Qua thực tế hoạt động, các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông (trong đó có cổ đông Nhà nước và người lao động) cỏ đông vừa được hưởng cổ tức ở mức cao, vừa được tăng giá trị vốn góp tại công ty. Nhà nước ngoài việc được tăng trưởng vốn góp, được chia cổ tức, các khoản nộp Ngân sách Nhà nước cũng tăng nhanh. Tuy nhiên cho tới nay quá trình cổ phần hoá còn diễn ra khá chậm chạp, chưa đạt được chỉ tiêu mà Chính phủ đã đề ra, có thể đề cập tới một số nguyên nhân của việc thực hiện cổ phần hoá còn chậm chạp như sau:
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o đến nay công ty cổ phần là hình thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh được các nhà tư bản ưa chuộng nhất nên nó được hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển.
Sự phát triển của kinh tế thị trường tất yếu làm ra đời và phát triển các loại hình thị trường, trong đó có thị trường vốn. Nguyên nhân ra đời và phát triển của thị trường vốn là do đặc điểm của sự vận động vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông không ăn khớp với nhau về không gian và thời gian. Trong quá trình đó, có những doanh nghiệp thừa vốn (vốn tạm thời nhàn rỗi, chưa sử dụng đến) nhưng lại có những doanh nghiệp đang cần vốn trong kỳ kinh doanh của mình để mở rộng hoạt động kinh doanh, đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, trang thiết bị. Hơn thế nữa, trong các tầng lớp dân cư có một bộ phận không sử dụng hết ngay thu nhập của mình mà để dành sử dụng cho những mục đích khác của đời sống, tức là có một khoản tiền nhàn rỗi, ngược lại một bộ phận dân cư khác lại cần tiền cho nhu cầu chi tiêu, tức là thiếu vốn. Đối với những doanh nghiệp và bộ phận dân cư có tiền nhàn rỗi, với tư cách là chủ sở hữu tiền tệ họ muốn tiền của mình sinh lời, ngược lại đối với những doanh nghiệp và bộ phận dân cư cần sử dụng vốn trong một thời gian nhất định, họ cũng sẵn sàng chấp nhận trả một số tiền, tức là chi phí của việc sử dụng vốn. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua hình thức tín dụng. Sự ra đời và phát triển của tín dụng là kết qủa tất yếu của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng có vai trò to lớn trong quá trình cạnh tranh, làm giảm chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng còn có vai trò động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần bởi vì:
Một là, việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
Hai là, thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân ngân hàng đảm nhận.
Như vậy về mặt lịch sử cũng như về mặt logic, tín dụng có trước khi xuất hiện công ty cổ phần, tín dụng là cơ sở trực tiếp, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Tuy nhiên công ty cổ phần không đồng nhất với các hình thức tín dụng. Khi mua cổ phiếu người mua không phải là người cho vay đối với công ty cổ phần, mà là một trong số những người chủ của công ty đó. Nhưng trên thực tế, việc bỏ vốn ra mua cổ phiếu chẳng qua là việc chuyển hoá vốn đó thành vốn sinh lợi tức. Đứng về mặt kinh tế thuần tuý, thì không thể coi cổ đông với người cho vay là một, người cho vay đòi hỏi phải có người đi vay và đối lập với người đi vay. Trái lại sự xuất hiện của công ty cổ phần có nghĩa là thủ tiêu người vay và thay vào đó bằng người quản lý, lợi tức cho vay được thay bằng lợi nhuận doanh nghiệp với tư cách là thu nhập do quyền sở hữu đem lại, lợi tức cổ phần mà cổ đông nhận được có nghĩa là lợi nhuận chuyển hoá thành hình thái lợi tức. Như vậy công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp mới, một loại hình doanh nghiệp được phát triển trên cơ sở tín dụng.
Qua phân tích ở trên cho phép chúng ta kết luận rằng: Công ty cổ phần là quá trình kinh tế tất yếu khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường, nó là kết qủa tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản. Với những đặc điểm của mình, công ty cổ phần trở thành một mô hình tổ chức sản xuất phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới.
