Lợi ích của CPH chưa thực sự được các DN thấu hiểu. Có ý kiến còn cho rằng nhiều giám đốc “sợ” cổ phần hoá. Còn nhiều giám đốc DNNN trong diện CPH chưa muốn làm, nêu nhiều lý do để xin trì hoãn, thậm chí còn xin rút tên. Họ muốn dựa vào “bầu sữa” Nhà nước, thua lỗ đã có nhà nước lo. Họ muốn giữ lại quyền lực DNNN để hưởng ưu đãi. Theo ý kiến của ông Trần Quốc Trị, chủ tịch HĐQT công ty cổ phần thực phẩm rau quả Cần Thơ: “Hiện nay hơn 50% giám đốc DNNN không muốn CPH, một phần do lớn tuổi, năng lực yếu kém, một phần do sợ mất chức, mất quyền lợi về kinh tế”. Còn theo ý kiến của ông Trần Xuân Lịch, Phó viện trưởng CIEM: Tiến độ CPH DNNN còn chậm đúng là do hiện nay có nhiều giám đốc DNNN còn e ngại, sợ CPH sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân. Riêng các tổng công ty còn sợ làm giảm doanh thu, vốn, tài sản, lợi nhuận và không còn thành viên lệ thuộc. Mặt khác khi tiến hành CPH, nhiều giám đốc hoang mang không biết với loại hình DN mới sẽ phải làm như thế nào.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam – Cái nhìn từ hiện tại và cho tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ sở tự nguyện.
Trong giai đoạn thí điểm này, Việt Nam chưa bán cổ phần cho thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.
Các DNNN đã CPH tính đến thời điểm 31/12/1995
TT
Tên DN
Ngày CPH
Tổng số vốn (triệu đồng)
Cơ cấu vốn (%)
NN
CNVC trong DN
Cổ đông ngoài
1.
Đại lý liên hiệp vận chuyển
1/07/93
6.200
18
33,1
48,9
2.
Cơ điện lạnh TPHCM
1/10/93
16.000
30
50
20
3.
Giấy Hiệp An
1/10/94
6.769
30
50
20
4.
Chế biến hàng XK Long An
1/07/95
3.540
30,2
48,6
21,2
5.
Cty chế biến thức ăn gia súc
1/07/95
7.912
30
50
20
Nguồn: Ban chỉ đạo TW đổi mới doanh nghiệp
1.3. Những thành tựu đã đạt được
1.3.1. Về phía DN
Sau khi CPH, hoạt động của các DN vẫn giữ được ổn định và có chiều hướng phát triển tốt. Chúng ta có thể căn cứ vào các số liệu cụ thể để chứng minh cho điều đó.
Công ty CP Đại lý Liên hiệp vận chuyển sau 3 năm thực hiện CPH:
Tổng số lao động tăng từ 90 người (năm 1993) lên 285 người (tính đến tháng 6/1996)
Doanh thu năm 1995 tăng hơn 4 lần so với năm 1993.
Lãi cổ tức: tăng 30%/năm.
Công ty Cơ điện lạnh thành phố HCM
Tổng số lao động tăng từ 334 người (1993) lên 494 người năm 1995.
Doanh thu tăng gần 3 lần.
Lãi cổ tức: 24%/năm.
CTCP Giấy Hiệp An:
Tổng số lao động tăng từ 403 người lên 430 người.
Doanh thu tăng 3 lần.
Lãi cổ tức đạt 47,6%/năm.
Như vậy, xu thế chung là hiệu quả sản xuất tăng lên rõ rệt.
1.3.2. Về phía nhà nước
Nhà nước không những giảm được những khoản bao cấp trước đây cho DN mà còn tăng thu về thuế và lợi nhuận ở các DN này. Về mặt quản lý, nhà nước vẫn nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu nhất định để kiểm soát DN nhưng với tư cách là một cổ đông lớn, còn DN không chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ quản.
