Theo báo cáo của bộ tài chính, những năm đầu của thập niên 90, các DNNN Việt Nam "chiếm vị trí chủ đạo, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế" chủ yếu trong tình trạng thiết bị lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ. Cơ cấu kinh tế chưa phù hợp, chủ yếu là ngành nông nghiệp chiếm 27%, thương mại chiếm 43%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30% ( trong khi các nước đang phát triển khác là 70% - 80%) cơ cấu vốn chưa hợp lý, 81% là cố định, 19% lưu động, quy mô của các doanh nghiệp nhỏ (dưới 1 tỷ đồng) chiếm 68% thực tế trên đã khiến hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp rất thấp, mỗi đồng vốn chỉ tạo được 2,3 đồng doanh thu và 0,1 đồng lợi nhuận. Tài sản cố định của các doanh nghiệp chiếm từ 70-80% nhưng chỉ cung cấp được 44% tổng sản phẩm xã hội. Theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam và Thế Giới, với thực trạng đáng buồn này các DNNN không đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam ra nhập các tổ chức Thương Mại khu vực và Thế Giới. Vì vậy để tạo chỗ đứng trên thương trường Việt Nam cần phải cải cách DNNN để tìm ra con đường mơí cho sự phát triển. Đó là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, các phương thức sản xuất, liên doanh liên kết với nước ngoài để tận dụng nguồn vốn, nâng cấp trang thiết bị lạc hậu, tiếp cận phương thức quản lý tiên tiến.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2364 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Làm gì để đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
Ngay từ đầu những năm 80 chương trình chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước trên Thế giới đã diễn ra mạnh mẽ. Với xuất phát điểm là nước Anh, và sau đó lan rộng xuống các nước khác. ở các nước Đông Âu phong trào cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu các DNNN cũng đã phát động từ ngay thập niên 90 và hiện vẫn tiếp diễn khá sôi động.
Còn đối với Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, đã có thời kì Việt Nam theo con đường kinh tế kế hoặc hoá tập chung quan liêu bao cấp, vì vậy đã có quá nhiều DNNN được thành lập trong tất cả các ngành, lĩnh vực với nhiều loại quy mô khác nhau. Hoạt động kém hiệu quả, không vì mục đích sinh lời, sản xuất và cung ứng vật tư thiết bị do chỉ tiêu của nhà nước. Với cách quản lý như trên cùng vời nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác, thì đến những năm 80 Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Kinh tế lạm phát đến 3 con số, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn.
Trước thực tế này Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Để tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, thì việc CPH các DNNN là một giải pháp vô cùng quan trọng. Nhằm huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy DNNN kinh doanh có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng thêm. Song bên cạnh những kết quả nhất định đã đạt được trong 10 năm CPH, thì vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thời đại cũng như kế hoạch đã đặt ra. Quá trình CPH DNNN vẫn còn đang trong tình rạng tiến triển chậm.
Chính nhận thức được tầm quan trọng, với mong muốn được đi sâu tìm hiểu vấn đề nóng bỏng và hết sức lý thú này để lắm rõ hơn về CPH DNNN, em chọn đề tài “ Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Làm gì để đẩy mạnh quá trình CPH ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. Chuyên đề được chia làm ba phần.
Phần I : Lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Phần II : Thực trạng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam.
Phần III : Các giải pháp đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp tại Việt Nam.
Với khả năng, trình độ và hiểu biết cón hạn chế của một sinh viên, chắc chắn trong bài luận này còn nhiều thiếu sót, vì vậy em mong được những ý kiến đóng góp, bổ sung của thầy cô.
Em xin trân thành cám ơn!
Nội dung
Phần I : Lý luận chung về CPH DNNN.
I . Khái niệm chung về CPH DNNN.
CPH DNNN là việc chuyển DNNN thành các công ty cổ phần đối với những doanh những nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn đầu tư, nhằm tạo điều kiện cho người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần làm chủ thực sự doanh nghiệp, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp góp phần tăng trưởng kinh tế.
Xuất phát từ chủ chương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước, đồng thời đứng trên quan điểm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, và sử lý hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động. Nhà Nước đã đề ra mô hình như sau.
Giữ nguyên giá trị vốn của Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn.
Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Tách một bộ phận doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá.
Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
II . Cổ phần hoá doanh nghiệp là xu thế tất yếu.