I. 2: Thực trạng DNNN trước khi thực hiện cổ phần hoá
DNNN ở nước ta ra đời và hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung với một thời gian dài. Mặt khác, do hình thành từ những nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các DNNN ở Việt Nam có những đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, những đặc trưng này bao gồm:
Một là, quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn.
Hai là, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu (từ 2-3 thế hệ, cá biệt tới 5-6 thế hệ), trừ một số rất ít (18%) số DNNN được đầu tư mới đây (sau 1986), phần lớn các DNNN đã được thành lập khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp. Vì vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh cả trong nước lẫn quốc tế của DNNN rất yếu, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động, khả năng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Ba là, việc phân bổ còn bất hợp lý về ngành và vùng
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, các DNNN không còn được bao cấp mọi mặt như trước đây, mặt khác lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt, nên nhiều DNNN không trụ nổi, dẫn đến phá sản, giải thể.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm qua tương đối cao và ổn định, đặc biệt là các DNNN vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nhiều ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, then chốt, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, kỹ thuật công nghệ cao và thông qua đó Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các Tổng công ty 90, 91. Đồng thời DNNN vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần, các DNNN cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định:
Một là, trước khi thực hiện cổ phần hoá DNNN, nước ta có khoảng gần 6.000 DNNN, nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, chỉ có khoảng 50% DNNN là có lãi, trong đó thực sự làm ăn hiệu quả và có triển vọng lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế DNNN nộp ngân sách chiếm 80-85% tổng số thu nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được trên 30% Ngân sách Nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí, tài sản cố định và đát theo giá thị trường thì các DNNN hầu như không tạo ra được tích luỹ. Điều đó có nghĩa là hoạt động của DNNN không tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó cũng như không tương xứng với tiềm lực của chính DNNN.
Hiệu quả kinh tế, mức sinh lợi của đồng vốn thấp. Tỷ lệ doanh nghiệp bị thua lỗ còn khá cao. Năm 1996, tỷ lệ này lên tới hơn 22% tổng số DNNN và phần lớn là doanh nghiệp thuộc các địa phương quản lý. Các DNNN thuộc địa phương quản lý do chưa tìm được nguồn thanh toán nợ và giải quyết chế độ cho người lao động nên một số doanh nghiệp đang thua lỗ nặng nề vẫn tồn tại trên danh nghĩa (sáp nhập thì không doanh nghiệp nào muốn nhận, giải thể thì khó giải quyết chế độ, chính sách đối với người lao động ). Không ít tình trạng lâm vào cảnh phá sản, nhưng doanh nghiệp, chủ nợ và cấp quản lý doanh nghiệp đều không muốn tuyên bố phá sản.
Hai là, việc sắp xếp các DNNN vẫn chưa khắc phục được một cách triệt để những nhược điểm cơ bản về cơ cấu. Số lượng doanh nghiệp tuy được đăng ký lại nhưng thua lỗ vẫn còn lớn, nợ quá hạn không có khả năng thanh toán còn khá cao.
Nhiều DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong chính khu vực DNNN với nhau. Sự liên kết, hợp tác giữa các DNNN với nhau và giữa DNNN với các thành phần kinh tế khác còn nhiều yếu kém và chưa thành nề nếp.
Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng, vốn hoạt động trong thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách kế toán, riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào hoạt động sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi, tài sản, vật tư kém phẩm chất, mất mát và lỗ chưa được xử lý, nếu có lợi nhuận thì phần lớn được dành để trả lãi ngân hàng. Và nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên DNNN không có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, khả năng cạnh tranh rất thấp.
Ba là, trình độ công nghệ còn lạc hậu. Tình hình này có phần do hậu quả nặng nề của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây và ảnh hưởng nghiêm trọng của chiến tranh. Máy móc, thiết bị đã quá lạc hậu, lỗi thời và hiện có đến 54,3% DNNN trung ương và 74% DNNN địa phương còn sản xuất ở trình độ thủ công. Chính điều này đã gây khó khăn cho việc tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm của DNNN.