1.4. Những mặt còn tồn tại
1.4.1. Hiện tượng CPH “tự phát” ở một số doanh nghiệp
Một số DNNN đã tự động áp dụng các hình thức huy động vốn như vay trả lãi phụ thuộc và kết quả kinh doanh của DN (tương tự như trả lợi tức cổ phần). Người cho vay được hưởng lãi suất và chịu trách nhiệm giống như các cổ đông mặc dù các DN này không tổ chức và hoạt động theo luật công ty. Một số khác còn sử dụng quỹ phúc lợi để đầu tư sản xuất, hạch toán riêng và coi đó là phần vốn góp cổ phần của công nhân viên chức. Thực chất đây là hình thức CPH phi chính thức. Hình thức này chủ yếu áp dụng trong nội bộ công nhân viên chức của DN. Nhìn bề ngoài thì có vẻ là tích cực vì vừa thu hút được vốn cổ phần, vừa đảm bảo việc làm cho người lao động. Nhưng nó lại tiềm ẩn nhiều điều rất tiêu cực: Lạm dụng để chuyển lợi ích của DN sang lợi ích của công nhân viên chức (CNVC) góp vốn cổ phần. CNVC chỉ quan tâm, bảo vệ những gì “sát sườn” hay có liên quan đến cổ phần của họ. Hình thức này chỉ thích hợp với những bộ phận làm ăn có triển vọng trong DN, ở những bộ phận không có triển vọng thì ít có khả năng thu hút vốn cổ phần của CNVC.
1.4.2. CPH tiến hành quá chậm chạp
Số lượng DN CPH sau 4 năm là quá chậm chạp. Điều này có thể lý giải được bởi nhiều nguyên nhân:
Chủ trương và các văn bản pháp luật chưa đủ cụ thể, chưa đảm bảo chắc chắn để các DN có đủ niềm tin rằng CPH là đúng đắn và có lợi. Chẳng hạn, sau khi có CPH thì có còn CNXH nữa không? DN nào thuộc diện CPH, DN có thực sự được hưởng quyền lợi và ưu đãi như trước khi CPH hay không, các bước tiến hành CPH cũng chưa rõ ràng.
Chưa có sự ủng hộ từ phía CNVC cũng như cán bộ lãnh đạo DN do lo sợ mất việc làm, giảm thu nhập, mất địa vị và điều quan trọng là mất sự bao cấp của nhà nước.
Thiếu kinh nghiệm trong CPH, các vấn đề kỹ thuật CPH phức tạp do chế độ kế toán không đầy đủ, việc định giá tài sản, định giá đất, giải quyết các vấn đề khi CPH còn gặp nhiều khó khăn do trình độ nhận thức và hiểu biết của DN và xã hội còn hạn chế.
Song giai đoạn này đã để lại nhiều bài học quý giá cho việc xây dựng các chế độ, chính sách, chỉ đạo thực hiện công tác CPH cho giai đoạn sau.
Giai đoạn 2 (từ 5/1996 đến 5/1998)
Thời kỳ mở rộng công tác CPH
Cơ sở pháp lý
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP ngày 07/05/1995. Lần đầu tiên đã có quy định một cách hệ thống từ mục đích, yêu cầu, đối tượng đến phương thức tiến hành, chế độ đủ với người lao động. Ngoài ra còn có:
Nghị định 25/CP ngày 26/03/1996 sửa đổi một số điểm của Nghị định 28/CP.
Quyết định 548/TTg ngày 13/08/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập các Ban chỉ đạo CPH.
Quyết định 01/CPH ngày 04/09/1996 của Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về CPH, về ban hành quy trình chuyển DNNN thành CTCP.
Thông tư 50/TC-TCDN ngày 30/08/1996 của bộ tài chính hướng dẫn vấn đề tài chính theo nghị định 28/CP.
Thông tư 17/LĐTBXH-TT ngày 07/09/1996 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn chính sách với người lao động.
Tháng 12/1997, Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng đã ra nghị quyết, trong đó nêu rõ định hướng và giải pháp CPH một bộ phận DNNN “Phân loại DN công ích và DN kinh doanh; xác định danh mục loại DN cần có 100% vốn nhà nước, loại DNNN cần giữ tỷ lệ cổ phần chi phối; loại DNNN chỉ cần giữ cổ phần ở mức thấp” và “Đối với DNNN không cần giữ 100% vốn NN, cần lập kế hoạch CPH để tạo động lực phát triển thúc đẩy làm ăn có hiệu quả”.
Ngày 19-20/02/1998 Bộ tài chính đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức một cuộc hội thảo nhằm mục đích thúc đẩy quá trình CPH các DNNN ở Việt Nam trên quy mô lớn.
Ngày 20/04/1998 có chỉ thị 20/1998/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN.
Trong đó DNNN được phân thành 3 nhóm:
Các DNNN quan trọng cần duy trì hoạt động theo luật DNNN.
