Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ỏ Việt Nam

Lời nói đầu 1

Chương I: Cơ sở lý luận của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3

1. Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3

2. Cơ sở lý luận của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3

Chương II: Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở

Việt Nam 5

1. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 5

2. Đánh giá chung tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở

Việt Nam 8

3. Giải pháp để xúc tiến cổ phần hoá doanh nghiệp 10

Kết luận 14

 

 

 

doc15 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ỏ Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Việt nam với một nền kinh tế còn non kém chưa thoát ra khỏi sự yếu kém và nghèo nàn, một nền kinh tế chiếm đa số là nông nghiệp lạc hậu, hệ thống kinh tế Nhà nước chưa năng động, không tận dụng hết các nguồn lực tiềm năng vốn có. Thời gian chuyển đổi cơ cấu kinh tế chưa lâu còn mang nặng tính tập trung bao cấp nặng sức ì phó thác cho Nhà nước. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự tiếp thu chậm chạp và bảo thủ đã hạn chế rất đáng kể khả năng phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế trong nước vẫn mang vai trò chủ đạo và được Nhà nước bảo hộ nhưng trong thực tế các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh không hiệu quả trong thị trường thậm chí Nhà nước phải bù lỗ. Chủ trương của Đảng là phải đổi mới hệ thống quản lý kinh doanh, phương thức kinh doanh, tận dụng hết nguồn lực trí thức, tiếp cận và áp dụng triệt để kiến thức kinh tế phương Tây vào nền kinh tế Việt nam, buộc các nhà doanh nghiệp thực sự kinh doanh, đòi hỏi doanh nghiệp “sống” bằng chính khả năng của mình, gắn trách nhiệm sản xuất kinh doanh vào tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp. Bằng các văn bản pháp lý, nghị định, chỉ thị, cho phép phát triển các thành phần kinh tế vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Triển khai thí điểm đã cho thấy cổ phần hoá là một biện pháp tích cực nhằm cải tổ lại khu vực các doanh nghiệp Nhà nước. Tiếp đó là việc ra liên tiếp các nghị định Chính phủ hướng dẫn cụ thể quá trình bán cổ phần và phát triển cổ phiếu. Chia quyền sở hữu cho các thành viên, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiêu quả sản xuất, hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp. Với đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ỏ Việt Nam” em xin được một vốn ít hiểu biết của mình nói về việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta. Cách nhìn nhận vấn đề giải quyết nhằm hoàn thiện hơn cho việc thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước góp phần phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên do mới làm quen với công việc nghiên cứu viết đề án nên bài viết này không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự góp ý, hướng dẫn của các thầy cô. Chương i: Cơ sở lý luận của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có môth chủ sở hữu thành công ty cổ phần, tức là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu.Cổ phần hoá nói chung có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và tại các doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá là quá trình đa dạng hoá sở hữu tại doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông, tức là Nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không chỉ là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu các cổ đông, mà còn có cả hình thức doanh nghiệp nhà nước thu hút thêm vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần. 2. Cơ sở lý luận của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Cơ sở của việc xuất hiện hiện tượng này là: Thứ nhất, các doanh nghiệp Nhà nước phát triển tràn lan, lại không được tổ chức và quản lý tốt làm kết quả hoạt động của chúng yếu kém triền miên. Thứ hai, do hoạt động kém hiệu quả nên các doanh nghiệp Nhà nước đã trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Nhà nước phải thường xuyên sử dụng ngân sách trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt. Thứ ba, về nhận thức lý luận, có sự thay đổi quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước đến chỗ coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và vai trò tự điều tiết của cơ chế thị trường. Quan điểm này đã làm thay đổi tư duy kinh tế của các chính phủ, dẫn đến xu hướng đánh giá lại vai trò và hiệu quả kinh tế – xã hội của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp mà hầu hết các nước đều coi trọng, bắt nguồn từ sự thay đổi quan điểm nói trên. Thứ tư, sức hấp dẫn từ những ưu điểm của công ty cổ phần. Công ty cổ phần có sức sống mạnh hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn rõ rệt và vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế thị trường. Hình thức thực hiện chế độ sở hữu rất đa dạng, phong phú. Thước đo đúng đắn của các hình thức