sẵn sàng bán cổ đông ra bên ngoàI là một điều tất yếu. Đồng thời, CPH nếu làm đúng thì giá trị nhà nước bao gồm tàI sản hưũ hình và tàI sản vô hình chỉ thay đổi về hình thức quản lý mà không làm mất đI giá trị thực tế. Vì thế để tránh việc định giá trị tàI sản DN thiếu chinhs xác như CTCP Tràng Tiền , thì ngoàI một tỷ lệ nhất định ưu tiên cho cán bộ công nhân viên, phần còn lại nên đấu thầu. Ai có phương án sử dụng hữu hiệu hơn, có kế hoạch phát triển kinh doanh hiệu quả hơn thì người đó hoặc nhóm người đó sẽ trở thành người quản lý mới của DN.Phần ưu tiên cho nội bộ cũng tính theo giá đấu thầu nhưng được giảm một tỷ lệ nhất định.Đ ặc biệt, khi bán cổ phần, CBCNV được quyền ưu tiên mua, nếu mua không hết thì số cổ phần đó sẽ bán ra ngoàI cho các nhà đầu tư có điều kiện muốn tham gia. Làm như vậy Nhà nước sẽ thu nhận và chọn lựa được người quản lý có năng lực nhất. Từ sự việc vừa xảy ra tại CTCP Tràng Tìên cho thấy, nếu CPH được tiến hành một cách minh bạch, chính xác ; cổ đông hiểu được giá trị đích thực của DN cũng như số cổ phiếu mà họ đang nắm giứ ; Ban lãnh đạo được lựa chọn với những điều kiện rõ ràng, thì CPH sẽ phát huy hết tác đụng của nó, mang lại lợi ích cho nhà nước và tập thể CBCNV của doanh nghiệp. Còn nếu không thì những sự việc xảy như ở CTCP Tràng Tiền sẽ còn tiếp diễn là điều không tránh khỏi. Phần IV: Kiến nghị và đề xuất giảI quyết Hiện nay, tốc độ cổ phần hoá các DNNN của nước ta đang còn tương đối chậm Do vậy để thúc đẩy mạnh mẽ và vững chắc tiến trình CPHDNNN trong thời gian tới,một mặt chúng ta phảI tích cực tạo ra các điều kiện khách quan về kinh tế, mặt khác còn phảI coi trọng nhân tố chủ quan trong việc đề ra và thực hiện các giảI pháp về chế độ, chính sách và biện pháp triển khai.Cụ thể: Khẩn trương sửa đổi, bổ sung các văn bản qui chế hiện hành tạo điều hiện cho các DN tiến hành CPH. Hiện nay, nhà nước đang tiến hành triển khai CPH chủ yếu trên cơ sở Nghị định 44/1998/NĐ- CP ngày 19/06/1998. Đây là nghị định được ban hành đầy đủ nhất, có hệ thống mục tiêu, yêu cầu, đối tượng, đến phương thức tiến hành, chế độ đối với người lao động trong các DNCPH Từ kinh nghiệm của một số nước và rà soát lại các văn bản, qui chế về CHH đã ban hành để xây dựng một hệ thống các văn bản pháp qui đầy đủ và đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong quá trình CPH cần phảI sửa đổi và bổ sung: 1. Quyền

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72230.DOC
Tài liệu liên quan