Các DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu.
Các DNNN thua lỗ kéo dài.
Các DNNN thuộc nhóm (2) là thuộc diện CPH. Chính phủ yêu cầu từng Bộ, địa phương và Tổng công ty 901 trong kế hoạch CPH phải lựa chọn ít nhất 20% số DNNN không cần duy trì 100% vốn nhà nước để thực hiện CPH.
Về phương thức tiến hành: đã mở rộng ra 3 hình thức:
Giữ nguyên giá trị hiện có của DN, chỉ phát hành thêm cổ phiếu.
Bán một phần DNNN.
Tách một bộ phận DNNN để tiến hành CPH.
Đối tượng: mở rộng CPH không chỉ có các DNNN vừa và nhỏ mà còn cả DNNN lớn và vốn trên 10 tỷ đồng mà trong đó nhà nước không cần nắm 100% vốn và phải có phương án kinh doanh hiệu quả.
Những nhận định chung
Trong 2 năm chúng ta đã CPH được 25 DN. Nhìn chung tiến độ CPH vẫn còn chậm. Chỉ tiêu năm 1998 phải CPH được 150 DN chưa được hoàn thành.
Trong đó phải kể đến TP Hồ Chí Minh - đơn vị dẫn đầu cả nước về CPH. Trong năm 1996, thành phố đã mở lớp tập huấn cho trên 100 cán bộ thuộc DNNN về CPH, tại các lớp chuyên viên kinh tế đã hướng dẫn tỷ mỷ về NĐ 28/CP và lập ra các DNNN sẽ CPH, kèm theo các hướng dẫn cụ thể. Riêng Hà Nội, trong năm 1997 chỉ CPH được 1 DN, chậm nhất trong cả nước.
Danh mục các DNNN tiêu biểu đã CPH ở giai đoạn này:
TT
Tên DN
Ngày CPH
Tổng số vốn (triệu đồng)
Cơ cấu vốn (%)
NN
CNVC trong DN
Cổ đông ngoài
1.
Cty xe khách Hải Phòng
1/09/96
2.915
30
70
0
2.
Khai thác đá Đồng Giao
1/09/96
3.200
49,8
30,7
19,5
3.
Cty đầu tư sản xuất TM
1/07/96
356
0
100
0
4.
XN tàu thuyền Bình Định
1/07/96
1.150
51
19
30
5.
XN ong mật TP HCM
1/07/96
2.500
30
18,5
51.5
6.
Khách sạn Sài Gòn
1/07/96
1.800
40
40
20
7.
Tập thể sản xuất hoá mỹ phẩm SG
1/01/97
6.400
35
50
15
8.
Cty CBXK thuỷ sản Minh Hải
1/11/97
10.000
51
29
20
9.
XN sơn Bạch Tuyết
1/11/97
20.000
35
45
20
10.
Cty bông Bạch Tuyết
5/11/98
11.370
30
57
13
11.
Cty vận tải thuỷ Hải Dương
1/01/98
2.165
45,7
54,3
0
12.
Cty khai thác DVTS Đà Nẵng
1/01/98
2.165
45,7
54,3
0
13.
Cty cáp và vật liệu BCVT
1/01/98
120.000
49
10
41
14.
CTCP Thanh Tâm-TT Huế
10/4/98
1.800
22,7
28,2
49,1
15.
CTCP gạch ngói Phổ Phong
1/05/98
875
37,5
31,25
31,25
16.
CTCP chăn nuôi Di Linh LĐ
1/01/98
1.200
58
32
10
17.
CTCP Du lịch Bảo Lộc LĐ
1/01/98
4.300
23
12
65
18.
Cty cầu xây (Bộ XD)
1/04/98
6.000
10
…
…
Nguồn: Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại DN
Những mặt làm được
Về phía doanh nghiệp
CPH đã thay đổi được phương thức quản lý: Chế độ bình bầu, chọn giám đốc, HĐQT các chức danh lãnh đạo của DN đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi và nghĩa vụ gắn với nhau hơn. Phương thức quản lý theo kiểu quan liêu, bao cấp, dùng mệnh lệnh hành chính được hạn chế tối đa. Trong các DN mà nhà nước không có cổ phần chi phối, kiểu quản lý cũ không còn tại nữa.