Những yếu kém, tồn tại của DNNN trong quá trình hoạt động là kết quả của nhiều nguyên nhân nhưng tựu chung lại có thể kể đến những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đó là sự ảnh hưởng nặng nề của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đi đôi với nó là sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh. Tư tưởng muốn xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể, phủ nhận nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá. Khi nói đến kinh tế thị trường, nói đến lợi nhuận thì người ta thường đồng nhất với chủ nghĩa tư bản, xem thường các quy luật kinh tế khách quan. Từ đó dẫn tới hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các doanh nghiệp chỉ mang tính hình thức, các doanh nghiệp thực chất chỉ là người sản xuất, gia công cho Nhà nước chứ không phải là một cơ sở kinh doanh, không có quyền tự chủ thực sự trong kinh doanh. Chính điều này đã dẫn đến tính trì trệ, ỷ lại của DNNN, làm mất đi tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, đó là sự yếu kém của nền kinh tế mà chủ yếu là lực lượng sản xuất. Tuy các nguồn lực để phát triển sản xuất của nước ta có phong phú, song chủ yếu mới ở dạng tiềm năng. Để khai thác và sử dụng nguồn lực có hiệu quả cần phải có lượng vốn lớn, kỹ thuật công nghệ đồng bộ, hiện đại, đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý có năng lực, đông thời phải có trình độ tổ chức và quản lý thích hợp.
Thứ ba, trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng nhìn chung còn nhiều yếu kém. Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý chưa hoàn chỉnh, phần lớn vẫn là những văn bản pháp quy dưới luật, có nhiều quy định mâu thuẫn nhau. Trong hoạt động quản lý Nhà nước, tệ cửa quyền, quan liêu, tham nhũng vẫn hoành hành và có chiều hướng phức tạp, bên cạnh đó thủ tục hành chính còn gây phiền hà nhất định cho các doanh nghiệp và công dân. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhiều văn bản quản lý cũ đã lỗi thời, song chưa được huỷ bỏ, những văn bản mới có nhiều sơ hở nhưng không kịp thời sửa đổi nên đã bị lợi dụng phục vụ lợi ích trước mắt, cục bộ của cơ sở, ngành hoặc phục vụ lợi ích cá nhân, nhóm cá nhân gây nhiều tiêu cực, lãng phí nguồn lực và hạn chế kết quả của công cuộc đỏi mới.
Thứ tư, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng, Nhà nước còn chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các DNNN. Về mặt pháp lý, tài sản tiền vốn trong các DNNN thuộc sở hữu toàn dân, nhưng trên thực tế, tính chất toàn dân của sở hữu trong các DNNN bị hao mòn một cách nghiêm trọng.
Như vậy các DNNN ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Chính vì vậy việc đổi mới doanh nghiệp nói chung và các DNNN nói riêng là một trong những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách trong quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước. Qúa trình này được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau, trong đó cổ phần hoá là một trong những phương hướng quan trọng. Cổ phần hoá nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế, tác động tích cực đến đổi mới quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô; tạo điều kiện cho người góp vốn thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, nó còn là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới.
Tuy nhiên để đưa ra được những biện pháp nhằm đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá DNNN trong thời gian tới thì điều quan trọng và cần thiết là phải xem xét quá trình đã thực hiện, phân tích những kết quả đã đạt được cũng như những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong quá trình đó.
chương II: Thực trạng cổ phần hoá dnnn ở việtnam thời gian qua
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của việc cổ phần hoá DNNN, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đề ra chủ trương, chính sách cổ phần hoá một bộ phận DNNN ngay từ đầu những năm 1990, từng bước thực hiện và đổi mới cho phù hợp với từng giai đoạn của tiến trình cổ phần hoá. Đó là những Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành TW Đảng, Quốc hội và Nghị định, Quyết định, Chỉ thị hướng dẫn thực hiện của Chính phú.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII (tháng 11 năm 1991) đẫ nêu ra nhiệm vụ “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”.
Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá VIII ngày 26 tháng 12 năm 1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1991-1995 đã ghi:”Thí điểm việc cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanhđể rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển”.