Vào những thập niên cuối thế kỷ XX đặc biệt là những thập niên 90, khu vực hoá và toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của nền kinh tế Thế giới. Việc gia nhập vào các tổ chức kinh tế của khu vực và Thế giới như AFTA, NAFTA, EU và WTO luôn là mong muốn của bất kỳ quốc gia nào. Xu thế hội nhập này tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp với quy luật "mạnh thắng, yếu thua” hàng dào thuế quan mà Chính phủ các nước sử dụng sẽ mất tác dụng để bảo vệ các sản phẩm do các DN trong nước sản xuất. Vì vậy, biện pháp duy nhất để các doanh nghiệp không bị loại trừ ra khỏi “cuộc chơi” là phải tăng cường khả năng cạnh tranh của chính mình để chiếm lĩnh và tạo thế đứng vững chắc trên thương trường.
Theo báo cáo của bộ tài chính, những năm đầu của thập niên 90, các DNNN Việt Nam "chiếm vị trí chủ đạo, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế" chủ yếu trong tình trạng thiết bị lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ. Cơ cấu kinh tế chưa phù hợp, chủ yếu là ngành nông nghiệp chiếm 27%, thương mại chiếm 43%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30% ( trong khi các nước đang phát triển khác là 70% - 80%) cơ cấu vốn chưa hợp lý, 81% là cố định, 19% lưu động, quy mô của các doanh nghiệp nhỏ (dưới 1 tỷ đồng) chiếm 68% thực tế trên đã khiến hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp rất thấp, mỗi đồng vốn chỉ tạo được 2,3 đồng doanh thu và 0,1 đồng lợi nhuận. Tài sản cố định của các doanh nghiệp chiếm từ 70-80% nhưng chỉ cung cấp được 44% tổng sản phẩm xã hội. Theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam và Thế Giới, với thực trạng đáng buồn này các DNNN không đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam ra nhập các tổ chức Thương Mại khu vực và Thế Giới. Vì vậy để tạo chỗ đứng trên thương trường Việt Nam cần phải cải cách DNNN để tìm ra con đường mơí cho sự phát triển. Đó là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, các phương thức sản xuất, liên doanh liên kết với nước ngoài để tận dụng nguồn vốn, nâng cấp trang thiết bị lạc hậu, tiếp cận phương thức quản lý tiên tiến.
Phần II: Thực trạng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà Nước tạI Việt Nam.
I. Những kết quả đạt được
Sau 10 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá. Tính đến hết năm 2001 trên toàn quốc đã có 772 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp Nhà nước (bằng 13% tổng số doanh nghiệp Nhà nước hiện có) của 10/13 bộ, 54/61 địa phương và 12/17 tổng công ty hoàn thành chương trình cổ phần hoá. Tổng số vốn Nhà nước đã được đánh giá lại sau khi cổ phần hoá là gần 3000 tỷ đồng (Tăng từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách) qua cổ phần hoá đã huy động gần 3000 tỷ đồng vốn ngoài xã hội. Và phát triển sản xuất kinh doanh.
Đồng thời, sự thay đổi phương thức quản lý đã tạo động lực, thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Vai trò làm chủ thực sự của người lao động với tư cách là cổ đông trong công ty cổ phần bước đầu được khơi dậy và phát huy, thể hiện rõ tinh thần hăng say và tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh được nâng cao. Theo báo cáo của các doanh nghiệp cổ phần hoá đã hoạt động trên 1 năm, các chỉ tiêu kinh tế của hầu hết các doanh nghiệp đều có mức tăng trưởng cao. Trong đó doanh thu bình quân tăng 1,4 lần lợi nhuận tăng 2 lần, nộp ngân sách nhà nước tăng 1,2 lần. Thu nhập của người lao đông tăng 22%. Số lượng lao động tăng 5,1%. Điều đáng chú ý là tất cả các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá trong thời gian qua chưa có doanh nghiệp nào phải đưa người lao động ra khỏi doanh nghiệp (trừ những trường hợp tự nguyện). Đồng thời thu nhập của người lao động tăng cao hơn trước khi cổ phần hoá.
Tuy vậy, do phần lớn các doanh nghiệp cổ phần hoá thuộc diện vừa và nhỏ, vốn nhà nuớc dưới 10 tỷ đồng là phổ biến lên mục tiêu huy động vốn và cơ cấu lại các nguồn vốn Nhà nước qua cổ phần hoá còn hạn chế.
II. Một số nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hoá.
Một thực tế là tại sao một chủ trương đúng khi áp dụng vào thực tế lại diễn ra chậm như vậy? Theo các kết quả điều tra cho chúng ta những thông tin hết sức quan trọng để có thể lý giải được câu hỏi trên.
Thứ nhất: Theo điều tra cho thấy 72% công nhân viên và 69% cán bộ quản lý kinh tế rất băn khoăn lo lắng về việc làm. Trong đó 61% công nhân sợ mất việc sau khi cổ phần hoá. 44% số người được hỏi cho rằng cán bộ quản lý ngại cổ phần hoá vì sợ ảnh hưởng tới vị trí của mình lên chưa tích cực thực hiện. Điều đó chứng tỏ rằng nhận thức về CPH chưa được nhất quán và còn chưa rõ ràng trong các cấp, các ngành, và cơ sở.