Tình trạng lãng phí của công, lãng phí tài sản của DN giảm một cách tối thiểu: Điều đó xuất phát từ chỗ DN thuộc quyền sở hữu của các cổ đông nên họ phải kiểm soát việc thu chi chặt chẽ hơn thông qua HĐQT và Ban kiểm soát của công ty. Trong điều lệ công ty quy định rất rõ các khoản chi, nhất là chi tiếp khách. Tiếp nhận, phong bao, chi phí hoa hồng không còn nữa. Tình trạng “vô chủ”, “của chùa” trong DNNN được khắc phục.
Người lao động phấn khởi, tinh thần làm việc được củng cố: Động lực kinh tế đã tạo nên một không khí làm việc mới, kích thích sự sáng tạo cá nhân vì quyền lợi của họ gắn liền với quyền lợi của công ty. Ngoài thu nhập bình thường, người lao động còn nhận được thu nhập qua cổ tức thường là trên 1,6%/tháng, cao hơn lãi xuất ngân hàng.
Các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ đáng kể: Theo tổng kết 13 doanh nghiệp cổ phần đến giữa năm 1997, ban CPD DNNN đã có đánh giá như sau:
Vốn bình quân tăng: 45%/năm.
Doanh thu bình quân tăng: 56,9%/năm.
Lợi nhuận tăng bình quân: 70,2%/năm.
Nộp NSNN tăng bình quân: 98%/năm.
Việc làm tăng bình quân: 46,8%/năm.
Thu nhập người lao động tăng bình quân: 29%/năm.
Tỷ suất lợi nhuận trên DT tăng: 14,1%/năm.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tăng: 74,6%/năm.
Về phía nhà nước
Tài sản của nhà nước được đánh giá lại chính xác hơn: Lâu nay, tài sản thuộc các DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao tích nộp rất thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất. Thông qua việc CPH 18 DN trong giai đoạn trước 01/01/1998, tổng giá trị đánh giá lại đã tăng 48,8% so với tổng giá trị hạch toán.
Nhà nước tăng nguồn thu NS: thông qua tiền bán cổ phần và tiền lợi tức. Từ đó có thể đầu tư vào những lĩnh vực và vào các DN khác cần thiết hơn.
Tư tưởng CPH đã được thống nhất hơn: Cán bộ lãnh đạo cũng như CNVC hiểu được mục tiêu, lợi ích của chủ trương CPH nhiều hơn, tốt hơn so với trước kia.
Những mặt còn tồn tại
Về phía doanh nghiệp
Các DN nhìn chung chưa có phương án phát triển SXKD hiệu quả, chưa tìm ra hướng đầu tư mới: Nhiều CTCP thừa vốn không biết dùng vào việc gì và phải cho vay vốn. Trong khi đó, những DNCP có vốn lớn thì vốn huy động thêm để mở rộng sản xuất lại chiếm tỷ lệ quá thấp, vì tâm lý của cổ đông cũ là không muốn chia sẻ quyền lực.
Tập thể ban lãnh đạo nhiều DN chưa thực sự ủng hộ CPH. Họ sợ mất quyền chức, mất các khoản “bồi dưỡng” …Nhiều người chưa quen với các cơ chế mới sau khi CPH nên sợ không thích nghi được với cơ chế thị trường, không đủ sức đứng vững và cạnh tranh trên thương trường. Còn CNVC yếu kém về trình độ thì lo mất việc làm.
Kiểm toán chưa thực hiện chức năng của mình. Chi phí kiểm toán cao, chỉ kiểm toán được hạch toán của DN, còn chưa xác định đúng giá trị DN. Vấn đề đánh giá lợi thế và bất lợi thế thực hiện cũng chưa tốt. Thêm vào đó, một số DN ở miền Nam còn chưa có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu nhà xưởng, đất đai đã gây thêm những “ách tắc” cho quá trình xác định giá trị DN này.
Về phía nhà nước
Tiến trình CPH diễn ra vẫn chậm. Số lượng DN được CPH còn quá ít, NĐ 28/CP chưa hoàn thiện để đẩy nhanh CPH. Nhiều vấn đề cụ thể chưa được nêu ra: Danh mục các DNNN không CPH hay DNNN cần được giữ cổ phần khống chế chưa rõ; các định hướng bắt buộc thực hiện CPH đối với các DN còn lại chưa có. Vấn đề định giá DN, các quy định về chế độ đối với DN sau CPH còn nhiều bỏ ngỏ. Vẫn có sự phân biệt đối xử so với DNNN không hoặc là chưa CPH.
Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ, thực hiện đúng quyền chủ sở hữu của mình. Chính phủ chưa kiên quyết, chưa coi CPH là nhiệm vụ bắt buộc mà lại chờ sự tự nguyện của các DN, các địa phương và các bộ chủ quản. Chủ trương cổ phần hoá dàn đều, không tập trung vào các vùng trọng điểm.
Việc tổ chức thực thu chưa rõ ràng. Ban cổ phần gồm nhiều tổ chức như: Bộ tài chính, tổng Liên đoàn lao động, Ban tổ chức chính phủ, Bộ công nghiệp, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Uỷ ban chứng khoán nhà nước nên việc triệu tập một cuộc họp để bàn chủ trương đã khó, nhưng việc thống nhất ý kiến càng khó hơn. Một số văn bản chỉ đạo chưa cụ thể, chưa thể khẳng định trách nhiệm rõ ràng của từng Bộ, từng địa phương.
Việc tuyên truyền, vận động đối với CNVC trong CTCP chưa tốt. Thực tế, chúng ta đã ưu đãi tốt nhất cho người lao động sau khi CPH nhưng vẫn chưa nhận được sự thoả mãn và ủng hộ hoàn toàn của họ. Bên cạnh đó, người sân chưa quen với việc mua bán các cổ phiếu nên khó mà phát triển được thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, qua giai đoạn này, chúng ta đã thu được nhiều bài học quý giá để CPH diễn ra tốt hơn trong giai đoạn sau.
Giai đoạn 3 (từ tháng 07/1998 đến nay)
Đẩy mạnh cổ phần hoá
3.1. Cơ sở pháp lý
Ngày 29/06/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/CP về CPH. NĐ này đã mở rộng hơn các chế độ cho công tác CPH, đã xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, nhà nước nắm cổ phần đặc biệt hoặc chi phối, không hạn chế quy mô DN CPH, phân cấp nhiều hơn thẩm quyền quyết định CPH.
Cùng ngày 29/06/1998, chính phủ ra quyết định số 111 thành lập Ban đổi mới quản lý DN TW trên cơ sở hợp nhất hai ban chỉ đạo TW về sắp xếp DNNN và Ban chỉ đạo TW CPH với đại diện các Bộ liên quan. Ngoài ra còn có văn bản của TW hướng dẫn các Bộ thành lập ban đổi mới DN bộ do 1 thứ trưởng làm trưởng ban, ở các tổng công ty do chủ tịch HĐQT làm trưởng ban.
Quy trình CPH đã được đổi mới theo hướng dẫn giảm bớt các khâu, các thủ tục không cần thiết. Một đề án CPH sẽ được hoàn thành trong vòng thời gian từ 4-5 tháng so với bình quân 27 tháng 1 đề án từ năm 1997 trở về trước. Nội dung cụ thể được quy định chi tiết trong Công văn 3395/CP-ĐMDN ngày 29/08/1998 của ban đổi mới quản lý DN TW.
Về vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành CTCP, ngày 18/07/1998, bộ tài chính đã ra thông tư số 104/1998/TT-BTC. Đến ngày 19/08/1998, Bộ tài chính đã có công văn số 3138TC/TCDN hướng dẫn sửa đổi một số điểm trong thông tư trên.
Về phương thức tiến hành: bên cạnh 3 hình thức CPH đã nêu trong NĐ 28/CP còn thêm hình thức bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại DN để chuyển thành CTCP.
Đối tượng: là tất cả các DNNN mà nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư, không phân biệt quy mô vốn và lao động.
3.2. Một số kết quả trên thực tế
Năm 1998 được mệnh danh là “năm của cổ phần hoá”. Tuy chưa đạt tới chỉ tiêu đề ra là 150 DN nhưng số DNCP đã tăng nhanh. Đã có đến 5 bộ, 27 tỉnh, thành phố trực thuộc TW và 5 tổng công ty nhà nước có Dn CPH. Tính đến ngày 31/12/1998 cả nước đã có 116 DN được CPH.
Đến hết năm 1998, các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc phân loại và lập đề án sắp xếp DNNN. Hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã hoàn thành việc phê duyệt đề án và đã xây dựng được số DNNN chuyển sang công ty CP đến hết năm 2000. Riêng thành phố Hà Nội, năm 1998 là một năm thành công, đã thực hiện CPH được 30 DNNN, chiếm 25% số DNNN do các tỉnh thành phố quản lý và chiếm 32% tổng số DNNN được CPH.