Nghị quyết Hội nghị Đại biểu Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng1 năm 1994) chỉ rõ cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn cho các doanh nghiệp.
Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của DNNN (Số 10/NQ-TW) đã chỉ rõ:”…Tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán 1 tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên … và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp”.
Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN.
Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
Chỉ thị số 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy triển khai vững chắc cổ phần hoá DNNN.
Nghị định số 44/CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Chủ trương, chính sách cổ phần hoá đã được ban hành, vấn đề đặt ra là thực hiện như thế nào để đạt được kết quả mong muốn. Trước hết chúng ta hãy xem xét mục tiêu cụ thể của việc thực hiện cổ phần hoá DNNN.
2. Mục tiêu cổ phần hoá DNNN
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển DNNN thành các công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Như vậy một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hoá là để doanh nghiệp thu hút vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước vào hoạt đọng sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển doanh nghiệp. Một mặt nó sẽ góp phần tháo gỡ sức ép cho Ngân sách Nhà nước, mặt khác doanh nghiệp cổ phần có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh, đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, gắn trách nhiệm với lợi ích của chính người lao động nên sẽ thúc đẩy tăng hiệu quả kinh doanh.
Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người lao động được thật sự làm chủ doanh nghiệp. Lợi ích của người lao động gắn chặt với hiệu quả hoạt động của chính công ty, do đó người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, làm việc cho chính bản thân mình, bên cạnh đó đòi hỏi Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc cũng phải thật sự năng động, sáng tạo trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Thực hiện cổ phần hoá sẽ khắc phục được tình trạng buông lỏng trong quản lý, tình trạng “vô chủ” của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng các nguồn lực cho hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường. Mặt khác cổ phần hoá DNNN sẽ tạo cơ sở thúc đẩy quá trình ra đời, hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, cổ phần hoá DNNN sẽ giúp cho DNNN đổi mới toàn diện cả về phương thức quản lý, giải pháp về vốn, công nghệ, sản phẩm, khả năng cạnh tranh, hiệu quả hoạt động để tồn tại và phát triển theo thời gian, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Kết quả thực hiện cổ phần hoá DNNN
Từ giữa năm 1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã có Quyết định về thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần nhưng trong thời gian này vẫn chưa có doanh nghiệp nào thực hiện chuyển đổi.
Trước tình hình đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 84/TTg về tiếp tục thí điểm chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Qua 4 năm thực hiện (1992-1996) đã có 5 DNNN chuyển thành công ty cổ phần.
Tiếp đến ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP dể đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cổ phần hoá DNNN đặt ra. Kết quả là cuối năm 1997 chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 13 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp cổ phần lên 18. Năm 1998 là năm đầu tiên Thủ tướng Chính phủ đề ra chỉ tiêu cụ thể cho nhiệm vụ cổ phần hoá, tuy nhiên việc triển khai vẫn rất chậm chạp. Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Tính đến cuối năm 1998 cả nước đã có 116 DNNN chuyển thành công ty cổ phần.
Theo kế hoạch của Chính phủ thì trong năm 1999 tối thiểu phải hoàn thành cổ phần hoá ở 400 DNNN. Trong vòng 7 tháng đầu năm 1999 cả nước mới cổ phần hoá được 80 doanh nghiệp, nâng tổng số DNNN được cổ phần hoá lên 200.
Những công ty đã cổ phần hoá hoạt động đều có lãi, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu đều đạt cao hơn trước. Nhìn chung:
- Vốn điều lệ (kể cả vốn của Nhà nước ): tăng bình quân 19,06%/năm
- Doanh thu: tăng bình quân 46%/năm
- Lợi nhuận: t ăng bình quân 44%/năm
- Các khoản nộp Ngân sách: tăng bình quân 82%/năm
Số lao động làm việc tại công ty cổ phần: tăng bình quân 14,3%/năm
Ngoài ra người lao động có cổ phần trong công ty còn được chia lợi tức trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế từ 22-24%/năm.