Thứ hai : Các chế độ chính sách hiện hành về CPH DNNN chưa được hấp dẫn, khuyến khích, thúc đẩycác doanh nghiệp, và người lao động để tham gia tích cực vào cổ phần hoá. Cũng theo số liệu thông kê thì 81% cán bộ quản lý, chuyên gia kinh tế, 51% công nhân viên, 64% cán bộ làm công tác đảng cho rằng. cần đảm bảo sự bình đẳnggiữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá. cũng như các doanh nghiệp của các thành phàn kinh tế khác. có nghĩa vụ tạo điều kiện tạo điều kiện thuận lợi cho các doang nghiệp cổ phần hoá. là biện pháp quan trọng hàng đầu. bởi hiện nay, các DNNN đang được hưởng quá nhiều ưu đãi như không góp vốn, không phải chịu rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt là có lợi thế hơn so với DN CPH về sử dụng đất, vay vốn ngân hàng, được hoãn nỏ, xoá nợ khi kinh doang gặp rủi ro, được xét giảm thuế dế ràng.
Một thông tin khác đáng quan tâm là, 60% số người được hỏi cho rằng biện pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả quản các doanh nghiệp nhà nước là đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, triệt để xoá bổ bao cấp, và khoán, bán, giải thể các doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ kéo dài hoặc kém triển vọng.
Thứ ba : Quy trình cổ phần hoá còn phức tạp, nhiều thủ tục, phiền hà, nhất là việc sử lý các vấn đề tài chính, việc làm, phê duyệt đề án CPH, điều lệ hoạt động của công ty cổ phần, xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà, phức tạp và lại chia nhiều công đoạn, nhiều tổ chức tham gia đánh giá đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình CPH trong những năm qua và trong những năm tới không thể diễn ra suôn xẻ. Vì thế đòi hỏi chúng ta phải cố gắng và quyết tâm cao để đưa ra các giải pháp để đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá này.
Phần III : các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
I . Về cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách sớm được ban hành thành văn bản quy định chi tiết các tiêu chí phân loại DNNN hiện có thành các nhóm gồm:
Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn và doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội sẽ chuyển thành công ty TNHH 1 thành viên theo nghị định số 63/NĐ-CP ngày 14/9/2001.
Nhóm doanh nghiệp khi CPH Nhà nước sẽ giữ cổ phần chi phối (trên 50%) hoặc cổ phần đặc biệt.
Nhóm DNNN còn lại sẽ thuộc diện Nhà nước bán phần lớn hay toàn bộ phần vốn trong doanh nghiệp, giao, bán doanh nghiệp cho người lao động, khoán kinh doanh hay áp dụng hình thức sáp nhập, giải thể và phá sản nếu không thực hiện được các biện pháp bảo vệ chuyển đổi sở hữu. Việc phân loại lần này phải cụ thể, chi tiết để các Bộ, ngành, địa phương có điều kiện thực hiện thống nhất.
Đồng thời, cần nhanh chóng ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 44/ND-CP với những sửa đổi nhằm thay thế những điểm chưa phù hợp hoặc thiếu cụ thể. Các văn bản hướng dẫn kèm theo cần được xem xét trong tổng thể hướng dẫn thực hiện luật doanh nghiệp cũng như khi bổ sung luật DNNN. Trong đó, một số điểm cần tập trung thực hiện:
1. Việc xác đinh giá trị doanh nghiệp sẽ do các cơ quan kiểm toán độc lập thực hiện và chịu trach nhiệm trước nhà nước về kết quả kiểm toán. Tuy nhiên chỉ nên coi kết quả kiểm toán là cơ sở để xây dựng giá bán cổ phần cho các nhà đầu tư. Trong qúa trình xác định giá trị doanh nghiệp, cần có nhiều biện pháp để so sánh sao cho gần với thị trường. Việc nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cần qua bước thí điểm, phù hợp với thực tế kinh tế xã hội của đất nước.
2. Không qúa hạn chế mức mua cổ phần làm giàu của mọi đối tượng trong các DNNN thực hiện cổ phần hoá(CPH) nhằm đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tuy nhiên người lao động trong doanh nghiệp sẽ được ưu tiên hơn so với các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp để tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Đồng thời cần khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Đây là giải pháp hết sức quan trọng để tạo ra chuyển biến thực sự trong hoạt động của doanh nghiệp sau CPH. Thực tế vừa qua cho thấy, do thiếu những cổ đông có sức mạnh về công nghệ, thị trường, quản lý tài chính, nên nhiều doanh nghiệp sau CPH tuy kinh doanh hiệu quả hơn nhưng lại chưa dựa trên cơ sở phát triển mạnhtrên nền tảng vững chắc.