Năm 1999, chỉ tiêu đặt ra là phải CPH được 400 DNNN. Trong 6 tháng đầu năm 1999, chúng ta đã CPH được 70 DN và ngày càng có nhiều DNNN lớn tham gia vào CPH như tổng công ty xăng dầu, Hãng hàng không Việt Nam. Trong thời gian này đã có 4 doanh nghiệp bán cổ phiếu cho người nước ngoài: Công ty cổ phần cơ điện lạnh, CTCP chế biến XK Long An, CTCP đồ hộp Hạ Long và công ty may Bình Minh. Trong đó, công ty may Bình Minh đã bán cho công ty của Nhật và Mỹ 36.000 cổ phần trên tổng số 180.000, trị giá 3,6 tỷ đồng, bằng 20% vốn điều lệ của CTCP.
Sau khi CPH, bình quân các DN có:
Doanh thu tăng 2,3 lần
Lợi nhuận sau thuế tăng 2,5 lần
Nộp NSNN tăng 2,5 lần
Cổ tức bình quân đạt 2 – 3%/ tháng
Tính đến năm 2001, cả nước có 700 doanh nghiệp CPH, với tổng số vốn huy động là 3.000 tỷ đồng. Nhìn chung các DNNN sau khi CPH đều làm ăn có lãi, tỷ lệ vốn của nhà nước trong vốn điều lệ cũng tăng tương ứng.
Ví dụ điển hình như công ty cao su Kim Đan, tại thời điểm cổ phần hoá vốn nhà nước có 700 tỷ đồng (tương ứng với 10% vốn điều lệ), đến năm 2000 đã lên tới 1.500 tỷ đồng (chiếm 7.14% vốn điều lệ). Tương tự như trường hợp của công ty cổ phần Cơ điện lạnh Ree, vốn nhà nước khi CPH là 4,8 tỷ đồng, đến năm 2000 đã tăng lên 15 tỷ đồng. Nhìn chung, sau CPH doanh thu của các doanh nghiệp tăng khoảng 42,5%/năm; lợi nhuận trước thuế tăng 125%/năm; nộp ngân sách tăng 70,2%; chia cổ tức từ 6-12%.
Tính đến 31/12/2002, cả nước đã CPH được 920 DNNN. Theo mục tiêu, phấn đấu đến năm 2005 cổ phần hoá được 1.319 doanh nghiệp.
Những thành tựu trong tiến trình cổ phần hoá DNNN ở từng giai đoạn đã được liệt kê khá đầy đủ ở mục 1, 2, 3 phần II. Tuy nhiên nếu chỉ nhìn thấy toàn thành tựu và ưu điểm mà không thấy được những thiếu sót của quá trình này, thì cũng đồng nghĩa với việc: ta mới chỉ nhìn nhận vấn đề ở khía cạnh lung linh, huyền ảo của nó. Điều này cũng tương tự với vấn đề: ta chưa thể nhìn nhận, đánh giá quá trình CPH một cách biện chứng, toàn diện, và như vậy mong muốn đưa ra được những giải pháp đẩy nhanh tiến trình CPH, đưa nước ta tiến nhanh trên con đường phát triển tăng tốc là hoàn toàn mơ hồ và phi thực tế. Bất cứ một điều gì cũng có 2 mặt và tiến trình CPH ở Việt Nam ta cũng vậy. Những mặt tồn tại đó sẽ được trình bày kỹ ở phần sau.