đó là tác dụng thu hút, tập hợp và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thực sự là một cuộc cách mạng triết để thay đổi cách tổ chức hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, thay đổi cơ bản mối quan hệ doanh nghiệp – Nhà nước và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng với hoạt động cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Chương II: quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Quá trình cổ phần doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Từ khi có chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và Chính phủ đến nay, quá trình cổ phần hóa chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn thí điểm cổ phần hoá, giai đoạn mổ rộng cổ phần hoá và giai đoạn thúc đẩy cổ phần hoá. Giai đoạn thí điểm cổ phần hoá (từ 6/1992 đến 4/1996) Sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986), thực hiện sự nghiệp đổi mới, Chính phủ đã ban hành một loạt Pháp lệnh, Nghị định nhằm thúc đẩy sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Trong Quyết định 21/HĐBT ngày 14-7-1987 về đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội, quyền tự chủ đối với doanh nghiệp Nhà nước, tại Điều 22 đã đề cập tới việc thí điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và giao cho Bộ Tài chính chủ trì. Tại thời điểm này, mặc dù chủ trương đúng đắn nhưng chưa thực hiện được. Đến đầu năm 1990, trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm đổi mới, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 về chủ trương thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện mô hình khoán, cho thuê xí nghiệp quốc doanh. Đến năm 1992, cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước có phần chững lại, lúng túng. Nhằm tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước và giải quyết các vấn đề nêu trên, ngày 8-6-1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra quyết định số 202/CT, chỉ đạo tiếp tục khai triển việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, thời gian này có thể được coi là cái mốc để nước ta bước vào giai đoạn thí điểm cổ phần doanh nghiệp Nhà nước. Đến 4-1996 sau hơn 5 năm kể từ khi có Quyết định 143/HĐBT cả nước có 5 doanh nghiệp Nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần: - Công ty đại lý liên hiệp vận tải cổ phần hoá xong 7-1993 - Công ty cơ điện lạnh cổ phần hoá xong 10-1993 - Nhà máy giầy Hiệp An cổ phần hoá xong 10-1994 - Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc - Công ty xuất nhập khẩu Long An cổ phần hoá xong 7-1995 Năm doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển sang công ty cổ phần đều là những doanh nghiệp Nhà nước mới được thành lập, có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong những lĩnh vực không quan trọng. Việc triển khai thí điểm cổ phần hoá còn quá chậm, không đạt yêu cầu mông muốn. Đây là giai đoạn khó khăn vì cơ chế vận hành của công ty cổ phần và cổ phần hoá là vấn đề rất mới ở Việt Nam. Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (từ 5/1996 đến 6/1998) Qua 4 năm thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy kết quả còn ít, nhưng đã có kinh nghiệm bước đầu cho việc mở rộng cổ phần hoá trong thời gian tiếp theo. Để đẩy mạnh cổ phần hoá, ngày 7-5-1996 Chính phủ ban hành Nghị định 28/Chính phủ với những quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Quyết định 202/Chính phủ. Nghị định 28/Chính phủ ra đời đã giải toả được một số vướng mắc gặp phải trong giai đoạn cổ phần hoá thí điểm. Lần đầu tiên các vấn đề như mục đích, yêu cầu, đối tượng, phương thức tiến hành cổ phần hoá, thủ tục chuyển đổi công ty thành công ty cổ phần, chế độ đối với doanh nghiệp cổ phần hoá và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá được thể hiện một cách có hệ thống, cụ thể hơn. Vì vậy, cổ phần hoá đã được các cấp,các ngành quan tâm hơn trong việc triển khai. Sau khi Nghi định 28/CP ra đời đã có hơn 200 doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố đăng ký thực hiện cổ phần hoá, chiếm trên 3% tổng số doanh nghiệp Nhà nước. Tính đến 6-1998, cả nước ta đã chuyển được 25 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cở phần. Kết quả trên cho thấy, cổ phần hoá bước đầu đã được mở rộng. Ngành công nghiệp và xây dựng có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất – 12 doanh nghiệp; ngành giao thông vận tải – 3 doanh nghiệp; ngành chế biến nông, lâm, thuỷ sản – 3 doanh nghiệp; ngành dịch vụ – 7 doanh nghiệp. Giai đoạn đoạn thúc đẩy cổ phần hoá (từ 7/1998 đến nay) Từ kinh nghiệm cổ phần hoá trong các giai đoạn trước, để hoàn thiện một bước về cơ chế, chính sách và đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, ngày 29-6-1998 Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thay thế cho các Nghị định và Nghị quyết trước đó. Chỉ trong 6 tháng cuối năm 1998 đã có 90doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, gấp 3 lần so với kết quả