3.Trong những năm tiếp theo, cần mở rộng việc bán cổ phần của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Ngoài ra, để khuyến khích các tổ chức kinh tế nước ngoài, người nước ngoài mua cổ phần, cần ban hành quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tiếp tục tuyên truyền rộng rãi về chủ trương bán cổ phần cho nhà đằu tư nước ngoài và thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia mua cổ phần của các nhà doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những ngành khuyến khích ghi trong danh mục kèm theo quyết định số 145/1999/QD-TTg.
4. Cần sớm ban hành cơ chế xử lý công nợ và lao động dôi dư cho DNNN thực hiện CPH để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau khi được chuyển đổi. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tạo cơ chế đơn giản để mọi thành phần kinh tế có thể tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng, nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Trong điều kiện có thể, Nhà nước cần sớm nghiên cứu xây dựng và ban hành luật chuyển đổi sở hữu DNNN để có thể nâưng cao tính pháp lý khi thực hiện CPH.
5. Đối với những DNNN đang gặp khó khăn trong hoạt động có (hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh còn thấp; ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn kém hấp dẫn) mà tiến hành CPH thì sẽ cho hưởng mức ưu đãi cao hơn các doanh nghiệp bình thường.
6. Riêng các DNNN có quy mô vừa và lớn sau khi thực hiện CPH mà có đủ các điều kiện cần thiết để tiéen hành niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đối với các doanh nghiệp không đủ điều kiện niêm yết thì từng bước áp dụng biện pháp đấu giá cổ phần công khai cho mọi đối tượng có nhu cầu mua cổ phần tham gia.
7. Tăng cường quản trị doanh nghiệp sau khi CPH. Đặc biệt là chấp hành đúng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng quản trị, của Giám đốc. Nâng cao pháp chế XHCN để khắc phục những hiện tượngkhông đáng có do thiếu hiểu biết pháp luật, hoặc cố tình làm sai pháp luật, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của công ty cổ phần.
II. Hoàn thiện bộ máy và tổ chức chỉ đạo.
Ngoài việc có 1 cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn, kinh nghiệm của các quốc gia đã tiến hành cải cách hệ thống DNNN và thực hiện CPH thành công cho thấy, một bộ máy tổ chức chỉ đạo đủ mạnh với chuyên gia có đủ năng lực về công tác CPH là rất quan trọng. Nghị quyết TW3 khoá IX cũng xác định ''Bộ chính trị chỉ đạo Ban cán sự Đảng, Chính Phủ và các ban của Đảng có liên quan thành lập tổ chức tương xứng để làm nhiệm vụ tham mưu, phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách và giúp Chính phủ chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ sắp xếp, đối mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN''. Vì thế, trong thời gian tới cần chấn chỉnh và hoàn thiện tổ chức bộ máy Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp từ trung ương đến các tỉnh, thành phố, tăng cường nhữnh chuyên gia có đủ năng lực cho các cơ quan này.
Đồng thời, nâng cao trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương trong việc xắp sếp và cổ phần hoá DNNN trong thời gian tới; có trương trình, kế hoạch cụ thể và phải tập chung chỉ đạo quiết liệt nhằm đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra. thận chí, hàng năm Chính phủ nên giao chi tiêu thực hiện cho các Bộ , địa phương tronh việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và thường kỳ phải có tổng kết đánh giá và kiểm điểm việc thực hiện chi tiêu này của các Bộ, địa phương.
Song song với việc kiện toàn và tổ chức chỉ đạo, Nhà nước cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân, nhất là người lao động trong các doanh nghiệp thuộc diện chuyển đổi sở hữu về ý nghĩa, mục đích và sự cần thiết của công tác CPH DNNN trong việc phát triển kinh tế của đất nước, để mọi người cùng hăng hái thực hiện.
Kết luận
Có thế nói quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước nói chung và cổ phần hoá nói riêng chậm được giải quyết đã trở thành lực cản cho quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Vì vậy, để đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam trong thời gian tới, việc nghiên cứu và ứng dụng một cách hợp lý các kinh nghiệm trên thế giới phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam là điều hết sức cần thiết. đòi hỏi mỗi chúng ta phải cố gắng lớn và quyết tâm cao để đảy nhanh tiến trình cổ phần hoá thành công góp phần phát triển kinh tế ngày một tăng cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72785.DOC