Những mặt tồn tại xét chung trong tiến trình CPH
từ năm 1992 đến nay
4.1. Vấn đề nhận thức tư tưởng vẫn còn nhiều hạn chế.
Lợi ích của CPH chưa thực sự được các DN thấu hiểu. Có ý kiến còn cho rằng nhiều giám đốc “sợ” cổ phần hoá. Còn nhiều giám đốc DNNN trong diện CPH chưa muốn làm, nêu nhiều lý do để xin trì hoãn, thậm chí còn xin rút tên. Họ muốn dựa vào “bầu sữa” Nhà nước, thua lỗ đã có nhà nước lo. Họ muốn giữ lại quyền lực DNNN để hưởng ưu đãi. Theo ý kiến của ông Trần Quốc Trị, chủ tịch HĐQT công ty cổ phần thực phẩm rau quả Cần Thơ: “Hiện nay hơn 50% giám đốc DNNN không muốn CPH, một phần do lớn tuổi, năng lực yếu kém, một phần do sợ mất chức, mất quyền lợi về kinh tế”. Còn theo ý kiến của ông Trần Xuân Lịch, Phó viện trưởng CIEM: Tiến độ CPH DNNN còn chậm đúng là do hiện nay có nhiều giám đốc DNNN còn e ngại, sợ CPH sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân. Riêng các tổng công ty còn sợ làm giảm doanh thu, vốn, tài sản, lợi nhuận và không còn thành viên lệ thuộc. Mặt khác khi tiến hành CPH, nhiều giám đốc hoang mang không biết với loại hình DN mới sẽ phải làm như thế nào. Khi là DNNN, mỗi quyết định của giám đốc thường theo công thức chung mà nhiều DNNN khác đã làm, có thể yên tâm vì đằng sau mình còn có Tổng công ty, có Sở, có Bộ và Chính phủ. Nay chuyển qua DNCP, giám đốc phải tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình, mà những quyết định ấy ảnh hưởng đến hàng ngàn cổ đông tham gia góp vốn, trong đó có nhiều công nhân đang trực tiếp làm việc tại DN. Đây là một điều không dễ dàng đối với giám đốc quen làm giám đốc DNNN. Chính nỗi sợ hãi này mà đến nay nhiều doanh nghiệp vẫn án binh bất động thậm chí còn xin rút khỏi danh sách thuộc diện CPH.
Còn đối với người dân, họ còn hiểu biết một cách mơ hồ về CPH và lý do tại sao phải CPH. Người dân có vẻ tin tưởng nhiều hơn vào lãi suất tiết kiệm, đối với họ việc bỏ tiền đầu tư vào mua cổ phiếu hay trái phiếu của một CTCP làm ăn có hiệu quả để thu lãi cổ tức cao là một sự lựa chọn còn khá mới mẻ. Đó chính là bức tường ngăn cản việc thu hút vốn của các DNNN sau khi CPH.
4.2. Những tồn tại trong chính sách của nhà nước
4.2.1. Chính sách đối với người lao động
Nghị định 44/1998/NĐ-CP đã mở rộng mức ưu đãi cho người lao động tới mức 20% giá trị vốn nhà nước. Giá trị ưu đãi này thực hiện thông qua bán giảm giá tới 30% so với giá trị cổ phần thường và những cổ phần này hoàn toàn được thừa kế và chuyển nhượng. Tuy vậy lại nảy sinh vấn đề là chính sách ưu đãi mới chỉ đáp ứng được một phần nguyện vọng của người lao động: Đó là đảm bảo sự công bằng song chưa đảm bảo cho người lao động thực hiện được. Trên thực tế, người lao động ở DN đa phần là người nghèo, không có hoặc không đủ tiền để mua cổ phần mà người lao động lại chỉ được hưởng những ưu đãi đó khi tham gia mua cổ phần nên cơ hội được ưu đãi là rất hạn chế. Như vậy nếu ai đó không thuộc diện người lao động nghèo nhưng lại không có tiền mua cổ phần thì họ hoàn toàn không được hưởng những ưu đãi từ phía nhà nước.
Đối với người lao động nghèo, nhà nước có những ưu đãi đặc biệt. Tuy nhiên, số lượng cổ phần ưu đãi này rất nhỏ, chỉ chiếm có 20% tổng số cổ phần nhà nước bán ưu đãi cho người lao động, có nghĩa là chỉ 4% số vốn nhà nước tại DN. Đáng chú ý là còn nhiều khó khăn trong việc xác định tiêu chí người nghèo để giải quyết chính sách ưu đãi.
Tuy nhiên, một trong những vấn đề đáng quan tâm hiện nay là sự phân hoá giàu nghèo trong người lao động ở các CTCP. Trong cùng một DN, có người sở hữu từ 3.000 – 4.000 cổ phần, nhưng cũng có người chỉ có 15-20 cổ phần, thậm chí có người không có cổ phần nào, dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về cổ tức, làm cho sự phân hoá ngày càng sâu sắc.