của cả thời gian trước đó. Năm 1999 được xem là một năm “bội thu” của cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đã cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp. Như vậy, sau 2 năm kể khi Nghị định 44/1998/CP ra đời đã có gần 400 doanh nghiệp cổ phần hoá, trong khi đó 8 năm trước chỉ cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp. Các đơn vị triển khai cổ phần hoá mạnh nhất là Hà nội (71 doanh nghiệp), thành phố Hồ Chí Minh (45 doanh nghiệp), Nam Định (22 doanh nghiệp), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (20 doanh nghiệp), v.v.. Có thể nói rằng 3 giai đoạn triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua là quá trình đi từ thử nghiệm đến triển khai và thúc đẩy nhằm tạo ra tốc độ cổ phần hoá theo hướng ngày càng nhanh hơn, quy mô cổ phần hoá ngày càng rộng rãi hơn. 2. Đánh giá chung tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thời gian qua Những thành tựu đã đạt được + Tiến độ cổ phần hoá bước đầu được cải thiện. + Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá: - Huy động được lượng vốn lớn, thay đổi phương thức quản lý, điều hành doanh nghiệp Nhà nước; tạo sự đồng tình ủng hộ cao của người lao động và các nhà đầu tư trong, ngoài nước. - Nâng cao tính tự chủ, đổi mới quản trị trong doanh nghiệp. - Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt. - Hình thành cơ chế phân phối mới ở các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện kinh tế thị trường. + Đối với Nhà nước: - Sở hữu Nhà nước bước đầu được cấu trúc lại theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. - Nhà nước không phải mất một khoản ngân sách để hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ hàng năm cho các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá như các thời kỳ trước đây. + Đối với người lao động: - Phát huy được vai trò làm chủ của người lao động trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. - Thu nhập của người lao động tăng lên. + Thu hút thêm lực lượng lao động xã hội. + Góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán. + Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. b. Những mặt chưa được và nguyên nhân. Những mặt chưa được: + Tốc độ tiến hành cổ phần hoá còn chậm. + Việc tiến hành cổ phần hoá không đông đều giữa các ngành và địa phương. + Nhiều mục tiêu của cổ phần hoá chưa đạt được - Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội vào đầu tư phát triển. - Mục tiêu tạo điều kiện để người lao động các doanh nghiệp cổ phần hoá có cổ phần, được mua cổ phiếu với giá ưu đãi. + Tài sản của Nhà nước bị thất thoát nhiều trong quá trình cổ phần hoá. + Tổ chức Đảng trong công ty cổ phần chưa được đổi mới về chức năng, nhiêm vụ, phương thức hoạt động nên lúng túng trong sinh hoạt, chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình. Nguyên nhân của những hạn chế: + Nguyên nhân khách quan - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp. - Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành. - Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ. + Nguyên nhân chủ quan - Nhận thức về vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường chưa thống nhất. - Chưa làm tốt việc tuyên truyền về chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và Chính phủ. - Đặt lợi ích cục bộ trên lợi ích quốc gia. - Tâm lý sợ mất việc làm của đại bộ phận người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước, vốn đã quen sống dựa vào chế độ bao cấp. - Việc điều hành triển khai cổ phần hoá còn chậm và lúng túng, một số cơ chế chính sách còn chưa thông thoáng, thiếu tính thực tế, thủ tục còn phiền hà. 3. Giải pháp để xúc tiến cổ phần hóa Nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới chúng ta cần làm tốt một số việc sau đây: - Do trong cổ phần hoá cũng có tư nhân hoá nên việc bán cổ phần cho các cá nhân là tất nhiên, do đó cần qui định tỷ lệ cổ phần bán cho người nước ngoài cho phù hợp để thu hút tối đa nguồn lực cho phát triển kinh tế. - Các cấp các ngành, các doanh nghiệp nhà nước cần quán triệt sâu sắc và có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước với tiến trình cụ thể cho từng năm của Chính phủ, từ đó triển khai thực hiện với phương trâm tích cực, vững chắc, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt. - Tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, trước hết là trong các doanh nghiệp Nhà nước về các chủ trương cổ phần hoá với những sửa đổi bổ sung về chế độ khuyến khích tạo sự quan tâm của toàn xã hội với chủ trương quan trọng. - Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm cho người lao động, tích cực giải quyết các khoản nợ của doanh nghiệp, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá. - Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới các Nghị định về cổ phần hoá để phù hợp với yêu cầu và những vấn đề đặt ra trong cổ phần hoá: từ đối tượng, chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động, đồng