Dưới đây là một số DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần:
TT
Tên công ty
Năm chuyển
đổi
Tổng số vốn điều lệ (tr đ)
Cơ cấu
Tỷ lệ vốn Nhà nước
Tỷ lệ vốn CBCNV
(%)
Tỷ lệ vốn cổ đông ngoài
1
C.ty xe khách Hải Phòng(TP HP)
1996
1926
30
70
0
2
C.ty K.thác đá Đồng Giao(Bộ GT )
1996
3200
49. 8
30. 7
19. 5
3
Công ty đầu tư SX và TM (Hà Nội)
1996
356
0
100
0
5
XN tàu thuyền B.Định(Bình Định)
1996
1150
51
19
30
6
XN ong mật Tp Hồ Chí Minh
1996
2500
30
18. 5
51. 5
7
Khách sạn Sài Gòn (TP HCM)
1997
18000
40
40
20
8
XN sơn Bạch Tuyết(Tp HCM)
1997
20000
35
45
20
9
Công ty bông Bạch Tuyết (HCM)
1997
11400
30
57
13
10
CTCP vận tải thuỷ Hải Dương
1998
2863
45. 7
54. 3
0
11
Cáp và vật liệu BCVT (TCT BCVT)
1998
4900
10
41
49
12
CTCP Thanh Tân TT Huế (TT-Huế)
1998
1800
22. 7
28. 2
49. 1
13
CTCP gạch ngói PhốPhong(Q.Ngãi)
1998
875
37. 5
31. 25
31. 25
14
CTCP Hải Âu(Hải Phòng)
1998
1282
15
57. 9
27. 7
15
CTCP SaFi (TCT Hàng Hải )
1998
5692
15
40
45
16
CTCP Chè Bảo Lộc (Lâm Đồng)
1998
5280
50
19
31
Qua thực tế hoạt động, các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần đều cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhờ hiệu quả được nâng cao nên tăng thêm được việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông (trong đó có cổ đông Nhà nước và người lao động) cỏ đông vừa được hưởng cổ tức ở mức cao, vừa được tăng giá trị vốn góp tại công ty. Nhà nước ngoài việc được tăng trưởng vốn góp, được chia cổ tức, các khoản nộp Ngân sách Nhà nước cũng tăng nhanh. Tuy nhiên cho tới nay quá trình cổ phần hoá còn diễn ra khá chậm chạp, chưa đạt được chỉ tiêu mà Chính phủ đã đề ra, có thể đề cập tới một số nguyên nhân của việc thực hiện cổ phần hoá còn chậm chạp như sau:
Thứ nhất, thiếu quyết tâm ở cấp lãnh đạo. Cán bộ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp còn chưa thật quyết tâm cổ phần hoá, kể cả lãnh đạo chính quyền cơ sở. Hầu như ở nhiều nơi nhiều người còn quá luyến tiếc cơ chế bao cấp, đặc biệt là các giám đốc kém năng lực điều hành kinh doanh, ham hưởng thụ cá nhân, sống dựa dẫm vào cấp trên, sợ đối mặt với thị trường và sức ép của cổ đông nên chần chừ, trì hoãn kéo dài tiến độ cổ phần hoá. Bên cạnh đó lại có một số cán bộ trung gian, cấp sở, tổng công ty vì lợi ích cá nhân đã không muốn cho doanh nghiệp trực thuộc được cổ phần hoá, nên tiến trình thực hiện càng khó khăn.
Thứ hai, công tác chỉ đạo cổ phần hoá còn chậm và lúng túng. Hệ thống văn bản điều chỉnh và hướng dẫn thực hiện còn thiếu đồng bộ, rõ ràng, thiếu tính thực tế, không tính hết được những diễn biến có thể xảy ra trong quá trình cổ phần hoá. Quy trình cổ phần hoá còn rườm rà, phức tạp, tốn kém và gây nản chí cho cơ sở.