Về vấn đề việc làm
Nghị định 44/CP đã quy định : DN tiến hành CPH có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng hết số lao động hiện có tại DN… Sau 12 tháng, kể từ khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức sản xuất kinh doanh, thay đổi công nghệ, dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với những người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của chính phủ”. Điều này có nghĩa là họ chỉ được tiếp tục làm việc ổn định trong vòng 12 tháng, còn sau đó tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của DN. Rõ ràng điều này chưa đủ sức thuyết phục đối với họ. Điều mà người lao động quan tâm hơn hết là một việc làm ổn định thì chính sách của nhà nước lại chưa đáp ứng được. Thử hỏi liệu người lao động có thích CPH khi họ biết rằng mình sẽ bị thất nghiệp bất cứ lúc nào. Mặc dù trên thực tế, hầu hết ở các DNNN đã CPH đều có số lượng lao động tăng lên nhưng điều đó không có nghĩa là toàn bộ số người lao động của DNNN trước CPH hiện vẫn đang có việc làm, nhưng biết đâu trong thời gian tới họ sẽ bị mất việc làm? Đây chính là vấn đề mà chủ trương của nhà nước chưa giải quyết được.
4.2.2. Những tồn tại trong các quy định liên quan đến vấn đề tài chính.
Thứ nhất là chưa có cơ chế xử lý dứt điểm nợ tồn đọng trước khi CPH, đặc biệt những khoản nợ đã tồn đọng trong nhiều năm, gây ảnh hưởng đến tình hình tài chính của DN và quyền lợi của các cổ đông.
Thứ hai là nợ và tài sản được loại trừ khi xác định giá trị DN, nếu chưa xử lý được giao DN bảo quản, dẫn đến phải bố trí mặt bằng, kho tàng để cất giữ, chi phí vì thế bị tăng lên. Hơn thế nữa, hoạt động định giá DN được tiến hành theo cơ chế Hội đồng còn thiếu tính chuyên nghiệp và mang nặng tính cảm quan, thoả hiệp; việc khống chế quyền mua cổ phần còn chưa hợp lý; cơ chế bán cổ phần thiếu công khai, minh bặch. Ngoài ra còn có nhiều khía cạnh mà chủ trương của nhà nước chưa rõ ràng. Ví dụ phần góp vốn liên doanh của DN CPH không được hướng dẫn cụ thể trong trường hợp CPH cả phần vốn DN góp vào liên doanh. Do đó ảnh hưởng đến giá trị của DN, đến các nhà đầu tư và phần vốn góp của nhà nước. Thực tế cho thấy việc xác định giá trị DN là khâu rắc rối và mất nhiều thời gian nhất dẫn đến tình trạng chậm trễ trong tiến trình CPH
Thứ ba là do chưa quy định rõ điều kiện nào DN được tăng, giảm hoặc điều chỉnh cơ cấu vốn điều lệ, nên trong thực tế xảy ra tranh chấp giữa thành viên HĐQT và các cổ đông. Ngoài ra còn có những trường hợp DN mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối có nhu cầu phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn, nhưng về phía nhà nước lại không muốn tăng vốn nắm giữ nhằm giữ cơ cấu vốn ban đầu.
4.2.3. Về mặt thể chế
Các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà hoạch định chính sách đều thống nhất rằng; vướng mắc không nhiều nhưng CPH vẫn chậm là do thể chế. Theo bà Phạm Chi Lan, phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, lâu nay ai cũng công nhận chủ trương CPH là quan trọng, cần đẩy mạnh, nhưng hầu như mọi người đều chưa thông là cái gì nhà nước sẽ nắm, cái gì hoàn toàn mở, nên ít ai dám liều mạng xung phong.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nguyên nhân sâu xa làm cho tiến độ CPH chậm là vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và DNCPH. Theo ý kiến của bà Phạm Chi Lan: “Chừng nào chưa có một môi trường kinh doanh bình đẳng, chừng nào DNNN còn được ưu đãi thì không DN nào muốn từ bỏ đặc quyền để chuyển sang một môi trường kinh doanh gian nan hơn”. Nhiều giám đốc DN cho biết, ngoài các khó khăn gặp phải khi tiếp cận nguồn vốn, đất đai thì thái độ phân biệt đối xử của các cơ quan hành chính, công quyền cũng khiến họ phải nản lòng. Đơn cử một ví dụ rất nhỏ, rất đời thường là giám đốc DN cổ phần dễ gặp rắc rối với cơ quan giao thông hơn là giám đốc DNNN, chỉ vì các giám đốc DN CPH đi xe…biển trắng. Chỉ sự so sánh nhỏ thôi cũng đủ thấy sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế vẫn chưa hết nặng nề.
Nhìn r
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72539.doc