thời cần xem xét mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với nông dân, đảm bảo sự công bằng xã hội, có chính sách hỗ trợ những người có thu nhập thấp, giảm bớt chênh lệch giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp trong doanh nghiệp. - Chính phủ giao nhiệm vụ và phân cấp mạnh cho các bộ, ngành Trung ương và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố xử lý các vấn đề cụ thể nẩy sinh, giải quyết nhanh các yêu cầu không cần phải chờ đợi kéo dài. Các ngành, các địa phương cần tiến hành phân loại sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước do mình quyết định thành lập, phân loại thành: + Trước mắt là một số ít các doanh nghiệp nhà nước cần giữ 100% vốn Nhà nước hoặc có cổ phần chi phối mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tư vốn. + Các doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng làm ăn thua lỗ triền miêm thì cho thuê, sát nhập, bán, giao cho công nhân sử dụng hoặc phá sản. + Các doanh nghiệp còn lại không phụ thuộc qui mô, ngành nghề đều thuộc diện CPH với bước đi thích hợp. - Các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố chưa thành lập Ban Chỉ đạo cổ phần hoá cần khẩn trương thành lập ngay như các văn bản hướn dẫn của Trung ương. Riêng một số Bộ và các thành phố lớn có thành lập Ban Chỉ đạo cổ phần hoá hoạt động theo chế độ chuyên trách để giúp UBND thành phố và Bộ giải quyết các công việc về cổ phần hoá. - Hoàn thiện hệ thống Luật doanh nghiệp và các Luật khác có liên quan. Cần quán triệt các tư tưởng mới của Luật doanh nghiệp đến các cơ quan chức năng. Bởi vì các doanh nghiệp Nhà nước sau khi được chuyển đổi sẽ được điều chỉnh theo luật này, thế nhưng không ít các cơ quan chức năng vẫn còn sử dụng những qui định cũ đã lỗi thời để gây khó khăn cho các hoạt động của doanh nghiệp. - Tiếp tục đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, trình độ dân trí làm cơ sở cho cổ phần hoá đi lên. Trên đây là một số việc cần thiết để chúng ta đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của cổ phần hoá góp phần xây dựng một nền kinh tế phát triển, đứng vững trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, tránh xa nguy cơ tụt hậu, đảm bảo mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. kết luận Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình vô cùng khó khăn phức tạp vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm, hơn nữa lại không có con đường chung nào cho tất cả các nước tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Những thành công và những bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta thu được đã khẳng định cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Qua 8 năm kể từ ngày thí điểm CPH, đã có gần 500 DNNN chuyển thành Công ty cổ phần. Cùng với việc thiết lập được một hệ thống quản lý mới chúng ta đã có thêm những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập của đất nước. Niềm tin của dân với Đảng được củng cố một bước thể hiện ở chỗ: chúng ta đã huy động được nguồn vốn khá lớn trong dân dùng để đầu tư phát triển sản xuất, giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước khi mà liên tục phải bù lỗ cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Cơ chế mới được hình thành cũng là lúc ta dần xoá bỏ được những thói quen trong cơ chế cũ, tạo ra con người mới năng động, sáng tạo hứa hẹn một tương lai tươi sáng của đất nước sau này. Tuy nhiên, không chỉ có những kết quả tốt đẹp mà cả những thất bại, vướng mắc chúng ta gặp phải cũng không ít. Nhưng tin chắc rằng cùng với quyết tâm của Đảng, Chính phủ và sự ủng hộ của toàn dân thì Chương trình Cổ phần hoá nhất định sẽ thành công, hệ thống doanh nghiệp nhà nước sẽ khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần phát triển theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Cơ sở lý luận của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3 Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3 Cơ sở lý luận của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3 Chương II: Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 5 Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 5 Đánh giá chung tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 8 Giải pháp để xúc tiến cổ phần hoá doanh nghiệp 10 Kết luận 14 Phần phụ lục Tài liệu tham khảo 1. Ngô Quang Minh: Kinh tế Nhà nước Nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, NXB, CTQG, Hà nội, 2001. 2. Phan Thế Hải: Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước – tám năm nhìn lại, TcCS, số 22, 11/2000. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (các văn bản hiện hành), NXB, CTQG, Hà nội, 1998. Ngô Xuân Lộc: Cổ phần hoá một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp Nhà nước, TcCS, số 17, 1998. Tào Hữu Phùng: Cổ phần hoá nhiệm vụ quan trọng và bức bách, TcCS, số 13, 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0843.doc
Tài liệu liên quan