Thứ ba, gặp nhiều khó khăn trong việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp được cổ phần hoá. Trong quá trình thực hiện các bước cổ phần hoá, một trở ngại lớn là khâu xác định giá trị doanh nghiệp. Vì trong thời kỳ trước, DNNN được quản lý thiếu chặt chẽ, các văn bản pháp lý về quản lý tài sản chưa được quy hoạch và xác lập rõ nên khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá thì rất lúng túng, có những tài sản không có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu. Bên cạnh đó là vấn đề xử lý nợ trước khi cổ phần hoá vì khó khăn cơ bản là doanh nghiệp đang thiếu vốn.
Thứ tư, người lao động chưa thực sự tin tưởng vào cổ phần hoá. Một khó khăn đối với người lao động là tiền để mua cổ phần vì người lao động trong các DNNN tuy thu nhập được nâng cao nhưng tài sản tích luỹ thì không đáng kể. Hơn thế nữa người lao đọng băn khoăn liệu sau cổ phần hoá việc làm sẽ như thế nào? Có tiếp tục công việc cũ hay chuyển công việc mới, hay phải đào tạo lại hoặc mất việc làm. Đồng thời họ băn khoăn về vấn đề thu nhập sau cổ phần hoá và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, công tác tuyên truyền vận động DNNN và người lao động trong các doanh nghiệp, các cổ đông ngoài doanh nghiệp chưa được sâu rộng, nhiều cán bộ quản lý doanh nghiệp nằm trong diện cổ phần hoá cũng không nghiên cứu tìm hiểu, hoặc chưa được học tập đầy đủ những chủ trương chính sách cụ thể nên rất bỡ ngỡ, người ngoài doanh nghiệp thì chưa hiểu đầy đủ về doanh nghiệp để tham gia góp vốn cổ phần.
Thứ năm, đó là đất nước còn nghèo, lượng tiền tích luỹ trong đân cư còn thấp và người dân chưa có thói quen đầu tư bằng cách mua cổ phiếu. Mặt khác thị trường vốn chưa phát triển, thị trường chứng khoán chưa hình thành nên chưa có những phương thức thích hợp để giao dịch cổ phiếu, hạn chế quá trình cổ phần hoá.
Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh quá trình
cổ phần hoá DNNN
Xuất phát từ vấn đề thực trạng DNNN, những đặc điểm trong hoạt động của công ty cổ phần và những yêu cầu đối với DNNN trong thời kỳ mới đã đặt ra sự cần thiết phải đổi mới DNNN, trong đó thực hiện cổ phần hoá là 1 biện pháp quan trọng. Mặc dù đã có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao và triển khai thực hiện trong một thời gian nhất định nhưng kết quả cổ phần hoá DNNN chưa đạt được như mong muốn. Để công tác cổ phần hoá DNNN có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực hơn nữa nhằm củng cố hệ thống DNNN, huy động toàn bộ nguồn lực cho phát triễn kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thiết nghĩ trong thời gian tới cần thực hiên tốt các công việc sau:
Một là, xác định rõ những DNNN thuộc diện cổ phần hoá, cả ở trung ương và địa phương, đồng thời xây dựng tiến độ thực hiện cụ thể. Cần căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, vào mức độ quan trọng và sự cần thiết phải duy trì để đáp ứng những mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng để xác định những DNNN thuộc diện Nhà nước đầu tư 100% vốn, từ đó có kế hoạch và biện pháp củng cố để xây dựng thành những tập đoàn kinh tế của đất nước. Những DNNN còn lại tuỳ vào lĩnh vực hoạt động cũng như khả năng tồn tại, phát triển mà có thể thực hiện cổ phần hoá, giao bán, khoán hoặc giải thể, phá sản doanh nghiệp.
Hai là, ban hành đồng bộ và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lí bình đẳng, thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp thuộc các loại hình trong nền kinh tế. .Nhà nước cần phải ban hành đồng bộ hệ thống pháp luật làm căn cứ pháp lí cho việc sắp xếp, tổ chức lại việc quản lí các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh mới. .Đồng thời, pháp luật cần phải quy định rõ ràng, dứt khoát, có tính hiệu lực pháp lí cao và tránh chồng chéo, mâu thuẫn nhau.
Ban hành và hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp luật về thuế, để thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, trở thành nguồn thu c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35126.doc